Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp: "Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.43 KB, 75 trang )

z












Luận văn tốt nghiệp: "Tạo lập và sử dụng vốn cho
người nghèo, thực trạng - giải pháp"
1
LỜI NÓI ĐẦU
XW
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá
đói giảm nghèo không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới.
Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội
được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây
ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát
triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn
đề nghèo đói không được
giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như
quốc gia định ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn
định, đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc
hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể


tránh khỏi. Theo số liệu thống
kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu hộ nghèo đói chiếm
11% tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói
nhưng phải kể hơn cả là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn.
Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên diễn đàn
kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để
thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.
Trong các năm qua, tuy đã có nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho người
nghèo nhưng thực trạng mà đánh giá vốn chuyển tải đến người nghèo chưa
được là bao nhiêu và hiệu quả sử dụng chưa cao. Tuy vậy nhìn tổng thể và
trước những yêu cầu đặt ra thì quả thực còn nhiều mặt cần được
đề cập để
đi đến đưa ra những giải pháp cơ bản, lâu dài cho việc hỗ trợ vốn làm ăn
tới người nghèo ở nước ta.
Sau một thời gian thực tập tại vụ bảo trợ xã hội - Bộ Lao động
Thương binh và xã hội, được sự tận tình hướng dẫn của thầy giáo Phạm
Văn Liên và các đồng chí lãnh đạo, tập thể cán bộ vụ bảo trợ
xã hội, kho
bạc Nhà nước Trung ương, Ngân hàng phục vụ người nghèo, uỷ ban dân
tộc miền núi với ý thức mong muốn góp phần tích cực vào phát triển
kinh tế của đất nước. Em mạnh dạn lựa chọn đề tài "Tạo lập và sử dụng
vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp". Là vô cùng cần thiết.

2
1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản: kinh tế thị trường và
tính tất yếu nghèo đói trong nền kinh tế, vốn cho người nghèo và các
kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo về mặt lý luận cũng như thực tiễn ở
nước ta thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp về vốn hỗ

trợ người nghèo ở n
ước ta hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài lấy vấn đề về vốn và sự vận động của vốn cho mục tiêu xoá
đói giảm nghèo ở nước ta làm đối tượng nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của phép
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử có kết hợp với phương pháp phân
tích tổng hợp, thố
ng kê, so sánh, xử lý hệ thống mô hình hoá, thực
chứng và các phương pháp khác của nghiên cứu khoa học kinh tế.
4. Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được
trình trong 3 chương.
Chương 1 - Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người
nghèo ở nước ta.
Chương 2 - Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho
người nghèo ở
nước ta trong thời gian vừa qua.
Chương 3 - Một số giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người
nghèo trong giai đoạn hiện nay.

3

Chương I


KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC KÊNH HỖ TRỢ VỐN CHO NGƯỜI
NGHÈO Ở NƯỚC TA
1.1. Kinh tế thị trường và những ưu khuyết tật của nó.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá đã phát triển tới trình

độ cao, khi mà các quan hệ tiền tệ, giá cả, thị trường trở thành yếu tố
chủ đạo cấu thành cơ chế vận hành của nền kinh tế và kể cả xã hội; ở
đây quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá được vận động tự do bởi
thống trị của nguyên tắc tự do cạnh tranh.
Có thể nói kinh tế thị trường là sản phẩm cao cấp của sự tiến hoá
lịch sử nhân loại. Quả thật trong lịch sử phát triển kinh tế, kinh tế thị
trường đã phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng, tiền vốn, công
nghệ để s
ản xuất một cách có hiệu quả cao. Với tư cách đó, nó chứa
đựng nhiều ưu điểm so với các hình thái và tổ chức kinh tế trước nó.
Phải kể đến là các ưu điểm sau.
Một là: Kinh tế thị trường với điều kiện tồn tại các chủ thể kinh tế
độc lập là tạo khả năng chủ động lựa chọn mô hình sản xuấ
t kinh doanh
khả dĩ, nếu xét tổng quát nền kinh tế lâu dài thì đây là yếu tố nội sinh
thúc đẩy hiệu quả kinh tế toàn xã hội và từng cá nhân tăng lên.
Hai là: Kinh tế thị trường với điều kiện trình độ phân công lao
động xã hội tăng lên, theo đó làm tăng trình độ xã hội hoá nền sản xuất
và thúc đẩy hiệu quả sản xuất tăng lên
Ba là: Kinh tế thị trường với mụ
c đích tối thượng là lợi nhuận
trong mọi hoạt động kinh tế, theo đó tự nó đã thúc đẩy sản xuất mạnh
mẽ so với các nền kinh tế trước đó. Bởi vì để giải quyết được 3 vấn đề
(sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai) trong sản xuất
của nền kinh tế thị trường, buộc từng chủ thể kinh t
ế phải tăng cường
cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất phải thoả mãn nhu cầu của xã hội
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm trên, kinh tế thị trường tuyệt
nhiên không phải là một công cụ vạn năng để giải quyết hữu hiệu tất cả
mọi vấn đề của nền kinh tế, mà kinh tế thị trường luôn hàm chứa trong

đó không ít khuyế
t tật, cụ thể là:
Thứ nhất: Kinh tế thị trường khi mà mục đích tối thượng là lợi
nhuận, thì các chủ thể kinh tế chỉ quan tâm tới hiệu quả sản xuất thuần
tuý như "người dùng chanh chỉ biết vắt hết nước" thì có thể gây ra một
hậu quả nghiêm trọng đối với tiến trình phương pháp kinh tế, xã hội lâu
dài. Điều này đã được minh chứ
ng rõ khi con người khai thác tài
nguyên, chặt cây, phá rừng đến một mức như huỷ diệt thì sự trả giá là
không nhỏ tý nào từ môi trường sinh thái cân bằng cho sự phát triển đã
trở thành môi trường đang bị huỷ diệt.
Thứ hai: Sự cạnh tranh tự do vốn có của nền kinh tế thị trường sẽ
dẫn đến độc quyền và chính sự độc quyền là nguyên nhân lũng đoạn nền
kinh t
ế theo hướng thu lợi riêng quá mức trên những tổn hại chung của
4
xã hội. Cạnh tranh tự do (hơn nữa là tự phát) là nguồn gốc tự nhiên, trực
tiếp của tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội
Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo
điều kiện cho một số doanh nghiệp và cá nhân có tiền vốn kỹ thuật
làm ăn có hiệu quả, được khuyến khích làm giàu chính đáng, tuy nhiên,
cạnh tranh nảy sinh trong cơ chế
thị trường có thể dẫn đến những hậu quả
xấu, nếu không có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh sẽ dẫn đến tìm
mọi mánh khoé làm ăn theo hướng "mạnh được, yếu thua" thậm chí "cá
lớn nuốt cá bé" từ đó dẫn đến kinh doanh trốn thuế, mua bán ép giá, lừa
gạt, triệt tiêu lẫn nhau đều làm cho thị trường tăng rối loạn. Cạnh tranh
như thế
, một số giàu lên nhanh chóng, song cũng không ít người rơi vào
làm ăn thua lỗ, phá sản cơ nghiệp làm cho nền kinh tế bị kìm hãm và thất

nghiệp, phân hoá thu nhập và giàu nghèo cũng có nguồn gốc từ đây.
Như vậy, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn tồn tại
hai thái cực: một bên là tích cực đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển,
một bên là tiêu cực sẽ kìm hãm phát triển kinh tế xã hội và phân hoá đời
s
ống các tâng lớp dân cư. Để thúc đẩy mặt tích cực, đồng thời hạn chế
mặt tiêu cực thì đòi hỏi phải có vai trò điều tiết của Nhà nước.
1.2. Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường.
Như trên đã phân tích, về thực chất, cơ chế thị trường tự nó không
đủ khả năng điều chỉnh, khắc phục nh
ững khuyết tật do nó gây ra. Đó là
lý do cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình vận hành của
hệ thống thị trường trong mọi giai đoạn phát triển của nó. Đương nhiên
sự can thiệp của Nhà nước phải có một định hướng rõ ràng, hơn nữa
được thể hiện trên các chức năng nhất định. Chúng ta có thể nhìn nhận
chức năng của Nhà nước thông qua các vấn đề sau (1)
Mộ
t là: Với các công cụ chính sách, Nhà nước thực hiện điều tiết các
quá trình kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường vĩ mô cho phát triển bền vững
nền kinh tế - xã hội. Thuộc hệ công cụ chính sách này như: chính sách tài
khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển nông thôn,
chính sách xoá đói giảm nghèo
Hai là: Nhà nước tạo tập và duy trì một hành lang pháp lý để điều
chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện chứ
c năng này Nhà
nước có thể hạn chế những tiêu cực trong hoạt động kinh tế xã hội do
cạnh tranh hoặc độc quyền gây ra.
Ba là: Với tư cách là bộ máy quyền lực tập trung để điều chỉnh sự
phát triển của xã hội thì Nhà nước không thể không có chức năng định
hướng kinh tế để hướng hoạt động thị trường vào cơ cấu kinh tế và mục

