Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

tiểu luận cơ sở văn hóa về văn hóa đi chùa khmer 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.63 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................... I
DANH MỤC HÌNH .................................................................................. III
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 3
Chương 1.......................................................... Tổng quan về chùa Khmer
3
1.1. Khái niệm chùa Khmer ..................................................................... 3
1.2 Nguồn gốc............................................................................................ 5
Chương 2..........Việc đi chùa vào các lễ hội đặc trưng của người Khmer
6
2.1. Thời gian và trang phục .................................................................... 6
2.1.1. Thời gian .......................................................................................... 6
2.1.2. Trang phục....................................................................................... 7
2.2. Thành phần tham dự ......................................................................... 8
2.3. Các nghi thức chuẩn bị ...................................................................... 9
2.3.1. Tết Chol Chnam Thmay: ............................................................... 9
2.3.2. Lễ Dâng y Kathina (Lễ dâng bông): ............................................. 9
2.3.3. Lễ Ook-Ơm-Bơk: ............................................................................ 9
Chương 3...... Vai trị và ý nghĩa chùa Khmer trong đời sống người dân
10
3.1. Vai trò................................................................................................ 10
3.2. Ý nghĩa .............................................................................................. 12
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................... 14
I



II


DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Chùa của người Khmer Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
Hình 2. Chùa Dơi - Sóc Trăng .. Lỗi! Thẻ đánh dấu khơng được xác định.
Hình 3. Người Khmer ............... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
Hình 4. Lễ Chol Chnam Thmay Lỗi! Thẻ đánh dấu khơng được xác định.
Hình 5. Lễ hội c- ôm -bok.... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
Hình 6. Lễ dâng y Kathina ........ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
Hình 7. Trang phục truyền thống của người Khmer ...... Lỗi! Thẻ đánh dấu
không được xác định.
Hình 8. Sư sãi người Khmer ..... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

III


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta trải dài qua nhiều vĩ độ, gồm nhiều dân tộc, hấp thụ nhiều
nền văn hóa khác nhau. Trong quá trình lịch sử đã xảy ra nhiều cuộc di dân
lớn bởi hoàn cảnh chiến tranh và những biến động của lịch sử. Những điều
đó đã tạo nên sự đa dạng phong phú về sắc tộc ở Việt Nam ta.
Bởi thế, có thể nói Việt Nam là một mái nhà chung, nơi các đồng bào
cùng chung sống trong tình anh em thân thiết, dù nguồn gốc sắc tộc có thể
khác nhau. Được biết đất nước ta có 54 thành phần dân tộc, mỗi dân tộc đều
mang màu sắc đặc trưng riêng. Trong số đó phải kể đến người Khmer, đặc
biệt là người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, một trong những màu sắc
đã góp phần tơ điểm thêm cho bức tranh mn màu mn vẻ về con người
và văn hóa Việt Nam. Người Khmer ở đồng bằng sơng Cửu Long có một

nền văn hóa truyền thống đặc sắc và phong phú. Và phật giáo là tôn giáo gần
như độc nhất và có ảnh hưởng đến đời sống nhiều mặt của người Khmer.
Mỗi sóc (là đơn vị cư trú bao gồm của Phum, tương đương với làng của
người Kinh) của người Khmer có ít nhất một ngơi chùa. Ngơi chùa là bộ mặt
xã hội, là trung tâm tơn giáo, văn hóa của cộng đồng cư dân Khmer trong
các sóc. Các vị sư sãi (người tu hành đạo Phật xuất gia trong chùa, sư tương
đương với thầy) có một vai trị quan trọng trong đời sống xã hội, văn hóa
của người Khmer.
Đối với người Khmer cuộc sống của họ luôn luôn gắn liền với chùa,
chùa là không gian tâm linh thỏa mãn đời sống tinh thần của họ. Chùa đã
bám rễ sâu vào tâm thức của mỗi người Khmer đã ảnh hưởng và chi phối
mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi lẽ chùa là nơi gieo mầm
giác ngộ, giáo dục đức hạnh, phẩm chất, trí tuệ con người
Chùa Khmer khơng chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo mà còn là
nơi giáo dục, đào tạo con người, nơi sinh hoạt văn hóa, nơi bảo tồn chữ viết,
phong tục tập qn, nâng cao dân trí, góp phần phát triển giáo dục vùng đồng
bào dân tộc thiểu số … Đây cũng chính là lý do tơi chọn đề tài “ Văn hóa đi
chùa của người Khmer Nam Bộ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Văn hóa đi chùa của người Khmer như là một nét đặc sắc tiêu biểu góp
phần làm giàu thêm sự phong phú trong kho tàng đời sống dân tộc Việt Nam.
Từ đó chúng ta có thể nhìn nhận và thấy ra được vai trò và ý nghĩa của ngôi
1


chùa đối với người dân Khmer Nam Bộ nói riêng và của người Khmer nói
chung mà xây dựng và hồn thiện nó hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Từ lâu vấn đề tín ngưỡng tơn giáo (Phật giáo Nam Tơng) đã nằm trong
tâm thức của mọi lớp người Khmer ở tất cả không gian và thời gian, chúng

