HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
-------------------------
TIỂU LUẬN
HP1 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
VẤN ĐỀ VỀ VIỆC TIẾP NHẬN VÀ GIẢNG DẠY LỊCH SỬ NGHỆ
THUẬT QUÂN SỰ TRONG MÔI TRƯỜNG HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY
Sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp GDQP&AN:
Lớp:
Hà nội, ngày 11 tháng 12 năm 2021
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU….................................................................................... 3
Tính cấp thiết của vấn đề..............................................................3
NỘI DUNG.................................................................................... 4
1. Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của tổ tiên ta… 4
1.1. Đất nước buổi đầu lịch sử........................................... 4
1.2. Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên...........................5
1.3. Những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược giành và
giữ độc lập từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X..........5
1.4. Những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược từ thế kỉ X
đến thế kỉ XVIII..........................................................6
2. Nghệ thuật quân sự của ông cha ta.................................... 6
3. Thực trạng hiểu biết về lịch sử nghệ thuật quân sự.........9
4. Một số giải pháp nâng cao mức độ hứng thú với lịch sử
nghệ thuật quân sự.............................................................. 14
KẾT LUẬN…............................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 18
MỞ ĐẦU
“Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc
Tính cấp thiết của đề tài
tích nước nhà Việt Nam”, đây là hai câu hào
hùng đã được Hồ Chủ tịch kính yêu của ta viết
để mở đầu cho bài thơ “Lịch sử Việt Nam”. Dù
thời gian chảy trơi vơ tình, người khơng cịn đó,
vạn vật đã khác xưa, nhưng câu thơ vẫn khơng
ngừng sống, ghim sâu vào trong tâm trí bao
người con Việt như để nhắc nhớ về những dấu
mốc vàng son trong lịch sử chống giặc, giữ
nước của dân tộc, của ông cha.
Trong quá khứ, đất nước ta đã từng phải
đối đầu với biết bao kẻ thù xâm lược lớn mạnh
hơn nhiều lần về mọi mặt, từ kinh tế cho đến
quân sự. Đã không biết bao
nhiêu lần, con dân An Nam bị đè nén dưới tầng
tầng áp bức, quân giặc coi thường nước Việt nhỏ
bé, người Việt yếu kém, lạc hậu. Nhưng cũng là
từng ấy lần, chúng ta cho thế giới thấy điều ngược
lại. Với lòng yêu nước, sáng dạ, mưu trí, quan
trọng hơn cả là tinh thần đồn kết, chung sức bền
lịng, cha ơng ta đã đánh đuổi sạch bóng quân thù,
viết
lên những trang sử hào hùng của dân tộc.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, tinh
thần yêu nước và nghệ thuật quân sự của nhân
dân ta lại được phát huy lên một tầm cao mới,
như mặt trời chói rọi giữa đêm trường thực dân
đen tối, dưới sự dẫn lối của Đảng, nhân dân ta đã
từng bước ra khỏi
chốn lầm than, vươn lên ngân ca khúc khát vọng
độc lập rạng ngời.
Từ trong thực
tiến chống giặc ngoại
xâm của dân tộc, đã
hình thành nên nghệ
thuật quân sự Việt
Nam, đó là nghệ thuật
chiến tranh nhân dân,
thực hiện toàn dân
đánh giặc. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng,
nghệ thuật qn sự
Việt Nam khơng
ngừng phát triển, góp
phần thiết thực vào
công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Vì vậy, là
người con máu đỏ, da
vàng, chúng ta có
trách nhiệm gìn giữ và
lan toả những giá trị
lịch sử hào hùng đầy
tự hào của dân tộc, ghi
nhớ bao dấu ấn thăng
trầm để thấy biết ơn,
trân trọng siết bao
nền độc lập, hồ bình
mà để có được nó
ơng cha ta đã phải
đánh đổi bằng máu, xương, mồ hôi và cả bao
giọt nước mắt.