tiêu theo h
ướng đã chọn. Bởi vì chỉ có sự can thiệp của Nhà nước thông
qua các định hướng phát triển và có giải pháp để thực hiện chúng thì
nền kinh tế mới có thể phát triển đạt hiệu quả cao và lâu bền.
Bốn là: Nhà nước có chức năng điều tiết và phân phối thu nhập,
đảm bảo công bằng xã hội. Đây không chỉ là chức năng kinh tế mà cả
chức năng xã hội củ
a Nhà nước. Điều này được lý giải bởi: bên cạnh
những vấn đề kinh tế, nền kinh tế thị trường còn phát sinh nhiều vấn đề
xã hội to lớn cần được giải quyết như tình trạng phân hoá giàu nghèo,
5
bất bình đẳng về tài sản, thu nhập mà còn có kéo theo phân hoá xã hội
như học vấn, văn hoá, lối sống, tệ nạn xã hội nếu không có sự hạn chế
bằng điều tiết của Nhà nước thì nó ngày một gia tăng hơn. Chỉ có Nhà
nước, với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao của xã hội mới đủ khả
năng điều chỉnh thông qua sử dụng các công c
ụ chính sách của mình.
Tuy nhiên sự tác động của Nhà nước có hiệu quả đến mức độ nào còn
tuỳ thuộc vào tính hữu hiệu của các công cụ, chính sách đã đề ra. Song
trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì tác động của Nhà nước để đạt
tới sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối là khó có được, nếu không
muốn nói đó là "giấc mơ". Kinh tế thị trường tư bản ch
ủ nghĩa hay kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng thất nghiệp
và đói nghèo vẫn luôn bám chặt trong cơ thể "xã hội". Tỷ lệ đói nghèo
gia tăng hay giảm xuống phụ thuộc nhiều yếu tố, song chỉ có kết quả khi
có bài thuốc đủ liều của Nhà nước.
1.3. Sự tồn tại khách quan của đói nghèo và nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói.
1.3.1. Sự t

ồn tại khách quan của nghèo đói trong sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường
và tồn tại khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển.
Cho dù phát triển là một thách thức cấp bách trước loài người và nhờ
phát triển có thể tạo ra những cơ hội tăng trưởng, song hiện nay vẫn còn
có 1,12tỷ ngườ
i đang sống ở mức nghèo khổ. Đặc biệt đối với nước ta
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo
nàn lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, đến nay
nước ta còn khoảng trên 2 triệu hộ thuộc diện nghèo đói và chiếm 11%
tổng số hộ trong cả nước. So với bình quân thế giới có tỷ lệ nghèo đói
tập trung ở nông thôn trên 70% thì ở
nước ta điều đó lại càng cao hơn,
chiếm khoảng 90% (3). Mặc dù từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đến nay nhất là từ sau khi có nghị quyết 10, hộ nông dân được xác
định là đơn vị kinh tế tự chủ đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp đạt được
kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đó. Nhờ vậy đời số
ng người
nông dân và kinh tế nông thôn nước ta dần đi vào thế ổn định và phát
triển. Tuy nhiên thừa nhận và khuyến khích các hộ phát triển sản xuất
hàng hoá, tất yếu dẫn đến phát triển không đồng đều giữa các hộ mà
trước đây bị che đậy mờ đi bởi cơ chế tập trung bao cấp. Tình trạng đói
nghèo không chỉ còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến và
có xu hướng gia t
ăng ở nông thôn và các vùng khó khăn. Ngay cả những
vùng đô thị, tình trạng thất nghiệp do thiếu vốn và thiếu điều kiện làm
ăn đã và đang làm phát sinh một bộ phận hộ gia đình nghèo túng.
Khoảng chênh lệch thu nhập giữa các phân tầng xã hội ngày một nới
rộng. Cùng với công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước

mạnh" do Đảng ta khởi xướng, một bộ phận dân cư
vươn lên làm ăn có
hiệu quả trong cơ chế thị trường và trở nên giàu có. Song bên cạnh đó
không ít người do nhiều nguyên nhân đã chấp nhận vào ngưỡng nghèo
đó. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là liên tục phấn đấu đưa toàn xã
6
hội đến "công bằng văn minh", vì vậy Nhà nước đã và đang tập trung
chỉ đạo thực hiện bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau để những
vùng nghèo, dân cư có đời sống khó khăn vươn lên đạt tới sự công bằng
nhất định trong xã hội. Song sự tác động của Nhà nước không bao giờ
đạt được như mong muốn. Tình trạng nghèo đói ở nước ta vẫn tồn tại,
thậ
m chí đã trở thành hiện tượng xã hội gay gắt.
Đã đến lúc các quốc gia, hơn nữa toàn thế giới coi giải quyết vấn
đề nghèo đói như một chiến lược toàn cầu. Bước vào thiên niên kỷ mới,
đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại.
Hướng tới tương lai, tại khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp
quốc về
phát triển xã hội, tháng 6/2000 ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ), cộng đồng
quốc tế tiếp tục cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phấn
đấu đến năm 2015 giảm 1/2 số người nghèo trên thế giới. Hội nghị cũng
kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "tấn công vào đói
nghèo" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diệ
n về xoá
đói giảm nghèo. Đặc biệt tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9/2000
của Liên Hợp quốc tại Oasinhtơn (Mỹ), một lần nữa khẳng định chống
đói nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên của cộng đồng quốc tế
trong thế kỷ XXI. Tại hội nghị này, chủ tịch Trần Đức Lương, trưởng
đoàn đại biểu Việt Nam đã đề ngh
ị lấy thập niên đầu tiên của thế kỳ

XXI làm thập niên dành ưu tiên cho xoá đói giảm nghèo trên phạm vi
toàn thế giới và đã được hội nghị đồng tình cao (4)
Như vậy rõ ràng, giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta không chỉ
là đòi hỏi về mặt xã hội (bao gồm chính trị, xã hội, đạo đức) mà còn đòi
hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì nền kinh tế không th
ể tăng trưởng một
cách bền vững, mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp người nghèo đói khá
đông.
1.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
Để có những giải pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu thì trước hết
phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Cũng như thầy thuốc
muốn "bốc thuốc" đúng, trị được bệnh thì trước hết phải "chuẩn
đoán
bệnh" cho đúng. Nếu xét về nguồn gốc thì nghèo đói do nhiều nguyên
nhân dẫn đến, có nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng cũng có nguyên
nhân chỉ là tác nhân gián tiếp gây ra nghèo đói mà thôi. Trong "chuỗi"
nguyên nhân gây ra nghèo đói phải kể đến các nguyên nhân sau:
1.3.2.1. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu kiến thức và kỹ thuật
làm ăn
Vốn, kỹ thuật và kiến thức làm ăn là chìa khoá để người nghèo
vượt khỏi ngưỡng nghèo đói. Do không đáp ứng đủ
vốn nhiều người rơi
vào thế luẩn quẩn, làm không đủ ăn phải đi làm thuê, vay nặng lãi, bán
lúa non mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày nhưng nguy cơ
nghèo đói vẫn thường xuyên đe doạ họ. Mặt khác do thiếu kiến thức làm
ăn nên họ chậm đổi mới tư duy làm ăn, bảo thủ với phương pháp sản
xuất kém hiệu quả. Thiếu kiến thức và k
ỹ thuật làm ăn là một lực cản
lớn nhất hạn chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống của hộ gia đình
nghèo.