được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống văn hóa ở các
lĩnh vực khác nhau.
Trong tiểu luận này sẽ xoay quanh văn hóa đi chùa của người dân
Khmer trong một số lễ hội tiêu biểu như: lễ hội Chol Chnam Thmay, lễ hội
c- Ơm- Bok và lễ dâng y Kathina.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện và hoàn thành đề tài này, phương pháp được sử dụng chủ
yếu là đọc và tổng hợp các tài liệu nghiên cứu đề tài.

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Tổng quan về chùa Khmer
1.1.

Khái niệm chùa Khmer

Chùa là một cơng trình kiến trúc phục vụ cho tín ngưỡng, là nơi ở của
các sư tăng,.. tu hành và truyền giáo lý. Những người không tu hành có thể
thăm viếng và thực hành các nghi thức tín ngưỡng theo tôn giáo.
Chùa Khmer là nơi dành cho đại đa số các phật tử đều là người Khmer
xuất gia, ngồi ra nó cịn là một trung tâm tín ngưỡng thờ tự Phật giáo cũng
là nơi để các phật tử Khmer gửi gắm những tâm tư nguyện vọng của mình
thông qua các hoạt động ở đây thì người dân Khmer có thể học tập và phát
huy được mặt tích cực của dân tộc mình (ngôn ngữ, phong tục, đạo đức,...)
trải qua nhiều thế hệ thì ngôi chùa vẫn là chỗ dựa tinh thần vững chắc của
họ.
Đồng bào Khmer Nam bộ có câu "Sống vào chùa gửi thân, chết vào
chùa gửi cốt”. Có thể nói ngơi chùa Khmer là nơi chứa đựng những giá trị

tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, nơi sinh hoạt tơn giáo, trung tâm sinh hoạt văn
hố của cộng đồng dân cư phum, sóc. Vì vậy, ngơi chùa Khmer Nam bộ là
một công trình kiến trúc - trang trí có nhiều giá trị về mặt thẩm mỹ, thể hiện
nét văn hố - nghệ thuật và là khơng gian thiêng liêng nhất.
Người Khmer quan niệm Đức Phật luôn bên họ để che chở và ban phúc
lành nên hầu như ở trong các phum, sóc, người dân tự nguyện đóng góp để
xây dựng ngơi chùariêng cho địa phương mình. Trong hơn 1 triệu người
Khmer sinh sống ở khuc vực Nam Bộ, có đến khoảng 600 ngơi chùa Khmer
lớn nhỏ, trong đó có những ngơi chùa có niên đại xây dựng cách đây vài thế
kỉ, được cơng nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia như: chùa
Âng, chùa Mẹt, chùa Hang, chùa Dơi...
Chùa Khmer thường được xây dựng trên một khu đất rộng, và
vàdduowcj bao bọc bởi các cây cối xanh tươi như cây dầu, cây thốt nốt.Tổng
thể một ngôi chùa Khmer gồm: cổng chùa, tường rào, ngôi chính điện, tháp
đựng cốt, tăng xá, nhà hội, an xá,… Trong đó, phần nổi bật và quan trọng
nhất là phần ngơi chính điện được xây dựng ở trung tâm của ngơi chùa.
Ở mỗi ngơi chùa Khmer, chính điện được xây theo hướng Đơng - Tây
vì họ có quan niệm rằng Đức Phật ln ngự ở phía Tây nhìn về hướng Đơng
mà ban phúc lộc, cứu độ chúng sinh. Nóc chùa được thiết kế theo một tổng
thể hình tam giác cân, mái chùa có ba cấp, mỗi cấp được chia thành ba nếp,
3


nếp giữa lớn hơn, hai nếp phụ hai bên bằng nhau, khơng có tháp nóc. Ở bốn
góc nóc mái chính điện được trang trí hình tượng bốn đi rồng uốn lượn.
Mặt tường ngồi của chính điện thường trang trí các hình tượng tiên nữ
xinh đẹp, chim thần Krud nâng đỡ mái chùa, những hình ảnh này đã được
lấy từ văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Khmer.
Bên ngồi chính điện là dãy hành lang rộng rãi thoáng mát. Hình tượng
chú rắn Naga uốn lượn ở hai bên bậc thang hành lang là tượng trưng cho caí

