Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Làm rõ vấn đề thời cơ trong cách mạng Tháng 81945?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.34 KB, 24 trang )

Đường lối CMĐCS Việt Nam

Nhóm 2 –
K15QNH5

***
I/ Mở đầu...............................................................................................3
II/ Nội dung...........................................................................................4
1/ Lý luận chung về vấn đề thời cơ.......................................................4
a) Khái niệm thời cơ..............................................................................4
b) Vai trò của thời cơ.............................................................................4
2/ Thời cơ trong cách mạng Tháng Tám...............................................4
a) Xác định thời cơ trong cách mạng Tháng Tám.................................4
b) Kết quả của việc chớp đúng thời cơ của Đảng ta............................. 9
3/ Vận dụng.........................................................................................11
III/ Kết luận.........................................................................................22

I/ MỞ ĐẦU
Trang 1


Việt Nam chúng ta vốn dĩ là một đất nước giàu tài nguyên thiên
nhiên , lại nằm trong ngã ba Đông Dương nên được xem như là một miếng
mồi ngon và béo bở của nhiều nước trên thế giới lúc bấy giờ. Do đó trong
q trình đi xâm lấn, mở rộng thuộc địa, tư bản phương Tây đã để ý tới nước
ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Triều đình nhà
Nguyễn ký hiệp ước Pa-Tơ -Nớt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế q́c
pháp.Từ đó chúng ta là thuộc địa của chúng, cũng kể từ đó nhân dân ta chịu
đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của thực dân Pháp đã
làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu


một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và việc chớp đúng thời cơ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn, nó
đã phá tan hai tầng xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm
và của phát xít Nhật đờng thời nó cịn lật đổ chế độ Phong kiến tờn tại ngót
ngàn năm trên đất nước ta, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mở
ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Cách mạng tháng Tám được xem là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân
tộc Việt Nam, cũng như để lại nhiều bài học quý giá cho sự phát triển về
kinh tế, văn hóa, chính trị,…của đất nước ta sau này, để tìm hiểu kỹ hơn về
việc chớp đúng thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 và sự ảnh hưởng
của thời cơ đến nước ta hiện nay, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài: “
Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam”. Do sự
hạn hẹp về kiến thức và tính phức tạp của đề tài nên trong q trình làm bài
khơng tránh khỏi những hạn chế và sai sót, mong nhận được sự đóng góp ý
kiến từ cơ giáo.


II/ NỘI DUNG
1/ Lý luận chung về vấn đề thời cơ :
a/ Khái niệm thời cơ :
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, là
tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất có lợi nhất cho việc
phát huy mọi sức mạnh, đảm bảo một việc nào đó có thể tiến hành để giành
thắng lợi. Thời cơ, đó là một thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị
nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tờn tại trong một khoảng thời gian
nhất định. Nói như vậy khơng có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó khơng thể
biết trước được, khơng thể đốn định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ,
nó có mà khơng có và ngược lại. Vì thế, khơng phải ai cũng có thể dự báo
được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và ći cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái

đích của mình.
b/ Vai trị của thời cơ:
Thời cơ là một khái niệm rất quan trọng, gắn liền với sự thành bại của
mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đờng với những
quy mô khác nhau, khi ta biết tận dụng được hết những thuận lợi để đem đến
thành công.
2/ Thời cơ trong cách mạng tháng tám
a/ Xác định thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945:
Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa ḿn thắng lợi địi hỏi phải
hội đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà
chúng ta thường gọi là điều kiện chín m̀i. Cách mạng tháng Tám đã hội đủ
các điều kiện cần thiết. Chúng ta hãy thử quay ngược thời gian xem Đảng
Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị mạnh mẽ và rộng lớn nhất lúc đó,
đã dự báo thời cơ cho cuộc vùng dậy xung thiên vào tháng 8-1945 từ bao


giờ. Có thể từ tháng 5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ tám dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Q́c và
Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh, tại Pắc Bó, Cao Bằng. Nghị quyết đã dự
báo một cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của
nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xơ, một nước xã hội
chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội
chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công…” (1). Nghị quyết này
được thông qua vào tháng 5-1941, khi Liên Xô chưa tham chiến; một tháng
sau, tháng 6-1941, phát-xít Đức bất ngờ tấn cơng Liên Xơ. Như vậy, thời cơ
sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc,
phần thắng nghiêng về Liên Xơ và phe dân chủ. Đó là một khả năng làm
xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có cách mạng
nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của thời cơ, Đảng ta đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chi Minh đã sớm đưa ra những quan điểm, Người viết: “Đằng

sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng Dương giấu một cái gì đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Bộ phận ưu
tú phải thúc đẩy cho thời cơ đến mau”. Với sự phân tích chính xác, khoa học
mâu thuẫu trong hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính của Nhật ở
Đông Dương và vạch ra những kế hoạch hành động khi tình hình mới tới. Và
sau khi phân tích mâu thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù, Trường
Chinh đã đi tới một nhận định đúng đắn là, sớm hay muộn cuộc đấu súng
giữa chúng với nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật - Pháp
ngày thêm sâu sắc. Cho nên Nhật gấp rút”. Đảng và phong trào cách mạng
của quần chúng chủ động đón nhận. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ
ra vào đêm 9-3-1945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà trái lại, chủ
động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục
tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, từ chập tối,


Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường
Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh. Sợ bị lộ, Hội nghị chuyển
sang làng Đình Bảng họp tiếp. Trên đường đi, bỗng nghe tiếng súng nổ dờn
từ phía Hà Nội, các đờng chí dự Hội nghị dồn bước tới địa điểm mới, họp
tiếp và ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”
vào ngày 12-3-1945. Bản Chỉ thị đó lập tức được chuyển tới nhà in bí mật
của Đảng tại làng Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương
Hoàng phụ trách nhà in, đã cấp tớc cho in hàng nghìn bản và theo những
đường giây bí mật chuyển đi các nơi. Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính
của Nhật ở Đơng Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,
nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín m̀i, tuy vậy cũng đã tạo ra
những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Bản Chỉ
thị đó, Ban Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra
khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho
nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: Quân Đồng

minh vào Đông Dương đánh Nhật và Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh
sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa
phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi
Hờng qn Liên Xơ tiêu diệt một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và
Na-ga-sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã
họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pô-xđam. Sau những cuộc
thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối
cao chiến tranh và nội các Nhật Bản với sự hiện diện của Nhật hoàng đã
nhóm họp và thơng qua quyết định đầu hàng Đồng minh. Đúng giữa trưa
ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh
trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng


thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Tin đó đến với lãnh tụ Hờ Chí Minh rất sớm
qua bản tin đài BBC mà Người nghe được ở lán Nà Lừa, Tân Trào (Tun
Quang). Thời cơ có một khơng hai đã đến với dân tộc chúng ta, bởi vậy, “Dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập!”
(Lời của lãnh tụ Hờ Chính Minh nói với đờng chí Võ Ngun Giáp ở lán Nà
Lừa). Lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban khởi nghĩa toàn q́c ra qn lệnh sớ 1, trong
đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân
Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành
động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!...
Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(2).
Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn q́c và Q́c dân Đại hội nhóm họp tại Tân
Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả
nước. Như trên đã nói, thời cơ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời
gian nhất định. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, thời cơ chỉ tờn tại trong
vịng 24 giờ. Còn trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tờn tại một cách

khách quan trong vịng hai mươi hơm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng (ngày 15-8-1945) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí
giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pơ-xđam (ngày 5-9-1945).
Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày
15-8-1945 và sau ngày 5-9-1945 đều khơng có khả năng thành cơng, bởi
trước ngày 15-8-1945, quân Nhật còn mạnh và sau ngày 5-9-1945, trên đất
nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ và sau đó là
những kẻ “theo đóm ăn tàn”, và từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và sau nó
là quân Pháp trở lại xâm lược). Chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi trong
ngưỡng thời gian khắc nghiệt này.Vì thế, vào tháng 7-1945, cho dù đang bị


ốm giữa rừng Tân Trào, khi biết tin phát xít Đức-Ý đã bại trận trên chiến
trường Châu Âu. Ở Châu Á, phát xít Nhật đang trên đường sụp đổ, Bác Hờ
vẫn chỉ thị cho các đờng chí của mình: “ Lúc này, thời cơ đã đến, dù hy sinh
tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho
được độc lập!”. Sau đó hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào
từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 đã đi đến kết luận: “Những điều kiện khởi
nghĩa ở Đơng Dương đã chín m̀i”, vì vậy, phải “Kịp thời hành động,
khơng bỏ lỡ cơ hội”, khẩn trương “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,
không kể thành phố hay thôn quê, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi
làm chủ”, tất cả vì mục tiêu: “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đến 23 giờ ngày
13-8-1945, Uỷ ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng
lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp đó, ngày 16-8-1945, Đại hội Q́c
dân tại Tân Trào đã thơng qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thông qua
lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Q́c ca và bầu
Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hờ Chí Minh đã ra lời kêu gọi” “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn thể đồng bào hãy đứng lên
đem sức ta mà giải phóng cho ta!”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả
nước ta đã đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền

trong khắp cả nước. Cuộc tổng khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14-8-1945
và đến ngày 18-8-1945, chúng ta đã giành thắng lợi ở nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ, đại bộ phận các tỉnh miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị
xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam. Ngày 19-8-1945,
khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế
và các thị xã: Bắc Cạn, Hoà Bình, Hải Phịng, Hà Đơng, Quảng Trị, Quảng
Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Ngày 25-8-1945,
khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Lạng Sơn, Kon Tum,
Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Biên Hoà, Tây