7
1.3.2.2. Nguyên nhân do sinh đẻ nhiều nhưng đất đai canh tác
lại ít
Mặc dù đã có cuộc vận động thực hiện chương trình sinh đẻ có kế
hoạch nhưng nhìn chung ở vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc tỷ lệ
sinh đẻ giảm xuống không đáng kể, thậm chí có nơi không giảm và tiếp
tục gia tăng. Sinh đẻ nhiều dẫn đến trong một hộ gia đình người làm thì
ít mà người ăn theo thì nhiều do đó thu nhậ
p bình quân thấp, đời sống
khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặt khác diện tích đất canh tác có hạn,
hệ số sử dụng đất ở các vùng núi, vùng thiên tai không được nâng lên sản
lượng thu hoạch bình quân có xu hướng giảm xuống thì điều tất yếu sẽ
dẫn đến nghèo đói.
1.3.2.3. Nguyên nhân do thiếu việc làm.
Thiếu việc làm bao giờ cũng là yếu tố tiềm ẩn dẫn đến nghèo đói.
Đặc biệt
đối với các vùng đô thị thì thất nghiệp là đồng hành với sự
nghèo đói. Nói như vậy không có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm trở
thành căn nguyên nghèo đói không xảy ra ở nông thôn. Mà thiếu việc làm
theo mùa và không đủ công ăn việc làm cho nông dân đang luôn là mối đe
doạ một bộ phận hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tụt xuống bờ vực nghèo
đói. Bởi vậy tạo ra việc làm mới bằ
ng các nghề phụ ở nông thôn nếu được
giải quyết sẽ làm tăng thu nhập cho dân cư và tất yếu là sẽ giảm được
nghèo đói.
Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN hay giả định một định
hướng hoàn mỹ hơn nhiều thì khuyết tật của cơ chế thị trườ
ng, tự nó
không thể mất đi được, thậm chí vẫn thể hiện rất gay gắt. Ngay trên thị

trường sức lao động, nếu như trước đây con người sinh ra hầu như đã
được đảm bảo về việc làm, thì ngày nay muốn có việc làm phải qua cạnh
tranh. Những người không có khả năng cạnh tranh do sức khoẻ, tàn tật,
già yếu, thiếu kiến thức thì chắc chắn sẽ rơi vào tình tr
ạng không có
lối thoát và những người "gặt hái" chiến bại trong cạnh tranh cũng phải
chịu đựng cuộc sống bếp bênh, nghèo đói. Sự tồn tại của thất nghiệp,
nhất là trong lứa tuổi thanh niên không những là nguyên nhân gây nghèo
đói cho gia đình mà còn có thể gây nhiều tiêu cực cho xã hội.
Tình trạng thiếu việc làm đang là thách thức cho mọi quốc gia
trong việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Ở nước ta để th
ực
hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do Đảng ta khởi xướng thì giải quyết
việc làm đang là vấn đề kinh tế xã hội luôn nằm trong chương trình nghị
sự của chính phủ.
1.3.2.4. Nguyên nhân từ sức khoẻ.
Sức khoẻ yếu và do đó thiếu sức lao động với tình trạng đói nghèo
thường có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Nghèo nàn đói rách làm cho sức
khoẻ suy giảm, ngược lại s
ức khoẻ yếu và thiếu sức lao động là nguyên
nhân của sự nghèo khổ. Một khi con người không đủ sức lao động,
thường dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và tất yếu nghèo đói sẽ diễn
ra. Đến lượt nó khi nghèo đói đã ngự trị thì không thể cải thiện được sức
khoẻ tốt hơn. Cái vòng luẩn quẩn giữa sức khoẻ và nghèo đói đòi hỏi phải
8
giải quyết cả hai vấn đề là: giảm nghèo đói và cải thiện sức khoẻ. Để cải
thiện được sức khoẻ của cộng động đặc biệt là đối với người có thu nhập
thấp, gia đình khó khăn thì mạng lưới y tế và Bảo hiểm xã hội có vai trò
quyết định.


1.3.2.5. Nguyên nhân do hạ tầng cơ sở nông thôn được cải thiện
chậm.
Do hậu qu
ả chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều
vùng nên phần lớn đường xá nông thôn bị tàn phá và xuống cấp, trong
khi đó nguồn kinh phí luôn thiếu vì vậy giao thông nông thôn nhiều nơi
vẫn đang trong tình trạng khó khăn, không có khả năng để tu bổ hoặc
làm mới.
Nhiều cơ sở dịch vụ nông nghiệp trước đây do hợp tác xã nông
nghiệp đảm nhận cung cấp. Song vị trí hợp tác xác nông nghiệp ngày
nay đã và đang hạ
n chế khả năng này bởi nguồn vốn tạo lập của hợp tác
xã rất khó khăn. Nhìn chung hợp tác nông nghiệp ngày này là thiếu kinh
phí và thường không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ nông nghiệp cho
dù họ có thu phí. Hạ tầng cơ sở nông thôn đặc biệt quan trọng với các
vùng khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do trạm bơm
và kênh mương thuỷ lợi chưa đáp ứng được, nên một số
vùng lụt, mất
mùa xảy ra thường xuyên. Vì vậy những vùng này thiếu ăn vẫn triền
miên hết năm này qua năm khác.
1.3.2.6. Nguyên nhân do có người trong gia đình mắc tệ nạn xã hội.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh
những mặt tích cực đáng kể thì những mặt tiêu cực cũng ngày càng rõ
nét. Một trong những mặt tiêu cực đó là số người mắc tệ nạn xã hội
ngày càng gia tăng như nghiện hút, cờ bạc, rượu chè bên cạnh đó là
tình trạng thương mại hoá tràn lan xâm nhập vào lĩnh vực y tế, văn hoá,
giáo dục làm cho đời sống xã hội có những biểu hiện xuống cấp, đạo
đức xa sút, tâm lý hưởng thụ tăng lên Đó là những thói hư tật xấu luôn
tiềm tàng và phát sinh đối với những người lười nhác lao động, ăn tiêu
không có kế hoạch, không có ý thức vươn lên. Vì vậy n

ếu họ xuất thân
trong gia đình khó khăn nghèo túng thì gia đình đó ngày càng khó khăn
hơn, còn nếu họ xuất thân trong gia đình khá giả thì gia đình họ ngày
càng đi xuống. Đó chính là con đường dẫn đến phá sản cơ nghiệp, chấp
nhận cảnh bần cùng đói rách. Đau đớn hơn nó là sự huỷ hoại ghê gớm
đạo đức, nhân văn của con người và gây ám ảnh sự sợ hãi cho toàn xã
hội.
1.3.2.7. Một số
nguyên nhân khác.
Hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài đã làm cho hàng triệu gia
đình ít nhiều phải lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật (chất độc mầu da
cam, bom mìn dưới đất )
Do ở nơi xa xôi, hẻo lánh, rừng sâu, núi cao, đảo xa thường không
có đường ô tô và các phương tiện giao thông thuận tiện cho việc giao lưu
kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặt khác do không có hoặc thiếu, chậm thông tin
về các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội (Kể c
ả ở địa phương,
9
khu vực, quốc gia và quốc tế). Trong khi đó, phong tục tập quán và những
hủ tục lạc hậu còn khá nghiêm trọng.
Trình độ dân trí, trình độ văn hoá thấp, số người chưa biết chữ còn
nhiều, hạn chế khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, cách làm ăn mới.
Các cơ chế và chính sách đối với người nghèo chưa đồng bộ, còn
chồng chéo với chính sách xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là ch
ưa thực
hiện được chính sách xã hội hoá trong việc thực hiện chương trình xoá
đói giảm nghèo.
Từ những nguyên nhân trên cho thấy việc xoá đói giảm nghèo
không chỉ tiến hành riêng rẽ một hai giải pháp nào đó mà phải xử lý
đồng thời tất cả các giải pháp trọng tâm, trọng điểm.

1.4. Khái nhiệm và những chuẩn mực về đói nghèo.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung
nhất cho rằng: Đ
ói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ
những nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y
tế, giáo dục Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau
về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người
nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung
bình của quốc gia khác. Bở
i vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề
xoá đói giảm nghèo một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái
niệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá đói nghèo của thế giới.
1.4.1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của
thế giới
1.4.1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới.
Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái
niệm đ
ói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía
cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ có mức sống dưới mức
"chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có người nghèo khổ "tình thế" chẳng
hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái
kinh tế hoặc do thiên tai, tệ nạn xã hội, rủi ro.
Về không gian: Nghèo đói di
ễn ra chủ yếu ở nông thôn nơi có 3/4
dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở
các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia
đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn
ông làm chủ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.