tà ác và bị thu phục bởi Đức Phật.
Khơng gian chính điện của chùa khmer được bài trí rất đơn giản, bàn
thờ hình đài sen được chia làm nhiều tầng và được trang trí cẩn thận để tơn
trí, đức phật ở trên.Tượng Phật Thích Ca điêu khắc phối hợp.Với khơng gian
chính điện có thể đứng nằm ngồi với nhiều tư thế thể hiện sự đa dạng và
phong phú về ý nghĩa và vẻ đẹp của đức Phật.
Trên tất cả các bức tường hay khắp các cột kèo, cánh cửa đều được các
nghệ nhân khmer chạm khắc trang trí hình ảnh chủ yếu là cảm hứng từ lời
đức phật và cộng đồng người khmer. Những đặc trưng của ngơi chùa rất độc
đáo.
Qua đó có thể thấy, chùa là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của mỗi
phum sóc Khmer. Đây là nơi tu hành của các nhà sư, đồng thời là nơi người
dân địa phương đến để nghe các nhà sư thuyết giảng về kinh Phật. Ngoài ra,
bà con trong làng sẽ đến chùa để hỏi ý kiến nhà sư khi họ bắt đầu công việc
mới và khi họ gặp phải những vướng mắc trong cuộc sống hàng ngày. Đồng
bào Khmer tự nguyện đến chùa đóng góp cơng, góp của để xây dựng, sửa
chữa chùa. Chùa Khmer cũng là nơi người Khmer tổ chức các lễ hội lớn
trong năm như Tết Chol Chnam Thmei, lễ cúng tổ tiên (Đôn Ta) và các nghi
lễ Phật giáo. Trong chùa cịn có trường dạy chữ Khmer cho trẻ em Khmer
trong sóc. Nhà chùa dạy các nhà sư đọc tiếng Pali và đọc kinh Phật. Nhiều
ngơi chùa Khmer cịn có thư viện, nơi lưu giữ nhiều kinh Phật và sách báo
về văn hóa truyền thống của người Khmer. Những vị khách quý của phum,
sóc sẽ được đón tiếp và chào đón trong các ngơi chùa Khmer.Những cuộc
hội họp về cơng việc chung của các thành viên trong sóc cũng thường được
tổ chức tại ngơi chùa. Có thể nói, chùa Khmer vừa là trung tâm tơn giáo,
trung tâm văn hóa, giáo dục và xã hội của mỗi sóc, phum. Người Khmer đã
bỏ nhiều công sức, vật chất để xây dựng ngôi chùa của sóc khang trang và
họ tự hào về ngơi chùa của mình. Những vị khách quý của phum, sóc Được
hoan nghênh trong các ngôi chùa khmer.Và các cuộc họp về các thành viên
4



trong sóc làm việc cùng nhau thường được tổ chức trong các ngơi chùa. Có
thể nói, chùa khmer khơng chỉ là trung tâm tín ngưỡng các phum sóc mà cịn
là trung tâm văn hóa giáo dục xã hội. Người khmer bỏ nhiều thời gian tâm
sức.Để xây dựng lên ngôi chùa khang trang, họ tự hào về ngơi chùa của
mình.
1.2 Nguồn gốc
Khmer là Một dân tộc gồm 54 anh em trên đất nước Việt Nam theo
thống kê năm 2009 dân tộc này có dân số hơn 1,2 triệu người phân bố ở
nhiều tỉnh phía nam nhưng tập trung nhiều ở đồng bằng sơng Cửu Long,
các tỉnh có đơng đồng bào khmer sinh sống là Sóc Trăng, Trà Vinh,
Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tây Ninh và thành phố
Hồ Chí Minh.
Tổ tiên của người Khmer Nam Bộ là lớp cư dân cổ ở Đông Nam Á cư ngụ
tại vùng hạ Lào, đông bắc Campuchia ngày náy. Từ cuối thế kỷ 15 và đầu
thế kỷ 16, đồng bằng Sông Cửu Long đã có mặt của người Khmer. Họ lập
thành 3 vùng dân cư tập trung lớn là: vùng Sóc Trăng - Bạc Liêu, An Giang
- Kiên Giang và vùng Trà Vinh. Người Khmer ở Nam Bộ Việt Nam và người
Khmer ở Campuchia có chung nguồn gốc lịch sử tộc người, chung tiếng nói,
gần gũi về những đặc trưng văn hóa nên nhìn chung họ có cùng văn hóa chùa
chiềng.
Tại Nam Bộ, cứ khoảng 5-7 gia đình Khmer trong mối quan hệ chặt chẽ
về huyết thống quy tụ gần nhau tạo thành một đơn vị gọi là phum. Một số
phum như vậy quần tụ xung quanh một ngôi chùa tạo thành một điểm cư
dân lớn hơn gọi là sóc( sóc tương đương với làng của người Kinh).
Từ thế kỷ 17, những lớp cư dân người Việt từ vùng Ngũ Quảng - Trung
Bộ thuộc vương triều của chúa Nguyễn tìm đến vùng đất Nam Bộ để khai
hoang và nhanh chóng phát triển. Để quản lý cư dân, năm 1698 nhà Nguyễn
đã thiết lập một hệ thống chính quyền nhà nước ở đây.