Ninh, Bến Tre… Chỉ trong vịng 15 ngày ći tháng 8-1945, cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền
cả nước thuộc về nhân dân. Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt
trận Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã ćn phăng chính quyền
phát-xít Nhật và tay sai. Ngày 30-8-1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thối vị và
tun bớ “thà làm dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc mít tinh
khổng lờ cảu gần 1 triệu đờng bào. Chủ tịch Hờ Chí mInh thay mặt Chính
phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tun ngơn Độc lập, tun bớ nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa ra đời. Như vậy, mọi việc được chúng ta hoàn tất
trước ba ngày để ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ Lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa đón tiếp qn Đờng minh vào tước khí
giới quân Nhật trên đất nước ta.
b/ Kết quả của việc chớp đúng thời cơ của Đảng ta
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hờ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định
đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp
thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây
là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách

mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
Cách mạng tháng Tám đã nêu cao tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam,
một dân tộc có truyền thớng lâu đời chiến đấu vì độc lập tự do, quyết không
chịu làm nô lệ. Là kết quả của tám mươi năm đấu tranh không ngừng của
dân tộc Việt Nam chớng thực dân Pháp. Nó cũng là một sự kiện lịch sử vĩ
đại nhất của nước ta từ khi Quang Trung đánh đuổi quân xâm lược Mãn
Thanh (1789) đến nay. Thật thế, suốt trong thời gian ấy, không có một cuộc


vận động nào thể hiện tinh thần anh dũng, quật cường và sự đoàn kết, thống
nhất của dân tộc Việt Nam bằng Cách mạng tháng Tám. Không những giật
tung được xiềng xích của bọn đế q́c phát-xít, Cách mạng tháng Tám lại lật
nhào được chế độ quân chủ thành lập trên đất nước ta hàng chục thế kỷ, làm
cho nước Việt Nam thành một nước cộng hòa dân chủ, đưa dân tộc Việt
Nam lên hàng các dân tộc tiên phong. Giá trị lớn lao của Cách mạng tháng
Tám chính ở chỗ đó. Và cụ Hờ Chí Minh, vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Người lãnh đạo Cách mạng tháng Tám, rất xứng
đáng là anh hùng dân tộc của nước ta. Cách mạng tháng Tám tỏ rõ tinh thần
chớng phát-xít và u chuộng dân chủ và hịa bình của nhân dân Việt Nam.
Nó kết thúc vẻ vang một cao trào chớng phát-xít Nhật, Pháp trong thời kỳ
chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam
đã nêu ra trước Liên hợp q́c điều u sách tổng qt của mình: Các cường
quốc phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam theo đúng
các hiến chương Đại Tây Dương và Cựu Kim Sơn. Chính thế, vì phát-xít
Nhật đổ thì tất cả những dân tộc thuộc địa Nhật phải được giải phóng, khơng
kẻ nào có thể thay chân Nhật mà áp bức, bóc lột các dân tộc ấy được. Nhân
dân Việt Nam bị Nhật thống trị từ năm 1940, lại có cơng đánh Nhật bên cạnh
Đờng minh, nhất định phải được độc lập! Nhân dân Việt Nam quyết không
để cho thực dân Pháp trở lại áp bức mình như trước, cũng khơng chịu chế độ
"q́c tế quản trị", vì nhân dân Việt Nam đã trưởng thành rồi! Cách mạng

tháng Tám và cuộc chiến đấu chống phản động Pháp trong ngót một năm
nay của nhân dân Việt Nam đã thét lớn nguyện vọng thiết tha trên đây cho
thế giới biết. Cách mạng tháng Tám đã chọc thủng được hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc ở một trong những mắt xích yếu nhất của nó, mở đầu
cho một q trình tan rã khơng thể cứu vãn được của chủ nghĩa thực dân trên
thế giới. Cách mạng tháng Tám đã báo hiệu giờ giải phóng của các dân