Về môi trườ
ng: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở
những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự
xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm.
Từ nhận dạng trên, Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về
đói nghèo như sau:
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng những nhu cầu c
ơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống.
10
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu
cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế,
giáo dục Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu
tối thiểu bao gồ
m có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng
đồng.
1.4.1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới.
Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu từ việc
vạch ra giới hạn đói nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo, giới
hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân
bình quân đầu người (GDP).
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, ch
ỉ căn cứ và chỉ tiêu thu nhập
thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức hội đồng
phát triển hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc
sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản
đó là: tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ l
ệ xoá mù chữ.
Gần đây tổ chức UNDP đưa ra thêm chỉ số phát triển con người

(HDI) bao gồm 3 chỉ tiêu sau: Tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người
lớn, thu nhập.
Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ
121/175 nước trên thế giới (Tài liệu công bố năm 1997). Như vậy chỉ tiêu
đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ tiêu
thu nhậ
p quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ
số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu nghèo
chính xác hơn, khách quan hơn.
Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới hai dạng chỉ tiêu
thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn
nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo từng vùng của một quốc gia
được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đ
ói trên tổng số hộ dân cư thuộc
vùng hoặc quốc gia đó.
1.4.1.3. Chuẩn mức đói nghèo của thế giới.
Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu
nhập dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này,
hiện trên thế giới có khoảng 1,12 tỷ người (20%) đang sống trong tình trạng
nghèo khổ tức là sống dưới 420 USD người/năm hoặc 35 USD/người/tháng
mà ngân hàng thế
giới đã ấn định (2)
- Các nước phát triển: Lấy Mỹ làm đại diện cho các nước phát
triển. Năm 1992 Mỹ lấy chuẩn mực một người trong hộ có thu nhập bình
quân tháng dưới 71 USD là người nghèo khổ (852 USD/năm).
- Các nước đang phát triển. Mỗi nước có một chuẩn mực khác
nhau: Pakitstan là 6 USD/ người/ tháng, Indonexia 6 USD/ người/ tháng,
Malayxia 28 USD/người/tháng, Nêpan 9 USD/người/tháng.
- Cũng có những nước dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày như
Bănglađét dưới 1650 kalory/ng

ười/ngày, các nước công nghiệp ở Châu
Âu 2570 kalory/người/ngày, Châu Đại Dương 2.660 kalory/ người/
ngày, Châu Phi 2.340 kalory/người/ngày.
11
1.4.2 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo ở
Việt Nam.
1.4.2.1. Khái niệm.
Tách riêng đói và nghèo không khái nhiệm chung như thế giới.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả
mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức
sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phươ
ng
diện. Nghèo gồm 2 dạng:
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có
khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu
cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu
về ăn, mặc và nhu cầu sinh hoạt hàng này gồm văn hoá, y tế, giáo dục,
đi lại, giao tiếp.

+ Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét.
- Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy
trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiế
u ăn đứt bữa từ 1
đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
1.4.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam.
- Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người một tháng (hoặc năm)
được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực
(gạo) tương ứng một giá trị nhất định về giá cả.

Khái nhiệm thu nh
ập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (tổng
thu trừ đi tổng chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập
bình quân nhân khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói
nghèo.
- Chỉ tiêu phụ: Là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều
kiện học tập chữa bệnh đi lại
1.4.2.3. Chuẩn mực xác định đ
ói nghèo của Việt Nam
Ở nước ta, tiêu chuẩn và thước đo để xác định ranh giới nghèo đói
hiên nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy vậy căn cứ và thu nhập
biểu hiện bằng tiền vẫn là chỉ tiêu cơ bản để phản ánh mức sống. Bên
cạnh đó do điều kiện giá cả không ổn định nên cần phải sử dụng cả hình
thức hiện vật, phổ biế
n là quy ra gạo làm tiêu chuẩn. Việc sử dụng hình
thức hiện vật quy ước này có tác dụng là loại bỏ được yếu tố giá cả, từ
đó có thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không
gian đơn giản, thuận tiện hơn. Đặc biệt là đối với người nghèo nói
chung và nông dân nghèo nói riêng, chỉ tiêu số lượng gạo bình quân một
người một tháng là có ý nghĩa và rất thực tế bởi vì nhu cầu thiế
t yếu đầu
tiên là đảm bảo đủ gạo ăn. Chuẩn mực đói nghèo ở nước ta được quy
định tại thông báo số 1751/LĐTBXH ngày 20/5/1997 của Bộ lao động
thương bình và xã hội như sau:
Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 13 Kg
gạo/người/tháng, tương đương 45 ngàn đồng (tính cho mọi vùng).
Hộ nghèo: Phân theo 3 vùng có mức thu nhập như sau.
12
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo là hộ có thu nhập dưới 15Kg
gạo/người/tháng, tương đương 55 ngàn đồng.

- Vùng nông thôn đồng bằng trung du là hộ có thu nhập bình quân
dưới 20Kg gạo/người/tháng, tương đương với 70 ngàn đồng
- Vùng thành thị là hộ có thu nhập bình quân dưới 25Kg
gạo/người/tháng, tương đương với 90 ngàn đồng.
Trong thời kỳ 1992-2000 do điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta
chưa cho phép, nên chúng ta phải áp dụng chuẩn nghèo thấ
p, chủ yếu là
giải quyết vấn đề ăn (tương đương với chuẩn nghèo về lương thực của
quốc tế). Trong năm, mười năm tới, phấn đấu nâng chuẩn nghèo lên
khoảng 1,5 - 3 lần so với chuẩn cũ. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực
tế và sau khi thảo luận thống nhất của các bộ ngành, đoàn thể trung
ương, các tỉnh, thành phố, ngày 01/11/2000. Bộ lao động - Th
ương binh
và xã hội đã ban hành quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH điều
chỉnh chuẩn hộ nghèo từ năm 2001 như sau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đồng/tháng, 960.000
đồng/năm.
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đồng/tháng, 1.200.000
đồng/năm.
- Vùng thành thị: 150.000đồng/tháng, 1.800.000đồng/năm
1.5. Các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo trong điều kiện ở nước ta
1.5.1. Tổng quan về vốn.
1.5.1.1. Khái niệm vốn.
Trong bộ t
ư bản, Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua
phạm trù tư bản. Theo Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư
qua quá trình vận động của nó (T - H - SX - H - T)
Trong điều kiện hiện nay, quan điểm của Mác cần hiểu như sau:
Thứ nhất: Tư bản là giá trị. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu
hiện bằng một lượng giá trị nhất định.

Thứ hai: Vốn là một lượng giá trị mang lại giá trị thặng dư. Tức là
chỉ lượng giá trị nào sau quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh đem lại giá
trị thặng dư mới được gọi là vốn. Lượng giá trị "nằm im" và "bất động"
không tạo ra giá trị thặng dư không được gọi là vốn.
Từ sự nhận thức trên ta có thể đưa ra khái nhiệm tổng quát về v
ốn
như sau:
Vốn là một lượng giá trị tài sản xã hội (tài sản hữu hình và tài sản
vô hình) được dùng vào đầu tư kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh
tế - xã hội.
1.5.1.2. Các đặc trưng của vốn.
Trong điều kiện hiện nay vốn có các đặc trưng sau đây.
Một là: Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những
tài sản hiện v
ật (như nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng ) được đưa vào sử
dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Trong trường hợp
này ta gọi là vốn hiện vật.
13
Hai là: Vốn được biểu hiện bằng tiền (Tiền giấy nội tệ, ngoại tệ,
tiền vàng, và các chứng chỉ có giá trị như tiền) được đầu tư kinh doanh
với mục đích sinh lời nó. Trường hợp này ta gọi là vốn tài chính.
Ba là: Vốn không chỉ được biểu hiện bằng giá trị của những tài
sản hữu hình như vốn hiện vật, tiền, nhân lự
c (gọi là vốn hữu hình) mà
vốn còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình chẳng hạn như
chất xám, phát minh, giá trị nghệ thuật (gọi là vốn vô hình)
Bốn là: Vốn là hàng hoá đặc biệt được đưa vào lưu thông trên thị
trường vốn. Trong quá trình lưu thông, vốn sinh lời (T-T') vì vậy vốn
phải đưa vào lưu thông và cần phải tạo môi trường cho lưu thông vốn
(thị trường tiền t

ệ, thị trường tài chính).
Năm là: Do phương thức chu chuyển, vốn có thể chia ra hai loại
khác nhau đó là vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn là vốn có
mục đích sử dụng trên một năm hay còn gọi là vốn đầu tư.
1.5.2. Vốn cho người nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo
1.5.2.1. Đặc điểm vốn hỗ trợ cho người nghèo.
Ngoài những đặc điểm chung củ
a vốn thì vốn hỗ trợ cho người
nghèo thể hiện rõ các đặc điểm riêng sau:
- Vốn hỗ trợ cho người nghèo luôn gắn liền với sự rủi ro và mất
vốn. Có người đã nói "cấp vốn cho người nghèo là cấp rủi ro". Quả
thực, ông cha ngày xưa cũng đã có câu "tiền vào nhà khó như gió vào
nhà trống", đa số người nghèo do sử dụng vốn trong hoàn cảnh túng
quẫn đã bị động nên hi
ệu quả sử dụng vốn thường không đạt theo ý
muốn của họ. Thậm chí do thiếu đói người nghèo đã biến vốn hỗ trợ
thành vốn cứu tế tức thì cho bản thân họ. Mặt khác, nếu rủi ro mất vốn
họ thường rơi vào tình trạng "trắng tay", nợ nần, khó tìm ra nguồn vốn
để bù đắp ngoài sự đảm bảo bằng thân xác, đói rách bần cùng.
- Vốn hỗ
trợ người nghèo cho dù được thực hiện bởi một kênh nào
(trợ cấp cứu tế, cho vay, cho mượn ) đều phải thể hiện tính tài trợ của
Nhà nước và cộng đồng cho họ. Trường hợp không được cấp bằng cứu
tế thì phải cho vay lãi suất thấp hơn so với thị trường. Tức là vốn hỗ trợ
cho người nghèo phải thực thi vị trí phi thị trường. Song rõ ràng để Nhà
nướ
c làm được việc này là rất khó. Bởi vậy phải có trách nhiệm của cộng
đồng để tạo ra nguồn vốn đảm bảo tính khả dụng cho người nghèo. Hay
nói cách khác đặc điểm vỗn hỗ trợ cho người nghèo là nguồn vốn tổng hợp
và đa dạng.

