Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT HỌC (ĐẦY ĐỦ CHI TIẾT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 109 trang )

Đề cương Triết học

TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC .............................................. 2
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT ............................................................................................... 5
VẬT CHẤT VÀ VẬN ĐỘNG ........................................................................................ 8
PHẠM TRÙ Ý THỨC ................................................................................................... 13
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ..................................................... 16
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỚI TÍNH CÁCH LÀ KHOA HỌC VỀ MỐI LIÊN
HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN. .............................................................................. 19
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT .................. 23
NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN .......................................................................... 33
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ....................................................................... 33
LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN .................................... 47
PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI ........................................................... 59
BIỆN CHỨNG CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT ........ 61
BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG .......... 65
PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ ...................................................... 68
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ. ............................................................ 68
GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP .................................................................... 74
CÁCH MẠNG XÃ HỘI ................................................................................................ 79
VẤN ĐỀ CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI ............................................................................... 86
Ý THỨC XÃ HỘI ......................................................................................................... 90

1


Chủ đề 1
TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
Đặt vấn đề:
Khái niệm Triết học
Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là


học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con
người đối với thế giới, là quy luật của những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và của tư duy. Với tư cách là một hình thái ý thức quan trọng nhất và cổ xưa nhất.
* Vậy triết học là gì?
Khái qt lại có thể hiểu: "Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới; về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy"
Tất cả những điều trên cho thấy: "Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của
thực tiễn", nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
* Vậy đối tượng nghiên cứu của Triết học là gì?
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề
chung nhất của tự nhiên, của xã hội và của con người, mối quan hệ của con người nói
chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
1. Vấn đề cơ bản của triết học.
Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại"
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường
phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học. Giải quyết được vấn đề cơ
bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các
vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan
2


của các triết gia và các học thuyết của họ. Tựu chung lại vấn đề cơ bản của triết học
gồm hai mặt là bản thể luận và nhận thức luận.
1.1. Bản thể luận:
Trả lời mặt thứ nhất là trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có trước,

cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?, việc trả lời câu hỏi này cho chúng ta biết
được lập trường triết học của người nói là duy vật, duy tâm hay nhị nguyên.
Trường phái triết học DV cho rằng VC có trước YT, VC tồn tại khách quan, độc lập
với YT và quyết định YT. YT phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
* Chủ nghĩa duy vật:
+ CNDV chất phác: là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Đại
diện là Đêmôcrit, Hêraclit... Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính
thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những
kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác.
+ CNDV siêu hình: là hình thức cơ bản thứ hai của CNDV, thể hiện khá rõ ở các nhà
triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ XVII, XVIII. Chủ nghĩa
siêu hình có 3 trung tâm lớn là Anh (Bêcơn, Hôpxơ, Lôcơ), Hà Lan, và Pháp
Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp
tục phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, CNDV giai đoạn này chịu sự tác động
mạnh mẽ của của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới
như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó ln ở trong trạng thái biệt lập
và tĩnh tại.
+ CNDV biện chứng: là hình thức cơ bản thứ ba của CNDV do C. Mác và Ph. Ăngghen
xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin phát triển. Với sự
kế thừa các học thuyết triết học trước đó và sử dụng thành tựu của khoa học đương
thời. Ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất
phác thời cổ đại.
* Chủ nghĩa duy tâm

3


+ CNDT chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. CNDT chủ quan
khảng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của
chủ thể. Đại diện cho trường phái này là Béccơli, Hium, Fichtê. Béccơli.

+ CNDT khách quan: mà đại diện là Platon, Hêghen...cũng thừa nhận tính thứ nhất của
ý thức nhưng theo họ đấy là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với
con người.
Như vậy trong lịch sử tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng
suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học cũng là lịch sử đấu tranh của hai trường phái này.
1.2. Nhận thức luận: trả lời câu hỏi con người có thể nhận thức được thế giới hay
không ?
Thuyết khả tri: Tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) đều trả lời một
cách khảng định rằng con người có thể nhận thức được thế giới.
Thuyết bất khả tri(không thể biết): Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức
của con người được gọi là thuyết bất khả tri (không thể biết).