tộc bị áp bức đến rồi. Về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã khơng gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa
thực dân cũ, góp phần cớng hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa
thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới, cổ vũ các cuộc vận động giải
phóng dân tộc của nhân dân Lào, nhân dân Cao Miên và nhân dân các nước
thuộc địa khác ở Đông-Nam châu Á. Bằng cuộc Cách mạng tháng Tám và
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hiện nay, nhân dân Việt Nam đã và
đang dũng cảm gánh một phần nhiệm vụ ấy. Trong hàng ngũ các lực lượng
dân chủ, tiến bộ đấu tranh cho một thế giới tươi đẹp hơn, không vắng mặt
nhân dân Việt Nam. Dù người ta muốn hay không muốn, Cách mạng Việt
Nam đã thành một bộ phận của cuộc đấu tranh vĩ đại của nhân dân thế giới
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân Việt Nam
đã hiểu nhiệm vụ quốc tế của mình trong thời kỳ sau chiến tranh này. Nó
quyết hoàn thành nhiệm vụ ấy, bất chấp mọi trở lực.
3/ Vận dụng.
Hơn sáu thập kỷ đã trôi qua, bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ
cách mạng của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên
giá trị thời sự và đi cùng năm tháng. Nếu như trước đây, trong Cách mạng
Tháng Tám, Ðảng chủ trương xây dựng lực lượng, chủ động đón thời cơ
khởi nghĩa giành chính quyền,thì ngày nay, nhận định về thời cơ trong bới
cảnh tình hình trong nước và q́c tế đã có những thay đổi căn bản, vấn đề

hội nhập, toàn cầu hóa nổi lên như một xu thế vận động tất yếu của thế giới
hiện đại. Cho dù khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng nếu biết
tranh thủ thời cơ, tận dụng những yếu tố thuận lợi, những thời cơ nảy sinh từ
cuộc khủng hoảng, nhất định chúng ta sẽ vượt qua thách thức đưa đất nước


tiếp tục tiến lên, vững bước trên con đường Ðổi mới. Ðể nắm bắt được thời
cơ, vượt qua thách thức, trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thời đại phát triển kinh tế tri thức, Ðảng ta chỉ ra rằng, cùng quyết
tâm chính trị, thì yếu tớ con người, ng̀n lực con người có tri thức là yếu tớ
quyết định.Trên nền tảng ổn định chính trị, Đảng ta đề ra đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, theo phương châm “Việt Nam
ḿn là bạn của tất cả các nước”. Đường lối đối ngoại cởi mở đó đã tạo ra
những cơ hội tớt đẹp, trong đó có việc thu hút vớn của các nước vào Việt
Nam, nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vị trí của Việt Nam
trên trường q́c tế ngày một cao. Việt Nam là thành viên của Liên hợp
quốc, của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và vào ngày 7-112006, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Những bước
tiến thần kỳ của đất nước thời kỳ đổi mới có một phần là do Đảng ta nắm
vững và vận dụng bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cũng như trong Cách mạng Tháng Tám và các thời kỳ cách mạng
trước đây, trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng
được xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
thể hiện trong trình độ tư duy lý luận, vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan để đề ra Cương lĩnh, đường lới thích hợp, tăng cường sức mạnh tổ
chức, kỷ luật và năng lực tổ chức thực tiễn. Những chủ trương, đường lối
được Đảng ta đề ra kịp thời, thiết thực, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực
tiễn là minh chứng sinh động cho việc kế thừa, vận dụng một cách linh hoạt,
sáng tạo bài học về thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám vào điều kiện và
tình hình cụ thể của nước ta trong từng giai đoạn phát triển đất nước. Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền thông qua việc phát huy ngày càng tốt hơn

quyền làm chủ của nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thông qua nhà


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không ngừng được củng cố và hoàn
thiện. Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân
dân, xã hội thừa nhận, ủng hộ, được thể chế trong Hiến pháp và pháp luật và
được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Hiện nay, đã tiến hành xong Đại hội Đảng
bộ cấp cơ sở, đang tiến hành Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm 2011. Đại hội XI có ý nghĩa
trọng đại, đề ra đường lới tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế tuy vẫn cịn những khó khăn, thách thức
và diễn biến khó lường, song Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã
tranh thủ tối đa những cơ hội thuận lợi, vượt qua mọi thách thức, phát triển
đất nước. Đó là thành tựu nhiều mặt của cuộc cách mạng khoa học, cơng
nghệ trên thế giới. Đó là thời kỳ chấm dứt chiến tranh lạnh, đối thoại thay
cho đối đầu, là quá trình toàn cầu hóa, hợp tác và hội nhập q́c tế. Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện đường lới đới ngoại độc lập, tự
chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đới ngoại đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ q́c tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế q́c tế,
đờng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy của các nước, là thành viên có trách nhiệm của cộng đờng
q́c tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, nhờ vào
việc vận dụng thờ cơ trong cách mạng Tháng Tám vào thực tế ngày nay.
Trước hết, nhận định đúng tình hình và yêu cầu phát triển của thực
tiễn để có thể đề ra các quyết sách hợp lý. Những năm đầu sau ngày giải
phóng miền Nam, thớng nhất đất nước, nước ta cịn nhiều khó khăn, đời