Có thể thấy phần lớn dân số người Khmer là tín đồ của Phật giáo( 97%)
vậy nên kiến trúc của những ngôi chùa cũng có những đặc điểm của chùa
Thái Lan, Campuchia, Lào,.. xét về phương diện tinh thần thì ngôi chùa ở
Khmer có tầm quan trọng rất đáng kể, đây là nơi diễn ra các hoạt động truyền
thống mang dấu ấn của Phật giáo và đạo Bà La Môn.
5


Chương 2. Việc đi chùa vào các lễ hội đặc trưng của người Khmer
2.1.

Thời gian và trang phục

2.1.1. Thời gian
Đầu tiên, chúng ta sẽ bắt đầu đến một lễ hội vơ cùng nổi tiếng của người
dân Khmer và nó là lễ hội truyền thống của người dân ở đây, lễ hội Chol
Chnam Thmay (Chol Chnam Thmay) trong đây Chol có nghĩa là: vào, còn
Chnam Thmay: năm mới. Lễ hội này được xem như Tết cổ truyền lớn nhất
và mang tính tổng hợp nhất của người dân Khmer, lễ hội này cũng đồng thời
diễn ra tại các nước Campuachia, Thái Lan, Lào, Myanmar,... vì họ sử dụng
chung 1 bộ lịch cổ xưa thường được tổ chức vào giữa tháng tư dương lịch
thường được kéo dài trong 3 ngày nhưng đối với những năm nhuận thì số
lượng tăng thêm một là 4 (tối 13 đến chiều ngày 16 tháng 4 tây lịch), mỗi
một ngày lễ sẽ có một tên gọi khác nhau. Họ quan niệm rằng mỗi một năm
ở trên trời sẽ đưa xuống cho họ một vị thần để trông coi và bảo vệ đời sống
của họ được đầy đủ sung túc bên gia đình và cứ như thế hết một năm thì sẽ
có vị thần khác đến thay thế cho vị thần cũ. Không giống như tiết thanh minh
của người Việt ta được tổ chức vào cuối vụ mà lễ Tết của người Khmer lại
được tổ chức ở đầu vụ với mong muốn có một khởi đầu mới, lễ tết truyền
thống đối với họ vừa là để tìm thức hướng về những cái cũ những giá trị cũ

nhưng cũng đồng thời hướng về cái mới mẻ tốt đẹp, khởi đầu mới bắt đầu
mới, theo như nông lịch của người Khmer thì đây là thời điểm vừa thu hoạch
lúa xong bước vào mùa khô mọi người hầu như được nhàn rỗi hoàn toàn để
chờ những cơn mưa đầu mùa tới. Về thời gian chuyển giao giữa năm cũ và
năm mới người Khmer khơng ấn định nó là 0 giờ 0 phút như Tết của những
nước khác mà thời gian giao thừa linh hoạt theo từng năm, thời gian này do
bộ phận chuyên trách của hoàng gia Campuchia ấn định theo Phật lịch kết
hợp với tín ngưỡng Bà La Mơn Tiếp đến, lễ hội c- Ơm- Bok (lễ cúng
trăng) được diễn ra vào ngày rằm tháng 10 âm lịch định kỳ hằng năm. cƠm-Bok có nghĩa là lễ hội đút cốm dẹp, nếu như lễ hội Chol Chnam Thmay
diễn ra vào đầu mùa vụ để đón chào một mùa vụ mới thì lễ hội c- ƠmBok diễn ra vào vào thời gian kết thúc một mùa vụ, nên người Khmer đã tổ
chức lễ hội này để nhằm tỏ lòng biết ơn của mình đến thần Mặt Trăng và
thần Thời tiết đã mang lại cho họ một vụ mùa tươi tốt, tốt đẹp. Lễ hội cƠm -Bok được diễn ra với quy mơ lớn với nhiều hoạt động vui chơi giải trí
6