NỘI DUNG
1. Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của tổ tiên ta
1.1.
Đất nước buổi đầu lịch sử
Cách đây mấy nghìn năm, từ khi các Vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử dân
tộc Việt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong chống
giặc ngoại xâm và yêu cầu thuỷ lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác động mạnh mẽ
đến sự hình thành của nhà nước trong buổi đầu lịch sử. Nhà nước Văn Lang là nhà
nước đầu tiên của nước ta, có lãnh thổ khá rộng và vị trí địa lí quan trọng, bao gồm
vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ ngày nay, nằm trên đầu mối những đường giao thông
qua bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á.
Nền văn minh sơng Hồng cịn gọi là văn minh Văn Lang, mà đỉnh cao là văn
hóa Đơng Sơn rực rỡ, thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương. Vào nửa sau
thế kỷ thứ III trước công nguyên, nhân sự suy yếu của triều đại Hùng Vương cuối
cùng, Thục Phán – một thủ lĩnh người Âu Việt đã thống nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu
Việt, thành lập nước Âu Lạc, dời đô từ Lâm Thao về Cổ Loa (Hà Nội). Nhà nước Âu
Lạc kế thừa nhà nước Văn Lang trên mọi lĩnh vực.
Do có vị trí địa lí thuận lợi, nước ta ln bị các thế lực ngoại xâm lược nhịm
ngó. Sự xuất hiện các thế lực thù địch và âm mưu thơn tính mở rộng lãnh thổ của
chúng là nguy cơ trực tiếp đe dọa vận mệnh đất nước ta. Do vậy, yêu cầu chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ độc lập và cuộc sống đã sớm xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta.
Người Việt muốn tồn tại, bảo vệ cuộc sống và nền văn hóa của mình chỉ có con đường
duy nhất là đoàn kết đứng lên đánh giặc, giữ nước.
1.2.
Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến
chống quân Tần. Đó là cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ, từ năm 214 đến 208 TCN
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Hùng và Thục Phán.
Sau cuộc kháng chiến chống Tần là cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc do
An Dương Vương lãnh đạo chống chiến tranh xâm lược của Triệu Đà, từ năm 184 đến
179 trước công nguyên, nhưng bị thất bại. Từ đây, đất nước ta rơi vào thảm họa hơn
một nghìn năm bị phong kiến Trung Hoa đơ hộ (thời kì Bắc thuộc).
1.3.
Những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược giành và giữ độc lập từ
thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X
+ Khởi nghĩa 2 bà Trưng mùa Xuân năm 40 giành và giữ được độc lập trong 3
năm.
+ Khởi nghĩa chống giặc Ngô do Triệu Thị Trinh lãnh đạo năm 248.
+ Khởi nghĩa Lý Bôn năm 542 lật đổ chính quyền của nhà Lương, năm 544, Lý
Bơn lên ngơi hồng đế (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.
+ Khởi nghĩa chống nhà Tuỳ của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687.
+ Khởi nghĩa chống nhà Đường của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722.
+ Khởi nghĩa của Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 766 - 791.
+ Khởi nghĩa chống Đường của Dương Thanh năm 819 - 820
+ Kháng chiến chống Nam Hán của Dương Đình Nghệ 930 - 931
+ Kháng chiến chống Nam Hán do Ngô Quyền lãnh đạo 938
1.4.
Những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược giành và giữ độc lập từ
thế kỉ X đến thế kỉ XVIII
+ Kháng chiến chống quân Tống lần 1 năm 981 do Lê Hoàn lãnh đạo.
+ Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2 1075 - 1077 của nhà Lý
+ Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của nhà Trần ở thế kỉ XIII
(Lần I năm 1258. Lần II năm 1285. Lần III năm 1288).
+ Kháng chiến chống Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo 1406 - 1007.
+ Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo 1418 – 1427.
+ Khởi nghĩa Tây Sơn và kháng chiến chống Xiêm 1784-1785, chống Mãn
Thanh 1788-1789.