sớng nhân dân cịn túng thiếu. Đặc biệt, sai lầm về tổng điều chỉnh giá,
lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất nước đến những khó khăn
mới, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình
trên, Đảng xác định cần tiến hành công cuộc đổi mới, chỉ rõ thách thức lớn
nhất của cách mạng nước ta là nền kinh tế từ điểm xuất phát rất thấp lại lâm
vào khủng hoảng kéo dài, vừa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nhiệm
vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế, vấn đề cấp bách là ổn định, cải thiện
đời sống nhân dân, sớm đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) khởi xướng đã
mở đầu cho thời kỳ mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX nước ta lại chịu tác
động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đơng Âu và Liên Xơ. Trong nước, có khơng ít ý kiến dao động,
đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, và cho rằng không nên tiếp tục đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa... Sớm nhận thấy những tác động tiêu cực
đó, tháng 3-1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI đã đề ra 5 nguyên tắc chỉ đạo đổi mới, bảo đảm cho nước ta vượt
qua thách thức mới, thực hiện công cuộc đổi mới đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước ta đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức, đặc biệt là tình trạng một
bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, nạn tham nhũng, lãng phí có
nguy cơ đe doạ sự tờn vong của Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X (tháng 7-2006) đã ra Nghị quyết Về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phịng, chớng tham nhũng, lãng phí.
Những quan điểm, chủ trương và giải pháp mạnh mẽ phịng, chớng tham
nhũng, lãng phí đã có được những kết quả quan trọng, nhằm ngăn chặn và
đẩy lùi một trong những nguy cơ lớn đối với đất nước và chế độ ta. Ngày 7-



11-2006, Bộ Chính trị đã có Quyết định sớ 06 phát động “toàn Đảng, toàn
dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hờ Chí Minh”. Việc học tập và
làm theo đạo đức của Bác Hờ có ý nghĩa quan trọng để đẩy lùi sự suy thoái
về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, nhưng
quan trọng hơn là xây dựng, củng cố nền tảng đạo đức cách mạng của xã hội
ta, dân tộc ta, hướng đến sự phát triển mạnh mẽ, bền vững của đất nước
trong thời đại ngày nay.
Thứ hai, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", bảo đảm và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hội nhập trên cơ sở kiên định con đường và mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hờ Chí Minh,
kết hợp với tìm hiểu và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân, xác định đúng tình hình và yêu cầu thực tiễn của đất nước để đề ra
những quyết sách hợp lý. Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta đã đề ra
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Chiến lược
xác định: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó, tình hình kinh tế - xã hội dần có những biến chuyển mới, đời sớng
người dân có những cải thiện đáng kể, chính trị, xã hội tiếp tục ổn định, q́c
phịng, an ninh được giữ vững, đường lối đối ngoại Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trên thế giới đã chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đới
ngoại... giúp tăng cường, củng cớ lịng tin của nhân dân về vai trò lãnh đạo
của Đảng. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh, đối thoại thay cho đối đầu, sự mở
rộng liên kết, hợp tác giữa các nước, các khu vực, phát triển thị trường thế
giới và thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đã tạo
điều kiện cho nhiều nước ổn định và phát triển. Đó là cơ hội thuận lợi cho
Việt Nam phát triển ở thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, tiến hành chính sách đối


thoại, hợp tác và hội nhập quốc tế: khôi phục quan hệ bình thường với Trung
Q́c (năm 1991), bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (năm 1995), gia

nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á (năm 1995). Sau mười năm đổi mới,
năm 1996, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành
những nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đó là
cơ hội thuận lợi để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, mở
rộng hơn quan hệ hợp tác với các nước và tích cực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Những năm cuối của thế kỷ XX đất nước phải vượt qua thách
thức mới do khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực 1997 - 1998,
những khó khăn trong nước và đã ngăn chặn có hiệu quả đà suy giảm về
kinh tế.
Thứ ba, xác định đúng thời cơ, thời điểm để đưa ra đường lối phát triển
phù hợp. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng về đường lối đổi mới, phát triển
đất nước, làm cho sản xuất "bung ra" trong điều kiện đời sớng nhân dân gặp
nhiều khó khăn, lạm phát phi mã đến 774,7%, đã thực sự thổi một luồng sinh
khí vào đời sớng xã hội, đem đến sự phấn chấn về tinh thần cho người dân,
tạo những khởi sắc bước đầu cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Khi
đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, Đảng ta đã nhận định rõ những thời cơ
và thách thức lớn, đặc biệt nhấn mạnh việc các thế lực thù địch vẫn không
ngừng tiến hành những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" nhằm chớng
phá các thành quả cách mạng của chúng ta. Từ đó, tuỳ từng giai đoạn cụ thể,
Đảng đã đề ra các chủ trương, đường lối về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, quan điểm Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước, "hoà nhập nhưng không hoà tan", đặc biệt là việc ban hành Nghị
quyết Trung ương 5 khoá VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" trong bới cảnh nền văn hố nước ta