từ đó đã thu hút được một lượng lớn khách tham quan du lịch đến đây để
tìm hiểu.
Cuối cùng, là lễ Kathina (lễ dâng y) lễ này còn được biết đến với hình thức
dâng bơng, dâng cà sa lên các sư sãi của đồng bào Khmer được tổ chức hằng
năm từ 15/09-15/10 âm lịch trước lễ c-Ơm-Bok (tức là sau một tháng sau
ngày mãn hạ). Đám rước dâng bông căn bản đã lớn ngày nay thêm phần long
trọng với sự kết hợp của nhiều loại hình nghệ thuật và nghi thức, lễ dâng y
thường được diễn ra trong 2 ngày nhằm để cầu phúc cho phum sóc gặp được
nhiều may mắn và bình an ngồi ra cịn để chứng tỏ lịng thành của Phật tử.
Về tối thì sẽ có các hoạt động vui chơi giải trí cho mọi người cùng tham gia
vui ca nhảy múa nhằm tăng tính đồng bào gần gũi và khắn khít.
2.1.2. Trang phục
Mỗi dân tộc thiểu số trên đất nước Việt nam đều có trang phục riêng
của mình, trang phục của người Khmer cũng thế nhưng ở đây trang phục của
họ khá cầu kỳ với nhiều gam màu sặc sỡ nổi bật và khá tinh tế với nét độc

đáo riêng. Nhưng cũng có một số người nói Trang Phục người Khmer hồn
tồn giống với trang phục của người dân Thái Lan. Từ thuở tắm bé thì người
Khmer đã vận lên mình những bộ trang phục truyền thống để tham dự các
dịp lễ tết, hội hè. Những bộ trang phục truyền thống làm tôn lên vẻ yêu kiều,
dịu dàng của những cô, cùng với những điệu múa vơ cùng uyển chuyển. Cịn
đối với những chàng thanh niên người Khmer, khi vận trên mình bộ trang
phục truyền thống biểu diễn bên dàn nhạc ngũ âm thì tạo nên sự mạnh mẽ,
tài hoa và đầy nam tính.
Tuy nhiên với thời buổi như hiện nay thì phụ nữ Khmer thường mặc
giống người Kinh. Tùy theo độ tuổi mà họ ăn mặc khác nhau. Những trang
phục truyền thống ấy họ hõe diện vào những ngày lễ, hội hoặc những ngày
trọng đại như đám cưới. Với những người trẻ thì mặc quần lụa đen, áo bà ba
hoặc quần âu, áo sơ mi. Người lớn tuổi mặc quần áo bà ba đen với thêm
chiếc khăn đội đầu. Trang phục nam giới của người Khmer rất đơn giản, họ
thường mặc xà rông và ở trần. Khi ra đường thì họ sẽ mặc áo bà ba đen giống
như những người nông dân Kinh.
Ngày thường người phụ nữ Khmer thường mặc trang phục bằng tơ lụa,
màu sắc khá rực rỡ, bao gồm mặc váy, áo dệt bằng tơ tằm, hay chỉ kim tuyến
thêu hoa văn khác nhau. Phụ nữ Khmer thường mặc nhiều loại váy khác
7


nhau nhưng người ta thấy thường xuyên nhất là Săm Pết chôn Kpal. Đây là
loại váy được làm bằng vải rộng, khi vận quấn quanh người, phần còn lại
luồn qua hai chân thành một loại quần phồng ngắn. Áo tầm vơng (cịn gọi là
áo cổ vịng) chiếc áo ấy được kết hợp hài hịa với xà rơng và “sbay”. Để tơn
thêm nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính của người con gái và điều đặc
biệt dù mặc trang phục nào đi nữa thì cũng không thể thiếu “Sbay” - một
loại khăn lụa mềm mại được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải. Trên
các loại trang phục còn đính thêm hạt cườm, kim sa và các loại hoa văn khác

để cho màu sắc thêm rực rỡ. Khi mặc bộ trang phục truyền thống Khmer,
người phụ nữ sẽ cảm thấy thân hình trở nên dịu dàng, uyển chuyển, thùy mị
hơn.
Đối với những người Khmer thì vào những dịp quan trọng, trong trang
phục đi dự lễ, Tết, và đặc biệt là khi đi chùa..., người phụ nữ Khmer thường
mặc xà rơng có đính chuỗi hạt cườm; áo tầm vơng dệt bằng tơ tằm hay những
những sợi bông đôi khi được dệt bằng chỉ kim tuyến, trong khơng khí hội hè
các loại hoa văn màu trắng hoặc màu vàng được ưa dùng, nhưng nhưng đa
phần là họa tiết và hoa văn màu vàng vì nó óng ánh và sáng sủa...