2. Nghệ thuật quân sự của ông cha ta
Nói về sức mạnh quân sự Việt Nam, phải nói rằng điều đó đã trở thành nghệ
thuật. Với sự sáng tạo và tư duy quân sự tài ba, Việt Nam đã tạo nên những kỳ tích
trong lịch sử. Ơng cha ta luôn nắm vững tư tưởng tiến công, tiến công liên tục, mọi lúc
mọi nơi, từ cục bộ đến tồn bộ, coi đó như là một qui luật để giành thắng lợi. Đây được
xem như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ
nước. Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách
đánh, phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm cho
địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản công, tiến công.
Về mưu kế đánh giặc: Mưu là để lừa địch, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở, chỗ ít
phịng bị, làm cho chúng bị động, lúng túng đối phó. Kế là để điều địch theo ý định của
ta, giành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Kế sách đánh
giặc của ông cha ta khơng những sáng tạo mà cịn rất mềm dẻo, khơn khéo đó là “biết
tiến, biết thối, biết cơng, biết thủ”, biết kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với
binh vận, ngoại giao, tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến
cơng ln giữ vai trị quyết định. Ơng cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả
nước thành một chiến trường, tạo ra một “thiên la, địa võng” để diệt địch, làm cho
“đich đơng mà lại hố ít, địch mạnh mà hố yếu”, đi dến đâu cũng bị đánh, ln bị tập
kích, phục kích, lực lượng bị tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào tình trạng “tiến thối lưỡng
nan”
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc: Đây là một
trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta, được thể hiệncả trong
khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Hễ kẻ thù động đến nước ta thì “vua tơi đồng
lịng, anh em hồ mục, cả nước chung sức, trăm họ là binh”, giữ vững quê hương, bảo
vệ xã tắc. Nội dung cơ bản của thực hiện toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một
người lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thơn, xóm, bản, làng là
một pháo đài diệt giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân
dân liên hoàn, vững chắc làm cho địch đơng mà hố ít, địch mạnh mà hố yếu, rơi vào
trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy.”
Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh: Trên cơ
sở điều kiện thực tiễn chiến tranh ở nước ta: luôn phải chống lại các đội qn xâm lược
có qn số, vũ khí, trang bị lớn hơn ta rất nhiều lần thì đây là nét đặc sắc và tất yếu
trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều,
lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Ông cha ta đã sớm
xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh đó là: sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu
tố, chứ không đơn thuần là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham
chiến.
Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao
và binh vận: Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, qui tụ sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở tạo ra sức mạnh quân đội. Mặt trận quân sự là mặt
trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ phương tiện chiến tranh của
địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận
khác phát triển. Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của
nhân dân ta, phân hố, cơ lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận
ngoại giao kết hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến
tranh càng sớm càng tốt. Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc,
góp phần quan trọng để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh
Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn: Thời nhà Lý: trận
phòng ngự sơng Cầu (Như Nguyệt), đây là điển hình về kết hợp chặt chẽ hai hình thức
tác chiến phịng ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến thuật. Thời nhà
Trần: chống giặc Nguyên lần 2, Trần Quốc Tuấn đẫ tổ chức một cuộc rút lui chiến
lược, làm thất bại kế hoạch vây hợp của địch. Thời hậu Lê: khởi nghĩa Lam Sơn thắng
lợi, là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ chức và tiến hành các trận đánh
quyết định giữ một vai trò rất quan trọng. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ: Xác định
đúng phương châm tác chiến chiến dịch, thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh
nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”; Xây dựng thế trận chiến dịch vững
chắc, thực hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập ĐBP với các chiến trường khác;
Phát huy cao nhất sức mạnh tác chiến hợp đồng các binh chủng, tập trung ưu thế binh
hoả lực đánh dứt điểm từng trận then chốt; Vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch,
dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây hãm kết hợp với đột phá, kết hợp đánh chính
diện với các mũi thọc sâu, luồn sâu. tạo thế chia cắt địch. Trong kháng chiến chống Mĩ:
Nghệ thuật chiến dịch đã nâng lên một tầm cao mới. Nghệ thuật chiến dịch đã chỉ đạo
chiến thuật đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp, thủ đoạn tác chiến của
quân Mĩ, Nguỵ và chư hầu. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975, nghệ thuật chiến dịch có buớc nhảy vọt, được thể hiện: nghệ thuật tạo ưu thế lực
lượng, bảo đảm đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức manhj áp đảo địch trong chiến
dịch; Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đấnh chiến dịch (lần lượt và đồng loạt); Nghệ
thuật kết hợp tiến công với nổi dậy, phối hợp tác chiến 3 thứ quân….