có nguy cơ bị mai một, biến đổi trước những tác động của nền kinh tế thị
trường thời mở cửa... thực sự là những quyết sách được đưa ra kịp thời, vừa
đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, vừa có tính chất định hướng cho sự
phát triển kinh tế, văn hố, xã hội... của đất nước. Trong cơng cuộc đổi mới,

Việt Nam đã chủ động đề nghị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), các nước trên thế giới cũng từng bước thừa nhận nền kinh tế thị
trường của Việt Nam và cùng vớisự kiên trì đàm phán qua 11 năm, ngày 711-2006, Việt Nam đã được kết nạp vào tổ chức này. Đó là một cơ hội cho
nước ta hội nhập kinh tế quốc tế tốt hơn, toàn diện và có hiệu quả hơn. Tại
Hội nghị Trung ương 4 khoá X họp tháng 1-2007, Đảng đã kịp thời ra Nghị
quyết số 8-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới. Trong Nghị quyết quan trọng đó Trung ương đã nêu rõ 5 cơ hội
và 5 thách thức khi nước ta là thành viên của WTO, từ đó góp phần định
hướng phát triển kinh tế đất nước một cách hiệu quả. Từ cuối năm 2007, thế
giới lâm vào khủng hoảng và suy thoái kinh tế nặng nề và kéo dài suốt các
năm 2008, 2009 đã tác động tiêu cực không chỉ đến các nền kinh tế của các
nước phát triển hàng đầu mà cả với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn thách thức
mới: Thị trường xuất khẩu thu hẹp, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh, lạm
phát tăng, năm 2008 lên tới trên 19%, lao động thiếu việc làm, nhiều doanh
nghiệp có nguy cơ phá sản, giá cả tăng, đời sớng khó khăn... Để chủ động
vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, ngày 4-4-2008,
Bộ Chính trị đã có kết luận sớ 22 và Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp
nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Hội nghị Trung ương 7 khoá X (tháng 7-2008) đã đề ra những chủ trương
lớn để khắc phục khủng hoảng. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 10-2008) đã


đánh giá và đề ra giải pháp toàn diện, đưa ra Q́c hội khố XII kỳ họp thứ 4
thảo luận và quyết định. Chính phủ có chính sách hỗ trợ có hiệu quả cho các
doanh nghiệp, các ngành, các thành phần kinh tế, phát triển mạnh thị trường
trong nước. Với những quyết sách đó, kinh tế - xã hội của đất nước ngày
càng có những bước phát triển mới; nền văn hố dân tộc được duy trì và
phát huy, thực sự là nền tảng tinh thần, là động lực cho sự phát triển; q́c

phịng, an ninh được giữ vững; đời sống nhân dân ngày càng ổn định, ấm no;
mối quan hệ hợp tác của nước ta với nhiều nước trên thế giới được củng cố
thêm, tăng cường, tạo nền tảng cho sự phát triển hoà bình, ổn định trong khu
vực và trên thế giới. Năm 2008, Việt Nam đạt thu nhập đầu người trên 1.000
USD vượt qua ngưỡng của nước nghèo, kém phát triển là cơ hội tốt để phát
triển nhanh để có thu nhập 2.000 USD vào năm 2015, 3.000 USD vào năm
2020. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng của đất nước không ngừng
phát triển bảo đảm cho sự phát triển nhanh và vững chắc của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về
đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước; về chớng tham nhũng, lãng phí...Với sự nỗ lực, cố gắng của toàn dân,
của các thành phần kinh tế thực hiện các chủ trương, biện pháp đúng đắn của
Đảng và Chính phủ nên đã ngăn ngừa có hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu
cực của khủng hoảng đối với nền kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng GDP
năm 2008 đạt 6,18%, năm 2009 là 5,32%. Tổng giá trị sản phẩm nội địa
(GDP) năm 2005 là 53 tỉ USD đã tăng lên 88,7 tỉ USD năm 2008. Thu nhập
bình quân đầu người năm 2009 đạt trên 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước
đang phát triển có thu nhập thấp. Lạm phát được kiểm sốt và đẩy lùi x́ng
dưới 7%. Xuất khẩu 6 triệu tấn gạo. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là 15,5%, năm
2007 là 14,8%, năm 2008 là 13,1% và năm 2009 giảm x́ng cịn 12,4%.
Năm 2010, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt thu nhập bình quân đầu