- Để hỗ trợ vốn cho người nghèo có kết quả thì không chỉ hỗ trợ
vốn bằng tiền (hoặc hiện vật quy ra ti
ền) mà còn hỗ trợ "vốn" kiến thức,
việc làm, môi trường làm ăn và nhiều hỗ trợ khác. Bởi vậy đặc điểm của
vốn hỗ trợ người nghèo có sự vận động ăn nhịp tổng thể các mối quan
hệ kinh tế xã hội khác.
1.5.2.2. Các kênh dẫn vốn cho người nghèo
Trung tâm của bất kỳ mô hình tài chính nào trong nền kinh tế cũng
đòi hỏi hoạt động của những "kênh d
ẫn" mà thông qua đó, vốn của
những khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành những khoản nợ của người sử
dụng. Tuy nhiên do nhiều loại mô hình tài chính khác nhau và đa dạng
14
(kênh chính thức hoặc không chính thức) nên tính chất và hiệu quả của
các kênh dẫn vốn cũng khác nhau.
Vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua chủ
yếu từ các kênh sau:
Thứ nhất: Hệ thống tài chính Nhà nước các cấp hỗ trợ cho người
nghèo, hộ nghèo với các nội dung sau:
Ngân sách trợ cấp hỗ trợ khắc phục thiên tai.
Ngân sách trợ cấp các vùng nghèo, xã nghèo để đầu tư hạ t
ầng xã
hội sản xuất, trợ giá, trợ cước cho miền núi, vùng cao cho đồng bao dân
tộc nói chung trong đó có người nghèo.
Các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước cho các mục tiêu mà
thông qua đó, tác dụng của nó cải thiện đáng kể tình hình đói nghèo.
Thứ hai: Hệ thống kho bạc Nhà nước với 61 kho bạc tỉnh (thành
phố) và trên 600 kho bạc cấp huyện, quận, thị xã thực hiện cho vay theo
các chương trình của Chính phủ (chương trình theo Nghị quyết
120/HĐBT, theo quyết định 327/CP ). Đối tượng vay vốn của chương

trình không phải là hộ nghèo mà thông qua cho vay, các dự án để thu
hút lao động và tăng thu nhập, trong đó cho một số hộ người nghèo.
Ba là: Hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng
phục vụ người nghèo, các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và
đô thị, các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó ngân
hàng phục vụ người nghèo là lòng cốt hỗ trợ vốn cho các h
ộ nghèo.
Thứ tư: Các đoàn thể, hiệp hội và các tổ chức xã hội với hàng trăm
tổ chức theo mô hình khác nhau. Trong đó có nhiều tổ chức hoạt động
tín dụng theo quy ước riêng của mình như quỹ xoá đói giảm nghèo của
Hội liên Hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam
Thứ năm: Các doanh nghiệp tài trợ vốn cho các hộ nghèo thông
qua các hình thức ứng trước vốn cho nông dân sản xu
ất và thu nợ bằng
chính sản phẩm của họ.
Thứ sáu: Các tổ chức quốc tế Chính phủ và phi Chính phủ tài trợ
thông qua các chương trình nhân đạo, giải quyết việc làm tài trợ này
bao gồm cho vay có hoàn trả và viện trợ không hoàn lại.
Thứ bảy: Các nhóm, tổ, phường, họ tương trợ tiết kiệm trong cộng
đồng dân cư tự nguyện thành lập và hỗ trợ vốn cho nhau làm ăn theo
quy đị
nh riêng. Ngoài ra còn các hoạt động tín dụng không chính thức
khác của tư nhân hoạt động ngầm.
Các tổ chức dẫn vốn nói trên có đặc trưng chung là sử dụng
phương thức tài chính tài trợ cấp phát hoặc tài chính tài trợ hoàn trả, các
kênh dẫn vốn áp dụng thủ tục cho vay, phạm vi cho vay và mức lãi suất
rất khác nhau, tuỳ theo tính chất nguồn vốn và quan điểm tổ chức thực
hiện dẫn vốn. Cách tiếp cận v
ới người nghèo và quan điểm xử lý của các
tổ chức ngoài khu vực tài chính Nhà nước và ngân hàng rất khác nhau.

Có hình thức cho vay trực tiếp đến với người nghèo, có hình thức thông
qua trung gian. Nhìn chung tài trợ vốn cho người nghèo vay vốn còn
nhiều hạn chế, đang là nguyên nhân bất ổn định trên thị trường tài chính
- tín dụng ở nước ta.
15

16
Chương II
THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN HỖ TRỢ CHO
NGƯỜI NGHÈO Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN VỪA QUA -
KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI CHO NGƯỜI
NGHÈO VAY VỐN VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng đói nghèo ở nước ta.
Việt Nam là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người là một
trong các nước thấp nhất thế giới (năm 2000 mới đạt kho
ảng 380 USD).
Tỷ lệ đói nghèo còn cao, theo chuẩn quốc gia thì tỷ lệ đói nghèo năm
1992 là trên 30%, năm 1998 là 15,7%, năm 1999 là 13% và năm 2000 là
11% như vậy tính bình quân mỗi năm giảm được 250.000 - 300.000.
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới thông qua điều tra mức sống dân
cư Việt Nam, tỷ lệ đói nghèo năm 1993 là trên 58%, năm 1998 là 37%
và năm 2000 là khoảng 30%.
Đói nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (khoảng 90%
trong tổng số hộ nghèo đ
ói của cả nước). Một số vùng, khu vực, đặc biệt
vùng đồng bào dân tộc, khu căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo, tỷ lệ
hộ đói nghèo rất cao. Ở khu vực thành thị tỷ lệ hộ đói nghèo tuy thấp
hơn, song chủ yếu là số dân mới nhập cư. Miền núi phía Bắc, vùng Bắc
trung bộ và Tây Nguyên là những khu vực luôn có tỷ lệ hộ nghèo đói
cao nhất.

S
ự phân cực giàu nghèo có chiều hướng gia tăng. Kết quả điều tra
cho thấy: Mức chênh lệch về thu nhập khi so sánh 20% nhóm hộ có thu
nhập cao nhất với 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn
là 7,3 lần (năm 1996) tăng lên 11 lần (năm 2000). Hệ số chênh lệch mức
sống giữa dân cư thành thị và nông thôn khoảng 5 -7 lần, mức thu nhập
bình quân đầu người ở nông thôn so với thành thị hiện nay chỉ bằng
khoảng 50%.
Một số chỉ tiêu về cải thiện đời sống đạt được còn thấp so với mục
tiêu đề ra, đặc biệt là chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Năm 2000, số trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn 33%, phần lớn là thuộc
các gia đình nghèo, tỷ lệ phát triển dân số ở nhóm người nghèo cao (trên
mức trung bình 1,5% của cả nước), tỷ lệ ngườ
i biết chữ ở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa mới đạt khoảng 50%, ở nông thôn chỉ khoảng 42% số
hộ gia đình được dùng nước sạch và 20% có hố xí hợp vệ sinh.
Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai, bão lụt, hạn
hán, mất mùa khoảng từ 1 - 1,2 triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Trung và miền núi phía Bắc. Bình quân hàng năm có khoảng
20.000 - 25.000 hộ tái nghèo đói.
Ở một s
ố vùng có những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói rất đặc
thù. Vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là do điều kiện
địa lý phức tạp và khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu và yếu kém, trình độ
học vấn thấp, sinh đẻ nhiều, tập quán canh tác và tập tục lạc hậu, khó
tiếp cận thông tin; vùng đồng bằng sông Hồng do đông dân, thiếu đất;
vùng đồng bằng sông Cử
u Long do chuyển nhượng ruộng đất nên
17
khoảng 10 - 12% tổng số hộ nông dân nghèo mất đất sản xuất; vùng