3. Thực trạng hiểu biết về lịch sử nghệ thuật quân sự
Những trang sử vàng son oai hùng là vậy, nhưng đáng buồn là hiện nay, giới trẻ
đang dần trở nên thờ ơ với lịch sử nước nhà. "Kỳ thi THPT Quốc gia 2019 có 70%
số bài thi mơn Lịch sử dưới 5; 4.3 là điểm trung bình mơn, thấp nhất trong 9 mơn
thi.
Điểm trung bình mơn Lịch sử luôn thấp nhất trong mấy năm gần đây năm 2017 là
4.6; năm 2018 là 3.79". Đây được xem là những con số biết nói khiến nhiều người vơ
cùng bất ngờ thậm chí bàng hồng về chất lượng học sinh đối với môn Sử nhiều năm
trở lại đây. Từ khi nào, giới trẻ đã trở nên “ngán ngẩm” mỗi khi nhắc về Lịch sử?
Năm 2019, trong một cuộc thi tranh biện nổi tiếng được chiếu trên kênh VTV7
mang tên “Trường teen” đã từng có tranh luận về một quan điểm như thế này “Trong kì
thi THPT Quốc gia chúng tơi tin rằng học sinh khơng có lỗi khi điểm Lịch sử thấp.”
Bên ủng hộ, đại diện là cô bạn Minh Anh đến từ trường THPT Chuyên Nguyễn Tất
Thành (Yên Bái) đã đưa ra lập luận vô cùng sắc bén “Học sinh chỉ chán học lịch sử ở
trên trường chứ không học sinh nào chán lịch sử dân tộc!”. Tiếp sau đây chúng ta sẽ
bàn thêm về thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trong môi trường học đường, cũng
như nhận thức của giới trẻ về vai trò của việc hiểu biết lịch sử dân tộc.
Đúng là chúng ta không thể dùng điểm số để do lường sự hiểu biết lịch sử và
lòng tự hào dân tộc của học sinh, thế nhưng, trong môi trường học đường, môn Lịch sử
những giờ lên lớp là thời gian duy nhất để các em có thể tiếp cận thêm với tinh thần
anh hùng đã thổi hồn vào biết bao trận đánh trong trường kì kháng chiến cứu quốc, một
khoảng thời gian quý giá đến vậy, mà thay vì vun đắp niềm từ hào trong con trẻ, thứ
chúng ta thấy được lớn nhất lại là “nỗi sợ”. Mỗi giờ học Lịch sử trên trường gần như là
nỗi ám ảnh, “thầy chán dạy, trò chán học”, nhiều học sinh thẳng thắn bày tỏ “thấy học
Sử như bị tra tấn”.
Học sinh khơng thích học mơn Sử vì nó khơ khan, chán ngắt. Cuộc sống xã hội
muôn màu, muôn mặt, nhưng trong sách giáo khoa chỉ xoay quanh là những con số,
những cái tên, địa điểm vơ hồn, khó nuốt. Quyển sách giáo khoa THPT cũng chỉ là bản
rút gọn của cao đẳng, đại học, ngôn ngữ thể hiện trong sách cho cả trung học cơ sở hay
tiểu học đều giống nhau, mặc dù sự nhận thức và tầm hiểu biết là hoàn toàn khác nhau.