4


Chủ đề 2
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
Câu 1. Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác. Định nghĩa của Lênin về
vật chất.
Đặt vấn đề:
Chủ nghĩa duy vật cho rằng, vật chất là cái có trước (tính thứ nhất), ý thức là cái
có sau (tính thứ hai), vật chất quyết định ý thức. Vật chất là một trong những phạm trù
cơ bản, là nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1. Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi
tồn tại là một bản nguyên tin thần nào đó, có thể là "ý chí của thượng đế" là "ý niệm
tuyệt đối"...
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái
tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính

của chúng.
Vào thời cổ đại: Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật chất là thuyết
ngun tử của Lơxíp và Đêmơcrit. Nguyên tử là các phần tử cực nhỏ, cứng, không thể
xâm nhập được, khơng cảm giác được. Ngun tử có thể nhận biết được bằng tư duy.
Thời kỳ phục hưng: Khoa học phát hiện ra nguyên tử, các tư tưởng của Lơxíp và
Đêmơcrit được Galilê, Đềcáctơ, Niutơn...khảng định và phát triển, nhưng họ vẫn đồng
nhất vật chất với nguyên tử.
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khi phát hiện những phát minh mới trong khoa
học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản hơn, sâu sắc hơn về nguyên
tử.
Những phát hiện đó là bước tiến mới của loài người trong việc nhận thức và làm
chủ thế giới tự nhiên, nó bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất.
Sự phát triển của khoa học và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm đòi hỏi
các nhà duy vật phải có quan điểm đúng đắn hơn về vật chất qua định nghĩa kinh điển
về vật chất của V.I. Lênin.
5


2. Định nghĩa vật chất của Lênin
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác cuả chúng ta sao chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
Ở định nghĩa này. V.I Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết là phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học dùng để chỉ
vật chất nói chung, vơ hạn, vơ tận, khơng sinh ra, khơng mất đi; cịn các đối tượng, các
dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để
chuyển hóa thành cái khác.
Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính là thuộc tính khách quan. Khách quan theo V.I.Lênin là "cái đang tồn tại độc lập
với loài người và với cảm giác con người". Trong đời sống xã hội, vật chất "theo ý

nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về mặt nhận
thức luận thì khái niệm vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn "thực tại khách quan tồn
tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh."
Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngồi ý thức và khơng phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác
động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của Lênin có nhiều ý nghĩa to
lớn.
+ Khi khảng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác"; "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Và khi khảng định vật chất là
cái "được cảm giác của chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh" Lênin muốn nhấn
mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau, con người có thể nhận thức
được thế giới vật chất. Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm của
chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những hạn chế
6


trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất. Đồng thời định nghĩa
vật chất của Lênin cịn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm
kiếm các dạng hoặc các hình thức của vật thể trong thế giới. Từ đó giúp các nhà khoa
học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội,
những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy,
người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.

7



Chủ đề 3
VẬT CHẤT VÀ VẬN ĐỘNG
2. Vật chất
a) Lược khảo các quan điểm trước Mác về vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của
mọi tồn tại là một bản ngun tinh thần nào đó, có thể là "ý chí của Thượng đế" là "ý
niệm tuyệt đối", v.v..
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái
tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc
tính của chúng.
Vào thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung
với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại
ở thế giới bên ngoài.

và cho rằng thế giới V.C là những hạt ngun tử, đó là các phần tử

cực nhỏ, cứng, khơng thể xâm nhập được, không cảm giác được. Nguyên tử có thể
nhận biết được bằng tư duy.
Sự phát triển của khoa học và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm địi hỏi
các nhà duy vật phải có quan điểm đúng đắn hơn về vật chất qua định nghĩa kinh
điển về vật chất của V.I. Lênin.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin đã định nghĩa:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
Ở định nghĩa này, V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói

chung, vơ hạn, vơ tận, khơng sinh ra, khơng mất đi; cịn các đối tượng, các dạng vật
chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa
8