Duyên Hải miền Trung thường xuyên bị thiên tai, bão lụt.
2.2 Tình hình tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo ở nước ta
trong thời gian vừa qua
2.2.1. Hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước.
Hiện nay hỗ trợ vốn từ ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói
giảm nghèo bao gồm: Vốn giải quyết việc làm (chương trình 120), vốn
thực hi
ện chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc (chương trình
327) vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc
biệt khó khăn (chương trình 135), các khoản trợ cấp thiên tai và hỗ trợ
phát triển nông thôn khác trong đó nòng cốt là vốn giải quyết việc
làm, vốn chương trình 135, vốn chương trình 327.
Nhìn chung một số chương trình, dự án gắn với xoá đói giảm
nghèo thời gian vừa qua được lồ
ng ghép với nhau. Các chương trình và
dự án gồm một số mục tiêu hướng vào việc nâng cao mức sống nói
chung. Song nhìn tổng thể, từng chương trình và dự án có một tác động
nhất định đến việc hỗ trợ cho người nghèo, vùng nghèo ở nước ta
2.2.1.1. Vốn giải quyết việc làm thực hiện qua kho bạc Nhà nước.
Việt Nam là một trong số các nước phát triển dân số nhanh, đầu
thế kỷ mới chỉ có 12 - 13 triệu ng
ười, hiện nay là gần 80 triệu người, tỷ
lệ tăng dân số nhanh dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức
bách. Vì vậy giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta đang là
một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách mang tính chất tình thế, vừa cơ
bản lâu dài mang tính chiến lược. Để thực hiện mục tiêu này có nhiều
giải pháp khác nhau, trong đó lập Quỹ quốc gia gi
ải quyết việc làm theo
tinh thần Nghị quyết số 120/HĐBT (nay là Chính phủ) ngày 11/4/1992
là một giải pháp hết sức quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu chủ

yếu sau đây:
- Hỗ trợ vốn dưới hình thức cho vay tài trợ cho các tổ chức, đơn vị
kinh tế, hộ gia đình để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo
thêm việc làm mới, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế
và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia, cải thiện đời sống cho người
lao động.
- Hỗ trợ một phần về tài chính dưới hình thức cấp phát cho các
trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
tay nghề, thực hiện các chương trình dạy nghề gắn liền với sản xuất và
các chương trình khác.
- Chương trình quốc gia giải quyế
t việc làm của nước ta là một bộ
phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu góp phần thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng và giải quyết việc làm, một vấn đề mà mọi nền
kinh tế đều phải quan tâm giải quyết.
Qua 8 năm hoạt động, chương trình đã đạt được những kết quả khả
quan, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội và kích thích t
ăng
trưởng kinh tế cụ thể trên các mặt sau đây:
Qua bảng số 1 ta thấy từ nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp
từ năm 1992 đến 31/12/2000 là 1414 tỷ đồng trong đó vốn cân đối trong
18
kế hoạch ngân sách Nhà nước là 1289 tỷ đồng và vốn viện trợ nhân đạo
của Chính phủ Tiệp Khắc (cũ) là 125 tỷ đồng; hệ thống kho bạc Nhà
nước trực thuộc Bộ tài chính đã thực hiện cho vay hàng nghìn dự án với
doanh số 4261 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 3.506.602 người lao
động, bình quân mỗi năm tạo được việc làm cho khoảng 20-25% tổng số
lao động cần được giả
i quyết.

Vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm là một biện pháp tài
chính quan trọng để kích thích sản xuất, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế,
tận dụng các điều kiện sẵn có về kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, góp
phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn. Từng
bước chuyển đổi cơ cấu cây trồ
ng vật nuôi theo hướng phát triển các
loại cây con có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu, khôi phục và phát
triển các ngành nghề truyền thống, các ngành nghề thu hút nhiều lao
động như sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, may mặc, cơ khí,
sản xuất vật liệu xây dựng
Thông qua quỹ quốc giải quyết việc làm, người lao động đã tạo
được việc làm có thu nhập, đời sống vật ch
ất tinh thần được nâng cao.
Nhiều người đã chủ động bỏ vốn đầu tư kinh doanh, dám nghĩ dám làm,
vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội.
Đặc biệt là các dự án vay vốn của các tổ chức đoàn thể quần chúng
như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến
binh có ý nghĩa rất quan trọng, làm phong phú thêm các hoạt động
mang tính chất kinh tế - xã hội. Cũng từ ho
ạt động của quỹ quốc gia giải
quyết việc làm, các tổ chức này đã lồng ghép vào các chương trình xã
hội khác một cách có hiệu quả như các chương trình "dân số - sức khoẻ
- môi trường", chương trình phòng chống các tệ nạn xã hội, chương
trình phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, phong trào thanh niên lập
nghiệp
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động những năm qua, quỹ cho vay giải
quyết việc làm đã bộc l
ộ và nảy sinh một số tồn tại. Các tồn tại và
nguyên nhân dẫn đến là:
Thứ nhất: Việc duyệt dự án cho vay của Ban chỉ đạo địa phương

còn chậm, bên cạnh đó việc thẩm định cấp tín dụng của kho bạc Nhà
nước có lúc chưa kịp thời. Nhiều dự án nhận tiền vay mất cơ hội đầu tư.
Thứ hai: Công tác quản lý vốn vay c
ủa các chủ dự án còn buông
lỏng thiếu sự kiểm tra việc sử dụng vốn của từng hộ - một trong những
nguyên nhân gây ra hiệu quả sử dụng vốn còn thấp
Thứ ba: Qua số liệu biểu số 1 cho biết, tính đến cuối năm 2000,
ngân sách Nhà nước đã sử dụng 4261 tỷ đồng để cấp tín dụng tạo việc là
cho 3.506.602 người. Bình quân suất vốn đầu tư ch
ỉ chiếm xấp xỉ
1.300.000 đồng trên một việc làm mới là rất thấp. Con số này theo tính
toán của các chuyên gia kinh tế là trên 5 triệu đồng cho một việc làm
mới.
Thứ tư: Nợ quá hạn cho vay có xu hướng gia tăng: năm 1999 là
12,9% dư nợ nhưng năm 2000 chiếm 13,8%. Nguyên nhân tình trạng nợ
quá hạn ngày càng gia tăng có thể có nhiều vừa chủ quan, vừa khách
19
quan. Ngoại trừ yếu tố khách quan như thiên tai, rủi ro thì không ít
nguyên nhân do chủ quan của phía các chủ thể điều hành, xét duyệt các
dự án. Thủ tục cấp tín dụng qua nhiều khâu, nhiều công đoạn đã tưởng
chừng như chặt chẽ nhưng thực chất là phức tạp, hình thức sơ hở trong
nội dung. Trong khi có nhiều thành viên tham gia quản lý nguồn vốn
nhưng trách nhiệm không xuyên suốt. Qua khảo sát nhiều địa ph
ương
cho thấy việc xét duyệt dự án thường do ngành lao động đảm nhận.
Những kiểm tra vốn vay và thu nợ dành riêng cho khobạc Nhà nước
"ôm" trọn gói. Đã nhiều trường hợp nợ qúa hạn phát sinh, kho bạc phải
"vác cặp đi xin" ý kiến của bạn chỉ đạo và nhờ sự ủng hộ của các thành
viên xét cấp vốn. Một nguyên nhân khác cần được quan tâm và lý giải là
do áp dụng lãi suất (hiện nay là 0,5%/tháng) cho vay ưu đãi dẫ

n đến
không khuyến khích người vay trả nợ. Thậm chí một số người vay còn
cho rằng thà chịu trả lãi suất nợ quá hạn 0,5%/tháng còn hơn là trả rồi đi
vay ngân hàng chịu lãi suất 0,7 - 0,8%/tháng.
Thứ năm: Địa bàn tiếp cận của chương trình tín dụng tạo việc làm
quá rộng, trong khi đội ngũ nhân sự làm tín dụng của hệ thống kho bạc
lại quá mỏng, chưa đáp ứng được yêu c
ầu đặt ra.
Thứ sáu: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương
trình quốc gia giải quyêt việc làm hàng năm có hạn bởi do chưa đủ cân
đối ngân sách Nhà nước. Trong khi đó nhu cầu dự án ngày càng lớn, làm
cho vốn cho vay dàn quá mỏng, không đáp ứng được những dự án có
hiệu quả thu hút nhiều lao động.
2.2.1.2. Vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở
các xã đặc biệt khó khăn (gọi tắt là chươ
ng trình 135)
Sau 10 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách, chương trình, dự án và các giải pháp nhằm đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng,
tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Bên cạnh những chủ trương,
chính sách chung của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội
vùng đồng bào dân tộc miền núi, ngày 31/07/1998, thủ tướng chính ph