Nội dung sách thì qua bao năm cũng khơng nhận thấy sự thay đổi nào đặc biệt lớn lao
cả, thế hệ 9x cũng học những dịng thơng tin đó như thế hệ 10x và mãi đến thế hệ 1x
sau này có lẽ vẫn là vậy, mặc dù mỗi thế hệ đều có bối cảnh sống khác nhau nên cách
tiếp cận vấn đề tất nhiên cũng không thể cùng một hướng. Đây là một sự bất cập lớn
trong việc giảng dạy môn Lịch sử tại trường học, khi những gì biến thiên sau bao năm
chỉ là dịng chữ “Tái bản lần thứ..”.
Khơng chú trọng đổi mới trong tài liệu là một chuyện, nhưng chính cách truyền
tải của thầy cơ quyết định mức độ hứng thú đối với môn học của học sinh. Một yêu cầu
quan trọng đối với giáo viên là phải Dạy đúng, nhưng học sinh còn cần những giáo
viên Dạy hay. Giáo viên môn Lịch sử làm sao Dạy đúng và Dạy hay? Tiêu chí Dạy
đúng dễ xác định thơng qua chuẩn kiến thức, chương trình và sách giáo khoa. Dạy hay
thì thật khó đo đếm. “Thước đo” để xem xét có lẽ chỉ thơng qua sự hứng thú của học
sinh.
Kiến thức Lịch sử trong sách giáo khoa sử phổ thông hiện nay của chúng ta gồm
nhiều lĩnh vực, nhưng lại rất khái quát, ít đi sâu vào những dẫn chứng cụ thể, sinh
động. Một khối lượng kiến thức đồ sộ chỉ được giới thiệu trong thời gian hạn hẹp: Văn
hóa cổ đại Phương Đơng và Phương Tây, văn hóa Phục hưng, các phát kiến địa lý, sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật, văn học nghệ thuật… tóm lại cả đơng - tây, kim- cổ
chỉ được học trong vịng vài chục phút thì làm sao có thể cho học sinh “nuốt trơi” chứ
đừng nói đến cảm nhận và rung động trước cái đẹp, trước những sự kiện bi hùng, trước
những con người được quá khứ nhân loại ghi tên - điều mà mơn sử cần hình thành cho
các em.
Với những nội dung kiến thức của Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại, giáo viên
càng khó để Dạy đúng và Dạy hay khi nội dung kiến thức rộng lớn, chủ yếu là chính trị
- qn sự, hịa trộn giữa Lịch sử Đảng và Lịch sử dân tộc, số liệu quá nhiều, ít các nhân
vật lịch sử hiện đại… Nếu giảng thêm, nêu thêm nhiều minh họa, giáo viên sẽ khơng
có thời gian để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Nếu giáo viên cố gắng “chốt” kiến
thức cho học sinh, giờ học sẽ diễn ra theo kiểu thầy giảng - trò chép, thầy hỏi - trò đáp
một cách nhàm chán.
Việc dạy hay của giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào sự sáng tạo và năng lực tổ
chức các hoạt động học tập để tạo hứng thú cho học sinh. Ngồi ra, nó cũng bị chi phối
khơng nhỏ bởi ngơn ngữ giàu hình ảnh, giọng nói truyền cảm, có ngữ điệu và cả những
cử chỉ, điệu bộ của giáo viên trong việc tạo nên xúc cảm lịch sử cho học sinh. Như vậy,
cố gắng Dạy đúng cịn khó khăn lại còn phải Dạy hay, quả là điều nan giải, lực bất tịng
tâm của nhiều giáo viên mơn Lịch sử.