thành cái khác. Vì vậy, khơng thể quy vật chất nói chung về vật thể, khơng thể đồng
nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong
lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật
chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo V.I.Lênin là "cái đang tồn tại
độc lập với loài người và với cảm giác của con người"2. Trong đời sống xã hội, vật
chất "theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người".
Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn: "thực tại
khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên
giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V. I. Lênin :
- Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa nhận
rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh", V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng con người có thể nhận thức
được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được
những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất.
Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin cịn có ý nghĩa định hướng đối với

khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong
thế giới.
- Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của
V.I.Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp
9


các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các
biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên
cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát
triển.
3. Những phương thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, không gian, thời gian.
a) Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự
thay đổi vị trí trong khơng gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất)
mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Ph. Ăngghen viết "Vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"1.
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu
của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất"2. Điều này có nghĩa là vật chất
tồn tại bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình, Một khi chúng ta nhận thức được những hình
thức vận động của vật chất, thì chúng ta nhận thức được bản thân vật chất.
- Nhờ vận động mà V.C được biểu hiện mình là cái ji. Ko có V.C ko vận động và
ngược lại.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động
thành 5 hình thức cơ bản. Đó là:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).

- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử,
các quá trình nhiệt điện, v.v.).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các q trình hóa hợp và phân
giải các chất).
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế
10


- xã hội).
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương
ứng với trình độ của các kết cấu vật chất.
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao
hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức
vận động thấp khơng có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao
hơn. Bởi vậy, mọi sự quy giản các hình thức vận động thấp đều là sai lầm.
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận
động khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc
trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Khi triết học Mác - Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận
động vĩnh cửu của nó, thì điều đó khơng có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im
của thế giới vật chất. Trái lại, triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, q trình vận
động khơng ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà cịn bao hàm
trong nó hiện tượng đứng im. Đứng im, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, là
một trạng thái đặc biệt của vận động - vận động trong cân bằng, nghĩa là những tính
chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời.
Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một
mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ hai,

đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ khơng
phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện
của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định
tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó cịn là nó chưa bị phân hóa
thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển
hóa tiếp theo. Khơng có đứng im tương đối thì khơng có sự vật nào cả. Do đó, đứng
im cịn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn
ổn định, chưa thay đổi.
11


Đứng im là tạm thời vì vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật,
hiện tượng ổn định nào đó, cịn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi.
Ph.Ăngghen chỉ rõ "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng,
vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt" và "mọi sự cân bằng chỉ là tương
đối và tạm thời".

12


Chủ đề 4
PHẠM TRÙ Ý THỨC
Câu 1: Quan niệm của triết học duy vật biện chứng về ý thức. Nguồn gốc và bản
chất của ý thức.
1. Quan niệm của triết học duy vật biện chứng về ý thức.
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trị của ý thức
ln là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Trên cơ sở những thành tựu của triết học duy vật, cuả khoa học,
cuả thực tiễn xã hội, triết học Mác - Lênin góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức là "Ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan"
Giải quyết một cách duy vật và biện chứng về ý thức, đặt tư duy trong mối quan
hệ với tồn tại, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng về vấn đề cơ bản của triết học để
xem ý thức (tính thứ hai).
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức.
2.1. Nguồn gốc
Có thể khái quát ý thức có hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã
hội.
* Nguồn gốc tự nhiên.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra vật
chất, chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất.
Các nhà duy vật trước Mác đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên của chủ
nghĩa duy tâm, khơng thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, đã chỉ ra mối liên
hệ khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có trước ý thức, ý thức phụ
thuộc vào vật chất.
- Ý thức ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của các hình thức phản
ánh của thế giới vật chất.

13


Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình
tác động qua lại của chúng.
+ Phản ánh thế giới vô cơ: Phản ánh vật lý được biểu hiện qua những biến đổi cơ, lý,
hóa dưới những hình thức biểu hiện cụ thể như thay đổi vị trí, biến dạng và phá hủy.
+ Phản ánh thế giới hữu cơ: Phản ánh sinh học, đặc trưng cho giới tự nhiên sống là
bước phát triển mới về chất trong sự tiến hóa của các hình thức phản ánh.