đã có quyết định 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển
kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu và vùng xa
(gọi tắt là chương trình 135). Đây là một chương trình được cụ thể hoá
từ nội dung Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng thành một chương trình
kinh tế xã hội tổng hợp để vực dậy vùng khó khăn nhất của đất nước ta
với mục tiêu tổng quát là "Nâng cao nhanh
đời sống vật chất tinh thần

cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu,
vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển
chung của cả nuớc; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh
quốc phòng". Mục tiêu của chương trình gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn từ 1998 - 2000: về
cơ bản không có hộ đói kinh niên,
mỗi năm giảm được 4 - 5% hộ đói nghèo. Bước đầu cung cấp cho đồng
bào nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi đến trường,
kiểm soát được một số dịch bệnh hiểm nghèo; có đường giao thông dân
20
sinh đến các trung tâm cụm xã và phần lớn đồng bào được hưởng thụ
văn hoá thông tin.
Giai đoạn từ 2001-2005: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005. Bảo đảm cung cấp cho đồng
bào đủ nước sinh hoạt, thu hút trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến
trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản
xuấ
t và đời sống; kiểm soát phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo
có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các
trung tâm cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn.
Ngoài những mục tiêu trên, chương trình 135 còn có 5 nội dung
chủ yếu sau:
Một là: quy hoạch bố trí dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước
tổ chức hợp lý đời sống sinh hoạt của đồng bào các bản, làng, phum, sóc,

những nơi không có điều kiện nhất là các vùng biên giới hải đảo, tạo điều
kiện để đồng bào nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống.
Hai là: Đẩy nhanh phát triển nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến
tiêu thụ sản phẩm để khai thác nguồn tài nguyên và sử dụng lao động tại

chỗ, tạo thêm nhiều cơ hội về việc làm tăng thu nhập,
ổn định đời sống,
từng bước phát triển sản xuất hàng hoá.
Ba là: Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy
hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư. Trước hết là hệ thống đường giao
thông; nước sinh hoạt; hệ thống điện ở những nơi có điều kiện, kể cả
thuỷ điện nhỏ.
Bốn là
: Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã, ưu tiên đầu
tư xây dựng các công trình về y tế, giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở
sản xuất tiểu thủ công nghiệp và phát thanh truyền hình.
Năm là: Đào tạo cán bộ xã, bản làng, phum, sóc giúp cán bộ cơ sở
nâng cao trình độ quản lý hành chính, kinh tế để phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội tại địa phương.
Từ mục tiêu, nhiệm v
ụ chủ yếu của chuơng trình 135, 2 năm qua
dưới sự chỉ đạo của các ngành đã thu được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ.
Năm 1999 chương trình 135 tập trung đầu tư trực tiếp cho 2 nhiệm
vụ là xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo cán bộ trên địa bàn 1200 xã
(1012 xã đặc biệt khó khăn và 188 xã biên giới) thuộc 37 tỉnh. Năm
2000 hai nhiệm vụ này ti
ếp tục đầu tư thực hiện trên toàn bộ 1878 xã
đặc biệt khó khăn và biên giới; ba nhiệm vụ còn lại (quy hoạch dân cư,
phát triển sản xuất và xây dựng trung tâm cụm xã) hai năm qua được
thực hiện lồng ghép bằng các nguồn vốn của chương trình, dự án khác
trên địa bàn 1878 xã thuộc 49 tỉnh. Qua hai năm thực hiện tổng vốn đầu
tư từ ngân sách của trung ương và địa phương là 1254,2 tỷ đồ
ng. Cơ cấu
vốn đầu tư được thể hiện trên biểu số 2 như sau:

21
Biểu số 2: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
ở các xã đặc biệt khó khăn
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000
Các công trình giao thông 38,78 45
Các công trình thuỷ lợi 18,72 19
Các công trình trường học 27 18
Các công trình nước sinh hoạt 7,3 7,2
Các công trình chợ, trạm xá, câp điện 8,2 10,8
Nguồn [7]
Chương trình 135 hai năm qua đó đã bố trí kế hoạch đầu tư được
trên 5200 công trình hạ tầng, đến nay đã có 4367 công trình hoàn thành
và đưa vào sử dụng. Trong đó 1098 công trình đường giao thông, 642
công trình trường học, 950 công trình thuỷ lợi, 208 công trình nước
sạch, 202 công trình điện hạ thế
Các Bộ, các ngành, các địa phương đã tập trung chỉ đạo lồng ghép
các chương trình dự án khác trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn như
ngành giáo dụ
c đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng để xây dựng và sửa chữa
trường học, cung cấp trang thiết bị và đồ dùng học tập, thực hiện miễn
giảm học phí cho gần 300 ngàn học sinh nghèo với kinh phí miễn giảm
khoảng 400 triệu đồng; ngành y tế đầu tư 97 tỷ đồng để xây dựng trạm y
tế, cung cấp trang thiết bị y tế, các loại thuốc thiết yếu và
đào tạo cán bộ
y tế xã. Qua báo cáo của các tỉnh, thành phố đã mua trên 1,1 triệu thẻ
bảo hiểm y tế cho người nghèo với kinh phí khoảng trên 30 triệu đồng,
cấp giấy chứng nhận miễn giảm phí cho hơn 2 triệu người, khám chữa
bệnh miễn giảm phí cho trên 800.000 lượt người, với kinh phí 50 tỷ
đồng. Chương trình định canh định cư đầu tư vào 304 xã đặc biệt khó

khăn 49.770 triệu đồng chiếm 38,91% v
ốn chương trình; chương trình
trồng 5 triệu ha rừng đầu tư vào 122 xã đặc biệt khó khăn 71.361 triệu
đồng chiếm 26,15% tổng mức đầu tư, chương trình nước sạch đầu tư
12.242 triệu đồng để đầu tư vào 737 dự án cấp nước ở các xã đặc biệt
khó khăn; chương trình trung tâm cụm xã đầu tư trên 200 tỷ đồng xây
dựng nhiều trung tâm cụm xã trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn và
nhi
ều chương trình dự án trong và ngoài nước đã ưu tiên đầu tư vào khu
vực này. Có được kết quả này là do cơ chế quản lý chỉ đạo lồng ghép từ
TW đến địa phương và yếu tố có ý nghĩa quyết định là sự chỉ đạo sát sao
của các ngành, các cấp, hướng các nguồn lực, các chương tình dự án
lồng ghép vào địa bàn các xã thuộc chương trình 135.
Từ những kết quả trên cho thấy ở nhiều
địa phương, chương trình
135 đã khơi dậy sức dân tham gia xây dựng các công trình, đã tạo ra một
phong trào lao động sản xuất khá sôi nổi nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát
triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt khó khăn
này.
Việc thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ chủ yếu của chương trình
135, các ngành các cấp đã chú trọng đào tạo bồi dường nâng cao năng
22
lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở để từng bước vươn lên vận hành chương
trình có hiệu quả. Năm 2000 tỉnh Cao Bằng có số lượng học viên cao
nhất 5000 người tham gia học tập trong đó có 750 là cán bộ huyện và
cán bộ tăng cường xuống xã, 4250 là cán bộ xã, bản, làng (8). Các tỉnh
Hoà Bình, Quảng Ngãi, Đắc Lắc đã mở rộng đối tượng đào tạo đến tận
hộ nông dân. Ngoài ra m
ột số Bộ, ngành, các đoàn thể Trung ương như
thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh đã tập huấn và hướng

dẫn đội ngũ cán bộ ở các cấp về cơ chế vận hành chương trình 135. Bên
cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, các tỉnh có các xã đặc biệt khó
khăn đã chú trọng việc tăng cường có thời hạn cán bộ công chức về
các
xã làm công tác xoá đói giảm nghèo. Năm 2000 đã có hơn 1000 cán bộ
xuống các xã đặc biệt khó khăn giúp phát triển kinh tế xã hội, ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng và trực tiếp tham gia chỉ đạo
chương trình 135. Phần lớn đội ngũ cán bộ tăng cường cho cơ sở đều có
trình độ và kinh nghiệm công tác, có tinh thần trách nhiệm, đã sớm hoà
nhập vào cuộc sống ở cơ sở, góp phần tích c
ực vào việc thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu của địa phương và chương trình 135.
Có được những kết quả trên trước hết chương trình 135 là một chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, hợp lòng dân; được vận hành
theo cơ chế của dân, do dân và vì dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ
và tích cực tham gia thực hiện, các cấp các ngành đã tích cực năng động
chỉ đạ
o sát sao các bước triển khai công tác với phong trào giúp dân,
cùng dân tháo gỡ khó khăn, đó vừa là kết quả vừa là nguyên nhân quan
trọng thúc đẩy quá trình thực hiện có hiệu quả chương trình.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, chương trình đã
bộc lộ những hạn chế nhất định đó là.
Thứ nhất: huy động nguồn lực cho chương trình còn ít, chưa tạo ra
được phong trào rộng khắp cả nướ
c giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn,
các tỉnh có điều kiện, các Tổng công ty giúp đỡ các địa phuơng chưa
đều và chưa tương xứng với khả năng. Bên cạnh đó còn một số Bộ,
ngành, Tổng công ty được Chính phủ phân công giúp đỡ tỉnh nghèo lại
uỷ quyền cho Sở, ngành đại diện tại địa phương thực hiện chiếu lệ, chưa
đem lại kết qủa thiế