Bên cạnh chất lượng giảng dạy, có một yếu tố cũng góp phần khơng hề nhỏ
trong việc quyết định tư duy của học sinh, đó chính là những định kiến. Khơng biết từ
khi nào người lớn, hay thậm chí giáo viên lại coi môn Lịch sử như một môn học phụ,
chỉ cần học đủ điểm lên lớp, không cần chú trọng làm gì, thành ra các em, con học như
một cái máy, coi lịch sử là môn học thuộc ăn điểm chứ khơng phải là do u thích tìm
hiểu những dấu mốc vàng son. "Lịch sử ở Mỹ có tác dụng trong cả kinh tế, chính trị
cịn trong xã hội Việt Nam hồn tồn khơng làm được điều này bởi chúng ta coi Sử là
môn học thuộc để tốt nghiệp mà thơi, khơng được thảo luận vì chương trình q dài
cho nên giáo viên chỉ kịp nhồi nhét kiến thức chứ khơng kịp thảo luận giúp cho học
sinh có cái nhìn sâu hơn." – Minh Anh phản biện trong chương trình.
Thậm chí, ngay cả trong thị trường lao động, những ngành nghề đang hot hiện
nay cũng dường như chẳng có sự liên hệ gì với bộ mơn này, ngay cả những nhà lãnh
đạo, cũng khơng có bất cứ u cầu cao gì về ứng viên giỏi lịch sử. Biết bao học sinh,
sinh viên đã từng tham gia giải học sinh giỏi Sử, nỗ lực cách mấy để rồi cũng chẳng có
giá trị gì lớn với những cơng việc, bước đi sau này Thực tế nhìn vào, ai cũng nhận ra
rằng đó là một cuộc chơi mất thời gian và cơng sức cho những học sinh đã lỡ yêu và
say mê môn Sử.
Học sinh coi thường mơn sử vì thấy kiến thức lịch sử khơng được vận dụng
vào cuộc sống. Khơng ít giáo viên dạy sử đã được nghe câu: “Thưa cô, em khơng biết
học Lịch sử để làm gì ạ.”. Xin đừng vội trách học sinh, bởi vì đúng là nhiều kiến thức
Lịch sử không được vận dụng vào đời sống, nhiều điều các em cần lại không được
trang bị trên ghế nhà trường. Những câu hỏi rất gần gũi cuộc sống của các em cần được
giải đáp như: Ý nghĩa của tên làng xóm, con phố nhà em là gì? Đình làng em thờ ai, vị
ấy có cơng gì với làng? Q em có truyền thống và phong tục gì? Các nghi lễ thờ cúng
ở nhà em, ở đình, chùa làng em như thế nào?... lại chẳng mấy khi được quan tâm giải
đáp. Hay kiến thức về chủ quyền trên Biển Đơng, hai quần đảo Trường Sa và Hồng Sa
là của Việt Nam rất cần trang bị cho học sinh trong bối cảnh hiện nay nhưng chưa được
đề cập tới trong chương trình và sách giáo khoa.
Học sinh chán những giờ học trên lớp, chứ không hề thờ ơ với những câu
chuyện lịch sử nước nhà. Điều đó được chứng tỏ qua rất nhiều những video trên
Youtube, cứ thử đối chiếu bằng cách tìm kiếm những từ khố như “Chiến dịch Hồ Chí
Minh”, “Quang Trung đại phá quân Thanh”, “Chiến tranh Mông Nguyên”,.. đều sẽ
thấy kết quả đưa ra đều là những video đến từ các đơn vị tư nhân với hàng triệu view.
Vậy, có giải pháp nào khơng cho bài toán nan giải vẫn dấy lên sau bao nhiêu năm?