2.2.

Thành phần tham dự

Ở Nam Bộ hầu hết người Khmer đều theo Phật giáo phái Nam Tơng
(cịn gọi là Phật giáo Tiểu Thừa). Có thể nói, mỗi người Khmer khi sinh ra
đã là một Phật tử như ông bà, cha mẹ mình.Trong đời sống văn hóa, tinh
thần sinh hoạt tơn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng và đây là sợi dây gắn
kết cộng đồng bền chặt nhất là của đồng bào khmer nam bộ nhưng khác với
nhiều tôn giáo khác, phật giáo nam tông khmer không chỉ nhận các chức
năng tơn giáo mà cịn đảm Nhận các chức năng văn hóa xã hội khác nhau
cho các cá nhân và tồn thể cộng đồng. Vì vậy, việc xây dựng các ngôi chùa
khmer không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt nữa mà còn đáp ứng nhu
cầu cơ bản về giáo dục sinh hoạt xã hội của mỗi cộng đồng người khmer.
Thành phần tham dự đông đảo và phong phú đa dạng lớp tuổi dù là lớn
bé, già trẻ, trai gái, giai cấp tầng lớp nào của xã hội cũng đều có thể tham
gia đi đến chùa, ngơi chùa là mái nhà chung của tất cả các Phật tử. Không
chỉ thu hút bộ phận đại đa số người dân Khmer mà cịn có bộ phận người
dân tộc khác.
8



2.3.

Các nghi thức chuẩn bị

2.3.1. Tết Chol Chnam Thmay:
Trước ngày giao thừa, người Khmer sẽ dọn dẹp nhà cửa cho thật
sạch sẽ, khang trang để chào đón vị thần cai quản năm tới cũng như
cầu mong sự an lạc, sung túc. Ngoài ra, việc chuẩn bị bàn thờ trước
nhà cũng là nhiệm vụ không thể thiếu của họ, trên bàn, họ bày biện
các vật phẩm cúng tế thần linh như bình hoa, mâm quả, nước sạch,
bánh chưng, “Bai sây” 3 bậc (hoặc 5 bậc, 7 bậc,...),... “Bai sây” là lấy
thân chuối, lột đến phần trắng nõn nhất, đường kính khoảng 7-10 cm,
dài khoảng 1 gang tay, cắt ra từng nấc từng nấc, phần trên gọt nhọn,
nhìn tổng thể như một tòa tháp, làm đủ 3 cái như vậy.
Một đêm trước ngày giao thừa, tăng chúng và Phật tử sẽ lên
chính điện tụng kinh cầu chúc 1 năm mới an vui, bình an, hạnh phúc,...
Thời điểm giao thừa, cả nhà sẽ quây quần trước bàn thờ đón vị
thần năm ấy, thắp nhang, khấn cầu sự bảo hộ bình an, một năm thuận
lợi suôn sẻ,... tùy theo thời điểm giao thừa hàng năm mà có những hoạt
động khác nhau. Cùng lúc đó, trên chùa, Hòa thượng trụ trì sẽ đánh 3
hồi trống báo hiệu năm cũ qua đi, năm mới đến.
Sau đó, mỗi một ngày sẽ có một vài nhiệm vụ nhất định phải
thực hiện, cùng với đó là các hoạt động vui chơi giải trí: các trị chơi
dân gian, ca hát,..
2.3.2. Lễ Dâng y Kathina (Lễ dâng bông):
Lễ này được tổ chức trong vòng 1 tháng (15/09 - 15/10 âm lịch).
Trong 1 tháng này lần lượt tất cả các chùa sẽ có Phật tử phát tâm dâng
y, thường thì thời gian đã được ấn định ít nhất từ nửa năm trước. Pháp

phẩm trong buổi lễ sẽ có: tượng Phật, tranh Phật, y, lọng, bình bát,
hoa,... Ngồi ra cịn có các vật phẩm sử dụng thường nhật như nồi, ấm,
chén, dĩa, mùn mền,... Mỗi chùa đều diễn ra lễ này trong 3 ngày. Mỗi
ngày sẽ có các cơng việc khác nhau theo truyền thống Phật Giáo Nam
Truyền.
2.3.3. Lễ Ook-Ơm-Bơk:
9