người khoảng 1.200 USD và tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%. Bằng việc
phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới, tận dụng và nắm
bắt thời cơ, cơ hội một cách nhanh chóng, sáng tạo, lấy đó làm nền tảng đẩy
lùi và hạn chế các nguy cơ, thách thức. Sau khi gia nhập WTO, Đảng và Nhà
nước động viên toàn dân phát huy nội lực, tranh thủ cơ hội mới để phát triển
và tích cực, chủ động đẩy lùi nguy cơ. Vì vậy, xuất khẩu hàng hố đã tăng

nhanh, vớn đầu tư nước ngoài vẫn không ngừng tăng lên. Nền kinh tế của
đất nước và từng ngành kinh tế đứng trước yêu cầu mới, là không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Đó là điều kiện rất quan trọng để Việt Nam có thể vượt qua
khủng hoảng kinh tế của thế giới những năm 2007 - 2009, tạo tiền đề cho
bước phát triển mới trong những năm tiếp theo.
Thứ tư là thu phục lịng dân từ chính những quyết sách, định hướng phát
triển đúng đắn, hợp lý đã được đề ra để từ đó biết huy động sức dân mà vận
dụng thời cơ một cách thích hợp, đẩy lùi, hạn chế những nguy cơ, thách
thức, để nhân dân tin tưởng và đoàn kết, nhất trí một lịng thi đua thực hiện
tốt các chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng đề cao sự phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới, tận dụng và nắm bắt thời cơ, cơ hội một
cách nhanh chóng, sáng tạo, lấy đó làm nền tảng đẩy lùi và hạn chế các nguy
cơ, thách thức. Sau khi gia nhập WTO, Đảng và Nhà nước động viên toàn
dân phát huy nội lực, tranh thủ cơ hội mới để phát triển và tích cực, chủ
động đẩy lùi nguy cơ. Nước ta có nội lực rất to lớn (tài nguyên, đất đai,
rừng, biển, sức lao động). Kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển là thế mạnh.
Dân số đang ở thời kỳ dân sớ vàng, có hơn 40 triệu lao động trẻ, khỏe, nếu


được đào tạo tạo nên ng̀n nhân lực có trình độ cao sẽ tạo nên sức phát
triển to lớn cho đất nước. Năm 2008, Việt Nam đạt thu nhập đầu người trên
1.000 USD vượt qua ngưỡng của nước nghèo, kém phát triển là cơ hội tốt để
phát triển nhanh để có thu nhập 2.000 USD vào năm 2015, 3.000 USD vào
năm 2020. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng của đất nước không
ngừng phát triển bảo đảm cho sự phát triển nhanh và vững chắc của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế nước ta đã xuất
hiện những dấu hiệu tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiềm
chế, an sinh xã hội được giữ vững. Một số lĩnh vực kinh tế sản xuất và kinh

doanh đã phục hồi trở lại. Đứng trước thời cơ mới xuất hiện trong làm ăn về
kinh tế như trên, các ngành kinh tế, các nhà doanh nghiệp, các cấp ủy đảng
và chính quyền các cấp cần quan tâm hơn nữa tạo mọi điều kiện để cho các
doanh nghiệp có điều kiện để bứt phá nhằm hoàn thành kế hoạch sản xuất,
kinh doanh năm 2009. Cùng với việc tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp,
các chủ thể sản xuất kinh doanh có ng̀n vốn, vật tư, đủ sản xuất và kinh
doanh, nhất là các đơn vị làm hàng xuất khẩu, thì một vấn đề có tính cấp
bách và lâu dài là phải chú ý đến nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực có chất lượng cao, có đủ đức tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu làm chủ
khoa học cơng nghệ, chính là nhiệm vụ hàng đầu, với tinh thần thi đua yêu
nước, lao động, học tập, làm việc, cống hiến hết mình của đội ngũ cán bộ,
đảng viên và nhân dân vì sự phát triển chung của đất nước là minh chứng rõ
rệt cho sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, hợp lịng dân của Đảng ta. Vì vậy,
xuất khẩu hàng hố đã tăng nhanh, vớn đầu tư nước ngoài vẫn không ngừng
tăng lên. Nền kinh tế của đất nước và từng ngành kinh tế đứng trước yêu cầu
mới, là không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản
phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó là điều kiện rất quan trọng để