4. Một số giải pháp nâng cao mức độ hứng thú với lịch sử nghệ thuật
quân sự
Đầu tiên, chúng ta cần bắt đầu từ việc xác định được vị thế của bộ môn Lịch sử
trong môi trường học đường, đặc biệt là trong khuôn viên trung học phổ thông, chừng
nào mơn Lịch sử cịn bị xem nhẹ, giáo viên dạy Sử cịn được cho là giáo viên dạy
“mơn phụ”, học mơn sử chỉ để lấy điểm qua mơn, thì chừng đó học sinh vẫn chưa thể
tìm được lối thốt khỏi cảm giác chán ngán mỗi khi nhắc đến môn học. Môn Lịch sử
phải được trở lại với giá trị (gốc) của nó là mơn học để làm người, giáo dục lòng yêu
nước, giữ bản sắc và truyền thống dân tộc, tạo gốc rễ vững bền cho sự phát triển của
đất nước trong hiện tại và tương lai. Khi ấy, người giáo viên sẽ tự hào vì mình dạy mơn
Lịch sử, học sinh sẽ cảm thấy xấu hổ vì mình dốt Lịch sử nước nhà.
Tiếp đó, có thể sáng tạo thêm trong phương thức truyền tải kiến thức, đa dạng với
mọi lứa tuổi, chứ khơng chỉ từ một khn đúc ra. Có thể kể chuyện lịch sử cho những
học sinh cấp 1, để học sinh cấp 2 đóng kịch hay những bạn trung học phổ thông được
đi thực tế tại bảo tàng, những khu di tích lịch sử. Tích hợp nhiều hoạt động bổ ích trong
quá trình giảng dạy là một phương pháp hữu hiệu để những giờ học khơng cịn thật
nhàm chán.
Bên cạnh đó, việc bắt đầu sử dụng những câu nói ấn tượng khó quên về những
vấn đề lịch sử cũng là một phương án hay trong việc cải thiện trí nhớ, biến những cột
mốc, sự kiện khó nhớ thành câu chìa khố đầy tính tượng hình. Ví dụ như “Ngồi đan
sọt mà lo việc nước” thì nhớ ngay là Phạm Ngũ Lão hay “Cờ lau tập trận” là Đinh Bộ
Lĩnh; “Dâng sớ chém đầu 7 nịnh thần” là Chu Văn An; “Thà làm quỷ nước Nam còn
hơn làm vương đất Bắc” biết ngay là Trần Bình Trọng; “Phá cường địch báo hoàng ân”
là Trần Quốc Toản; “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam
đánh Tây” biết ngay là Nguyễn Trung Trực…
Những trang sử vàng đấu tranh chói lọi của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh cùng nhiều nhân vật lịch sử được đưa vào giảng dạy trong trường học. Cụ thể
những câu nói bất hủ làm học sinh liên tưởng đến các danh nhân như như Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”; Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn
nữa…”; Bế Văn Đàn “lấy thân mình làm giá súng”; Phan Đình Giót “lấy thân mình lấp
lỗ châu mai”; Nguyễn Viết Xn “nhằm thẳng quân thù mà bắn”… Hay những tác
phẩm văn học “Sống như anh” biết ngay là Nguyễn Văn Trỗi; “Hòn đất” là chị Sứ Phan Thị Ràng; tác phẩm “Người con gái Đất đỏ” là Võ Thị Sáu…
Để thêm phần cuốn hút, thiết nghĩ, việc dạy và học Lịch sử ngày nay nên kết
hợp với các tác phẩm văn học nghệ thuật như truyện, tiểu thuyết, kí sự văn học… để
tăng thêm tính hấp dẫn, sinh động, nhưng vẫn khơng làm sai lệch đi chính sử. Ví dụ:
“Ngay sau khi chiến thắng trong trận đánh Ngọc Hồi - Đống Đa mùa Xuân năm Kỷ
Dậu (1789), vua Quang Trung đã cho người lập tức mang cành đào bích trở về Phú
Xuân báo tin chiến thắng cho Công chúa Ngọc Hân”. Hình ảnh q đẹp khi Ngọc Hân
cơng chúa cầm cành đào báo tin thắng trận của vua Quang Trung đã đi vào nhiều giai
thoại văn học thơ ca Việt Nam. Có thể chi tiết này là hư cấu, bởi, lúc bấy giờ quân lính
di chuyển trên đường bộ bằng chiến mã, mà từ Thăng Long phi ngựa vượt cả ngàn cây
số mang cành đào về Phú Xuân có khi mất cả tháng trời. Như vậy, hoa và cành đào làm
sao còn “tươi thắm”. Nhưng, chi tiết hư cấu này thật quá ấn tượng và mang giá trị đẹp
đẽ nên mọi người đều chấp nhận.