* Nguồn gốc xã hội.
Lao động: Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu của con người để tồn tại.
Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao
động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động con người tách ra khỏi giới
động vật. Chính thơng qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà
con người có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Ngơn ngữ: do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngơn ngữ là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Khơng có ngơn ngữ thì ý thức khơng thể
tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời
là công cụ của tư duy nhằm khái qt hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngơn ngữ mà
con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
2.2. Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc
lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý
thức sinh ra vật chất chứ không phải sự không phải là sự phản ánh của vật chất. Còn
các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản
ánh sự vật đó. Tuy nhiên, do bị ảnh hưởng quan niệm siêu hình - máy móc nên họ đã
coi ý thức là sự phản ánh sự vật một cách thụ động, giản đơn, máy móc, mà khơng thấy
được tính năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh.
Đ/n: Khác với quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý
luận phản ánh: về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
14


bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn vật chất là cái được phản ánh. Vật
chất tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức.
Khi nói cái phản ánh (tức là ý thức) là hình ảnh chủ quan cuả thế giới khách quan,

thì khơng phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý thức là của
con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Ý thức ra đời
trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang
tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo C. Mác, ý
thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi trong đó".
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá
trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người là q trình năng động sáng
tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là: trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thơng tin cần thiết.
Hai là: mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất, đây là quá trình "sáng tạo lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là: chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực
hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến cái
ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất người hiện thực. Trong giai
đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào
hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

15


Chủ đề 5
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
- Dưới góc độ nhận thức luận
- Trong hoạt động thực tiễn
1. Định nghĩa vật chất, ý thức
Đ/n: Vật chất của Lênin.
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem

lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Ở đây Lênin phân biệt vật chất với tính cách là một phạm trù triết học nó chỉ tất
cả những gì tác động vào ý thức chúng ta, giúp hiểu về sự vật hiện tượng, là thực tại
khách quan, tồn tại bên ngồi khơng lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người.
Đ/n: Ý thức:
"Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan"
Bản chất ý thức:
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức
con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Theo C. Mác, ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó".
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản
ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai
mặt thuộc bản chất ý thức. Ý thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con
người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
Ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt
động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy
luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con
người quy định. Ý thức mang bản chất xã hội.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức dưới góc độ nhận thức luận
16


Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức thì vật chất
có trước (tính thứ nhất), ý thức có sau (tính thứ hai), vật chất quyết định ý thức khi
thừa nhận vật chất tồn tại bên ngồi và độc lập với ý thức, thì sự nhận thức thế giới
phải xuất phát từ thế giới khách quan.
Cùng với sự phát triển của hoạt động biến đổi thế giới, ý thức của con người

phát triển song song với q trình và có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với
vật chất. Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của quá trình hiện thực.
Chủ nghĩa duy tâm khảng định rằng trong bất kỳ trường hợp nào, ý thức bao giờ
cũng là sự phản ánh thế giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo trong
phản ánh và theo khuôn khổ của của sự phản ánh, hơn nữa, tự thân ý thức không thể
gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực. Ý thức muốn tác động lại đời sống
hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong
thực tiễn.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người,
được bắt đầu từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động.
Ý thức trang bị cho con người những tri thức về bản chất của các quy luật khách quan
của đối tượng - giúp con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng
hoạt động phù hợp.
Con người với ý thức của mình xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra các biện
pháp để tổ chức các họat động thực tiễn.
Nói đến tính tích cực của ý thức tức là nói đến con người, đến hoạt động có mục
đích của con người, bằng tính tích cực có thể thúc đẩy và có thể kìm hãm ở một mức
độ nhất định sự tồn tại (ý thức) và ngược lại
Tóm lại: Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng thì vật chất bao giờ cũng có vai trị quy định ý thức nhưng ý thức lại có tác động
trở lại đối với vật chất, nên quan hệ tác động qua lại này diễn ra thơng qua hoạt động
của con người. Chính vì thế nâng cao vai trị của ý thức chính là nâng cao năng lực
nhận thức các quy luật và vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn của con người.
17