Lễ này được tổ chức ngay sau khi kết thúc “tháng lễ” dâng y.
Tùy theo điều kiện kinh tế và quy mơ dân số từng vùng mà chương
trình lễ này được tổ chức có phần khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung
thì các vật phẩm cúng tế như hoa quả, gạo nếp, nến nhang, hầu như
chỗ nào cũng có. Trước khi bắt đầu buổi lễ, người dâng sẽ đem lên
chùa những hoa quả mà vụ trước mình đã thu hoạch nhằm cảm tạ thần
linh đã bảo hộ cho mùa vụ của họ được tốt tươi,... Họ sẽ bày biện tất
cả lên một chiếc bàn lớn giữa sân chùa, sau đó mời chúng tăng tụng
kinh cầu phúc, cầu mong một mùa vụ sắp tới càng thêm bội thu. Kết
thúc chương trình tụng kinh là phần quan trọng nhất, các cụ già sẽ nhìn
vào hướng nến chảy mà dự đốn mùa vụ tiếp theo trồng loại cây nào
sẽ mang lại hiệu quả cao nhất, và người dân họ đút cốm cho nhau ăn.
Buổi lễ thường diễn ra từ khoảng 15 giờ tới khoảng 22 giờ cùng ngày
thì kết thúc.
Chương 3. Vai trị và ý nghĩa chùa Khmer trong đời sống người dân
3.1.

Vai trị

Ngơi chùa Khmer có nhiều chức năng: ngồi là trung tâm tơn giáo của người
Khmer mà chùa cịn là trung tâm văn hóa của cộng đồng, nơi diễn ra các lễ

hội phum, sóc; Chùa Khmer như một trường học, là nơi giáo dục đạo đức,
đối nhân xử thế. Trường vừa dạy chữ cho trẻ em, vừa đào tạo cho thanh niên
kỹ năng lao động trong chùa; chùa là một bảo tàng, thư viện vì ở nơi đây đã
lưu giữ những giá trị tinh thần của người dân Khmer trải qua bao đời và bao
thế hệ, chùa cũng là nơi trao gửi yêu thương với các hoạt động từ thiện, nhân
đạo, nuôi dưỡng người già neo đơn, trẻ mồ côi không nơi nương tựa cùng
với những mảnh đời bất hạnh… Chúng ta có thể thấy được sức ảnh hưởng
của ngơi chùa đối với đời sống tinh thần của người Khmer Nam Bộ nói riêng
và người Khmer trên tồn đất nước chung, vì vậy chúng ta cần gìn giữ và
phát huy ngôi chùa một cách tối đa và hoàn thiện hơn.
Đa số người Khmer theo đạo Phật nên chùa rất quan trọng đối với đời sống
văn hóa của người Khmer Nam Bộ. Chùa đã trở thành độc tôn trong tâm
thức của người Khmer Nam Bộ.
Mỗi giai đoạn trong cuộc đời của người Khmer đều gắn liền với ngơi chùa.
Khơng có già, trẻ, trai, gái, giàu nghèo đối với tất cả người Khmer đến chùa
và gắn bó với ngơi nhà đối với mọi tầng lớp mọi lứa tuổi mọi giai cấp nào
10


khi đến chùa cũng đều như nhau, là một phật tử hướng về đức Phật dành cả
tấm lòng thành để cầu phúc mong bình an. Mọi người đến chùa không đơn
thuần là chỉ để cúng bái mà còn để sinh hoạt truyền thống, học hỏi văn hóa,
đạo đức làm người
Đối với các Phật tử Khmer chùa là nơi dành cho người xuất gia, là trung
tâm thờ tự của tín đồ trong bổn đạo, là nơi tiến hành các thủ tục xuất gia và
hoàn tục, là nơi truyền bá và học hành các giáo lý của Phật giáo. Mọi tâm
tư, nguyện vọng của đồng bào đều được gửi gắm vào chùa. Chùa trở thành
chỗ dựa tinh thần của đồng bào, góp phần tạo nên sự ổn định niềm tin của
đồng bào đối với đạo Phật, tình yêu quê hương, đất nước từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Khi xa quê hương, gặp nhau đồng bào Khmer thường hỏi: " nâu