t thực.
Thứ hai: Chương trình 135 triển khai trên các xã đặc biệt khó
khăn, phân cấp toàn bộ việc quản lý đầu tư xây dựng cho Uỷ ban nhân
dân tỉnh quyết định, tỉnh phân cấp cho huyện, trong khi trình độ cán bộ
cơ sở còn nhiều hạn chế, không thể nào tránh khỏi quá trình lúng túng
trong quá trình triển khai chương trình. Một số địa phương chưa xác
định đầy đủ ý nghĩa chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của
ch
ương trình, chưa tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện chương trình,
mà chỉ đạo chương trình thuần tuý như đầu tư xây dựng cơ bản một số
công trình bằng nguồn vốn Trung ương. Có tỉnh đến nay vẫn chưa cấp
kinh phí làm quy hoạch cơ sở hạ tầng, không có cơ sở chuẩn bị đầu tư
cho kế hoạch năm 2001; quá trình lập, thẩm đị
nh, xét duyệt thiết kế, dự
toán quá chậm, không đảm bảo được tiến độ kế hoạch; quy mô cấp hạng
mục kỹ thuật công trình chưa phù hợp, có tuyến đường đến một xã vùng
23
cao, dự toán lên tới 5 tỷ đồng, nếu chỉ đầu tư bằng vốn của chương trình
135 đến khi kết thúc chương trình (năm 2005) vẫn chưa hoàn thành,
không có vốn đầu tư cho các công trình khác của xã này.
Một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ nội dung dân chủ công
khai, hoặc thực hiện hình thức chiếu lệ, giao toàn bộ khối lượng cho các
nhà thầu mà không giao cho dân làm những công việc có thể làm được.
Đã có hàng trăm doanh nghiệp tư nhân vốn ít, kỹ thuật kém nhưng vẫn
được địa phương chỉ định thầu các công trình của chương trình 135, khó
tránh khỏi những tiêu cực thông qua việc chỉ định thầu các công trình.
Một số huyện với địa bàn rộng, công trình nhiều không đủ sức kiểm tra,
giám sát, phó mặc cho các nhà thầu, dẫn đến bớt xén khối lượng, chất
luợng công trình kém.
Thứ ba: Việc sửa đổi b

ổ sung, hoàn chỉnh cơ chế chậm, ảnh huởng
đến việc cấp phát vốn chương trình, nhất là việc tổ chức sắp xếp lại Ban
chỉ đạo chương trình mục tiêu của tỉnh và ban quản lý dự án các công
trình ở huyện.
Thứ tư: Một số địa phương mới chỉ tập trung thực hiện nhiệm vụ
xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa
đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, chưa
thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án khác trên địa bàn các xã
thuộc chương trình để thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, đem lại hiệu quả
kinh tế xã hội tổng hợp của chương trình.
2.2.1.3. Vốn thực hiện chương trình "phủ xanh đất trống đồi núi trọc".
Ngày 15/9/1993 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết
định 327/CP về
thực hiện chương trình "phủ xanh đất trống đồi núi trọc". Nguồn vốn
được cấp ra từ ngân sách Nhà nước Trung ương và giao cho hệ thống
kho bạc Nhà nước thực hiện dưới 2 phương thức: cấp phát và cho vay
không thu lãi. Qua 5 năm thực hiện chương trình 327, cùng với các
chính sách định canh định cư và giao đất giao rừng đã đạt được những
kết quả nhất định về tạo công ăn vi
ệc làm, tăng thu nhập, cải thiện môi
trường, môi sinh ở các vùng kinh tế mới, vùng cao và đồi núi.
Với tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương trình
trong 6 năm 1993-1998 (hiện nay chuyển sang 5 triệu ha rừng) là 2363
tỷ đồng không kể vốn vay; đến hết 31/12/1998 kho bạc Nhà nước đã cấp
vốn cho hàng nghìn dự án với tổng số vốn cấp ra là 2277 tỷ đồng. Nhờ
có số vốn từ chương trình này đã làm tă
ng năng lực phòng hộ, chuyển
dịch cơ cấu nông thôn, giải quyết việc làm, chuyển đồng bào dân tộc từ
du canh du cư phá rừng làm rẫy sang bảo vệ, khoang nuôi, trồng rừng,
phát triển chăn nuôi và trông cây công nghiệp vườn đồi.

Biểu số 3
: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội đạt được của chương trình 327.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả
Bảo vệ rừng ha 1.600.000
Khoang nuôi tái sinh ha 700.000
Rừng trồng mới ha 640.000
Trồng cây công nghiệp + cây ăn quả ha 88.730
Mở rộng trường học, trạm xá m
2
103.300
24
Đường giao thông km 5.000
Số hộ di dãn dân hộ 92.430
Nguồn [9]
Kết quả tổng thể về kinh tế, xã hội của chương trình 327 đã đóng
góp tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà
nước. Nhờ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn 327 mà thu nhập các hộ vườn
đồi trong vùng dự án tăng lên rõ rệt. Ông Nguyễn Ngọc Sơn giám đốc
lâm trường Trương Bát Hà Tĩnh cho biết: nhờ nguồn vốn 327 đầu tư
vào
nên đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 15% năm 1993 xuống còn 8% năm 1998,
có nhiều xóm không còn hộ nghèo đói [10]. Một minh chứng khác, dự
án thanh ninh (Bắc Hà Trung - Thanh Hoá) sau những năm thực hiện,
nhiều hộ dân trước đây nghèo khổ phải xin trợ cấp, nay có thể mua máy
thu hình, xe máy.
Tuy nhiên qua khảo sát một số dự án khác cũng như tổng kết cuả
kho bạc Nhà nước cho thấy việc triển khai chương trình 327 còn nhiều
khiếm khuy
ết. Do chương trình rải quá rộng, quy trình đầu tư, định mức
kinh tế kỹ thuật thực hiện dự án không theo sát thực tế, dẫn đến có dự

án thừa vốn, có dự án lại thiếu vốn. Mặt khác vai trò kiểm tra kiểm soát
bị hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn chưa được tương xứng với vốn đầu tư.
Mô hình đầu tư dự án 327 theo hộ gia đ
ình chưa được mở rộng, tác động
của chương trình làm đổi mới đời sống nông thôn còn hạn chế.
2.2.1.4. Các loại vốn khác từ nguồn ngân sách Nhà nước.
Có thể kể đến các loại vốn thuộc loại này như sau:
- Vốn để hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông -
lâm - ngư (gọi chung là khuyến nông): kinh phi bố trí là 7,2 tỷ đồng đã
sử dụng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật v
ới 10.000 hộ
tham gia, tập huấn 180 lớp khuyến nông với 18.000 lượt người, in
12.000 bản tài liệu, phát hành hàng trăm số báo chuyên đề. Ngoài ra các
địa phương đã bố trí kinh phí để tổ chức hàng ngàn lớp tập huấn cách
làm ăn cho trên 100.000 lượt người nghèo. Thông qua hướng dẫn người
nghèo cách làm ăn bằng các mô hình cây trồng, vật nuôi, câu lạc bộ
khuyến nông, giống mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản
xuất góp phầ
n chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều hộ nghèo đã biết vay
vốn để tổ chức sản xuất, tăng thu nhập, thoát đói giảm nghèo.
- Ngoài ra ngân sách Nhà nước phải sử dụng các khoản chi khác
để trợ cấp đột xuất khắc phục thiên tai hoả hoạn để ổn định cuộc sống
dân cư các khu vực này.
Các khoản chi từ kênh ngân sách Nhà nước để sử dụng vào các
mục đ
ích nói trên không phải là toàn bộ hỗ trợ trực tiếp cho người
nghèo. Nhưng nó đã có tác động tích cực hỗ trợ phát triển nông thôn,
miền núi nâng cao mức sống người dân tạo điều kiện cho họ vượt qua
cảnh nghèo đói. Sự hỗ trợ cần thiết này phản ánh tính định hướng xã hội
trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên chuơng trình hỗ

trợ này thực sự chưa quả
n lý chặt chẽ, có một số khoản mang nặng tính
trợ cấp từ thiện, có khi là biện pháp tình thế nên việc sử dụng nó hiệu
quả chưa cao.

×