18



Chủ đề 6
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỚI TÍNH CÁCH LÀ KHOA HỌC VỀ MỐI LIÊN
HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
a. Khái niệm: Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có
khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể
tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
theo quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khảng định
rằng "liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới"
b. Các tính chất của mối liên hệ:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản:
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan: của mối liên hệ phổ biến biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có
của mọi sự vật, hiện tượng; nó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến: của mối liên hệ phổ biến biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những
sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành
phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố
khác.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng
khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện
khác nhau. Có thể chia ra các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối
liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu... Các mối liên hệ này có vị
trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận.
19



Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về phương
pháp luận sau:
- Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn
diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không
gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động
vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó,
sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là
luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong
điều kiện khác.
2. Nguyên lý về sự phát triển.
a. Khái niệm phát triển.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khảng định nguồn gốc của
sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy
định. Q trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là q
trình tự thân phát triển của mọi sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện
thực, quan điểm duy vật biện chứng khảng định: "phát triển là một phạm trù triết học
dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật ".
b. Tính chất của sự phát triển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính
chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.


20


- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Vì nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là q trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn
nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật ln ln phát triển. Vì
thế sự phát triển là tiến trình khách quan, khơng phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó
diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của
thế giới khách quan.
- Sự phát triển cịn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, hiện tượng lại có q trình phát triển khơng
giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ
khác nhau. Đồng thời trong q trình phát triển của mình, sự vật cịn chịu sự tác động
của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều các yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đơi khi có thể là thay đổi chiều
hướng phát triển của sự vật, thậm chí là cho sự vật bị thụt lùi.
c. Ý nghĩa phương pháp luận.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó
con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung của sự
phát triển.
Quan điểm phát triển địi hỏi khơng chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự
vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy
được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính thụt lùi. Song điều cơ bản
là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển cịn phải biết phân chia q trình phát
triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận
thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm

hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống
của con người.
21


22


Chủ đề 7
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Đặt vấn đề:
Phép biện chứng duy vật có 3 quy luật : Quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập, quy luật lượng - chất, quy luật phủ định của phủ định. Đó chính là ba
hình thức, cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.
V.I. Lênin cho rằng "Khái niệm quy luật là một trong những giai đoạn của sự
nhận thức của con người về tính thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và
tính chỉnh thể của q trình thế giới".

1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật là: những mối quan hệ, thuộc tính cơ bản nhất, thường xuyên lặp đi lặp lại ở
sự vật, hiện tượng.
a. Khái niệm chất và lượng.
* Khái niệm chất.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
"Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ khơng phải
là cái khác".
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng khơng phải

bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc
tính cơ bản và thuộc tính khơng cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo
thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển
của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
* Khái niệm lượng
23


"Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính của sự vật".
Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật là nó, chưa làm
cho nó khác với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và cũng có
tính khách quan như chất cuả sự vật.
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính
quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại
biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
b. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
* Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa các mặt chất và
lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng khơng bao
giờ tồn tại, nếu khơng có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời
nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và
ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó. Ở
một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi
cơ bản. Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt q giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ
mất đi, chất mới sẽ thay thế chất cũ. Khơng giới hạn đó là độ.
"Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về

lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy".
"Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật".
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
"Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên"

24


Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu
của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát
triển liên tục của sự vật. Có thể nói trong q trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn
là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
* Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy
thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà
những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng.
* Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng, phong phú với
những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết định bởi bản
thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian ngắn làm
thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất
đi.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy tồn bộ và

bước nhảy cục bộ.
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu
tố riêng lẻ của sự vật.
Từ những phân tích ở trên có thể rút ra nội dung của quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại như sau: "Mọi
sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm
nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác
25


×