Việt Nam có thể vượt qua khủng hoảng kinh tế của thế giới những năm 2007
- 2009, tạo tiền đề cho bước phát triển mới trong những năm tiếp theo.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) khẳng
định công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Để phát triển nhanh và bền vững hơn, Đại hội X xác định 8
nhiệm vụ chủ yếu và đề ra 5 giải pháp chủ yếu về chính sách phát huy các
nguồn lực; về phát triển đồng bộ các loại thị trường, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; về chớng tham nhũng,
lãng phí...cùng với sự nỗ lực, cố gắng của toàn dân, của các thành phần kinh
tế thực hiện các chủ trương, biện pháp đúng đắn của Đảng và Chính phủ nên

đã ngăn ngừa có hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu cực của khủng hoảng đối
với nền kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 6,18%, năm
2009 là 5,32%. Tổng giá trị sản phẩm nội địa (GDP) năm 2005 là 53 tỉ USD
đã tăng lên 88,7 tỉ USD năm 2008. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009
đạt trên 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Lạm phát được kiểm sốt và đẩy lùi x́ng dưới 7%. Xuất khẩu 6 triệu tấn
gạo. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là 15,5%, năm 2007 là 14,8%, năm 2008 là
13,1% và năm 2009 giảm x́ng cịn 12,4%. Năm 2010, chúng ta hoàn toàn
có khả năng đạt thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.200 USD và tăng
trưởng kinh tế khoảng 6,5%.
Gần một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã tận dụng được những cơ hội thuận lợi để phát triển đất nước,
đồng thời cũng chủ động vượt qua nhiều thách thức, khủng hoảng chính trị,
kinh tế, tài chính của thế giới để giữ vững ổn định và tiếp tục phát triển về
mọi mặt. Sự kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học về chớp thời cơ, đẩy lùi


nguy cơ từ cuộc Cách mạng Tháng Tám vẻ vang của Đảng ta trong những
năm qua đã, đang và sẽ luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho bước
đường phát triển đất nước ta trong thời kỳ hội nhập ngày nay. Và hiện nay,
đã tiến hành xong Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, đang tiến hành Đại hội đảng
bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm
2011. Đại hội XI có ý nghĩa trọng đại, đề ra đường lới tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo tiền đề vững chắc để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


KẾT LUẬN
Dân tộc Việt Nam đã viết lên nhiều trang sử vẻ vang với những chiến

công chống xâm lược và chớng ách thớng trị của giặc ngoại xâm, trong đó
cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất,
đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Sự thành công của cách
mạng Tháng Tám là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc
anh hùng, bất khuất có lịch sử hàng nghìn năm chớng xâm lược phong kiến
và ngót một trăm năm chống ách thống trị của bọn đế q́c thực dân. Đó
cũng là kết quả của 15 năm đấu tranh (1930 – 1945) của giai cấp công nhân
và của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng śt của Đảng, đứng
đầu là chủ tịch Hờ Chí Minh. Đặc biệt trong những ngày này, với khơng khí
cả nước đang vui mừng chào đón ngày q́c khánh, chúng ta bời hời nhớ
đến Chủ tịch Hờ Chí Minh, chính Người là nhà kiến trúc sư thiên tài đã tiên
đoán được thời cơ và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chớp được
thời cơ và tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công
khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ngày nay là Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tưởng nhớ đến người, sau hơn 41 năm thực hiện
di chúc thiêng liêng của người, chúng ta nguyện, cho dù khó khăn do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu tác động đến nền kinh tế nước ta, nhưng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta chung sức, chung lòng biết tranh thủ thời cơ, tận dụng
những yếu tố thuận lợi, những thời cơ này nảy sinh ra từ cuộc khủng hoảng.
Và sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ, đồng thời cũng tận dụng được
những cơ hội, những nhân tớ thuận lợi để thực hiện có hiệu quả đường lối
đổi mới, từng bước đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,


đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, giữ vững con đường và
mục tiêu xã hội chủ nghĩa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

I/ Sách, báo
1.

Hờ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị q́c gia, Hà Nội, 2000, tập 3.
2.

Một sớ chun đề lịch sử đảng.

3.

Giáo trình đường lới cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam (có chỉnh
sửa bổ sung).

II/ Nguồn từ internet
1. />
tam.html
2. />
id=168201073541
3. />4. />
co_id=30257&cn_id=474112#
5. />6. />
option=com_content&task=view&id=1064&Itemid=69
7. />8. />
m_quy_tu_Cach_mang_Thang_Tam.aspx
9.

• Chú giải:
(1) Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị q́c gia, Hà Nội, 2000, t 7, tr 100
(2) Văn kiện đã dẫn, t 3, tr 140-141




×