Nhưng nhà trường cũng không phải và không nên là nơi duy nhất cung cấp kiến
thức cho học sinh, một giờ học trên lớp không đủ để thổi hồn tình yêu, cũng như là
niềm tự hào đến cho học sinh. Các em cần được hướng dẫn tận tình trong việc tự học,
tự tìm tịi hiểu biết về lịch sử nước nhà. Được hướng dẫn những kĩ năng phân tích và
nhìn nhận về một sự kiện, nhân vật và vấn đề lịch sử để có thể tự rút ra đánh giá nhằm
hiểu được sâu sắc vấn đề.
KẾT LUẬN
Như vậy, ta có thể thấy những sự thiếu hiểu biết về lịch sử nước nhà không đến
từ sự thờ ơ của giới trẻ, mà nhiều phần là do định kiến xã hội hay đúng hơn là vị thế bị
xem nhẹ của bộ môn Lịch sử trong khuôn viên trường học. Những yếu tố đó có thể tác
động, thay đổi được, cái chúng ta cần là phải quan tâm, chú ý đến để mơn Lịch sử
khơng cịn nhàm chán, buồn ngủ hay đáng sợ.
Những dấu mốc vàng son trong quá khứ là để ta có độc lập tự do như ngày hôm
nay, là một người con của dải đất hình chữ S, chúng ta khơng thể nào qn, khơng
được phép quên đi những giọt mồ hôi, máu xương ông cha đã đổ xuống để giành và
giữ nền độc lập cho thế hệ con em. Và việc chung tay gây dựng lại vị thế bộ môn Lịch
sử, bắt đầu từ ý thức của mỗi cá nhân, là phương thức hữu hiệu nhất để xây lên cầu nối
giữa khoảng cách các thế hệ.
Mỗi chúng ta đều là một phát ngôn viên về lịch sử quân sự, truyền thống đánh
giặc oai hùng, vang danh năm châu “chấn động địa cầu” của Tổ quốc. Đừng vội kết tội
rằng giới trẻ đang “quay lưng” với lịch sử, mà phải thấy được rằng các em đang đòi
được tiếp cận một cách tốt hơn. Học đi đơi với hành, tích hợp thêm nhiều phương thức
tiếp cận bộ môn, chuyến đi thực tế và những hoạt động bổ ích vào bộ mơn để những
giờ học Lịch sử là một “món q” chứ khơng cịn là trận “tra tấn”.
Bài tiểu luận của em đã bàn luận đến thực trạng hiểu biết về lịch sử nghệ
thuật quân đội và nguyên do của nó, từ khách quan đến chủ quan cũng như là đưa ra
những giải pháp thực tiễn, hợp lý, có tính ứng dụng cao. Em mong sẽ nhận được sự
đánh giá và nhận xét của thầy cô để có thể làm tốt hơn trong những bài tiểu lận sắp tới.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1, Giáo trình quốc phịng an ninh.
2, Báo cáo tham luận về xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
3, Bài thu hoạch bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 4 năm 2021
4, Xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh toàn diện ( Báo nhân dân)
5, Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (Tạp chí cộng sản)
6, Báo Tin tức
/>7, Báo Lý tưởng
/>8, Chương trình Trường TEEN VTV7
/>9, Tạp chí Ngày mới Online
/>