chom nos wot na?" (anh/chị/bác.. ở chùa nào?). Khi đó, họ trả lời với nhau
một cách tự hào về ngôi chùa trong phum sóc của mình.
Thơng qua các sinh hoạt tơn giáo ở chùa, đồng bào Khmer cịn có cơ
hội để học tập, phát huy và bảo tồn ngôn ngữ, phong tục cũng như đạo đức
truyền thống của dân tộc mình. Ban đầu, người Khmer biết đến việc học
hành có tổ chức là học từ chùa. Và cho đến ngày nay, chùa vẫn là nơi tổ chức
học hành của đại đa số đồng bào Khmer. Bên cạnh đó, các hoạt động chính
trị - xã hội khác cũng thường được tổ chức tại chùa. Thậm chí, mỗi khi gia
đình có bất hồ, mâu thuẫn, người Khmer cũng đến chùa nhờ sự giúp đỡ,
giải quyết. Trong thời kỳ kháng chiến, chùa là nơi di tản của đồng bào, là cơ
sở cách mạng tin cậy.
Chùa cịn có chức năng văn hố, vị trí địa lý của ngôi chùa Khmer nằm
ở trung tâm của phum, sóc, thường diễn ra các hoạt động lễ hội dân gian
truyền thống và lễ hội tôn giáo, là tụ điểm của mọi hoạt động, sinh hoạt.
Ngoài ra đây cũng là nơi thuận lợi cho việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức
nhân cách, nơi vui chơi giải trí cho mọi tầng lớp nhân dân. Chùa là nơi bảo
tồn lưu trữ các di sản văn hoá của đồng bào và của cả cộng đồng để phục vụ
cho các sinh hoạt. Vì thế, hỗ trợ đầu tư để chùa trở thành trung tâm văn hố
của phum, sóc là giải pháp quan trọng nhằm góp phần kết nối nhà chùa với
người dân, kết nối đạo với đời.
Trong tâm thức bao đời của người Khmer, nhà chùa còn thể hiện triết
lý nhân sinh sự khoan dung, hồ hợp trong đời sống tín ngưỡng của dân tộc.
Chùa đáp ứng nhu cầu trong đời sống thôn dã, xóa đi khoảng cách bất bình
đẳng trong sinh hoạt cộng đồng ở làng quê xưa. Nếu như xưa kia, hầu như
những gian trong đình chỉ dành cho nam giới, các bậc cao niên, thì chùa
chính là nơi dành cho các cụ, bà, các cô thôn nữ và trẻ em được theo bà, theo
11


mẹ đến chùa. Chùa trong làng thường được xây dựng ở nơi thanh tịnh, vắng

vẻ không ồn ào. Và dù toạ lạc ở vị trí nào nơi thơn cùng, xóm vắng thì ngôi
chùa vẫn hiện diện vừa thân thiết gần gũi, vừa huyền ảo lay động cõi tâm
linh. Do vậy, cùng với đình, chùa cũng là biểu tượng của văn hoá làng, cội
nguồn của văn hoá dân tộc.
Hiện nay, chùa vẫn ln được phát huy truyền thống văn hố tốt đẹp
của đồng bào Khmer, là nhân chứng sống tồn tại và phát triển , trải qua bao
nhiêu thời kỳ thăng trầm của đất nước và chứng kiến sự trưởng thành của
cộng đồng loài người, lịch sử của dân tộc. Vì vậy, vai trị của chùa đối với
đồng bào Khmer có ý nghĩa quan trọng như một sự mặc nhiên trong cả đời
sống vật chất, tinh thần và cả trong tâm linh.
Có thể nói, ngơi chùa Khmer là một bảo tàng giúp chúng ta có cái nhìn
tồn diện về phong tục, tập qn, tơn giáo, tín ngưỡng và bề dày lịch sử văn
hóa của dân tộc Khmer, khơng những thế, nó còn là sự kết tinh các giá trị
đạo đức, thẩm mỹ và nghệ thuật. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Khmer phải đi từ ngôi chùa. Thúc đẩy và phát triển
các vấn đề kinh tế - xã hội cho đồng bào Khmer có lẽ cũng nên bắt đầu từ
ngơi chùa. Ngơi chùa đối với người Khmer có vai trị rất quan trọng, nên
hiện nay, việc xây dựng chùa trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá, đời sống
mới đang được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Chúng ta cần quan
tâm đến những giá trị của ngôi chùa và bảo tồn nó cũng như trùng tu và sửa,
tiếp tục xây dựng và phát triển giá trị tốt đẹp của ngôi chùa, xây dựng
mmộttrung tâm văn hóa, giáo dực, đạo đức đáp ứng nhu cầu tinh thần của
người Khmer Nam Bộ
3.2 Ý nghĩa
Trong đời sống hàng ngày, người Khmer rất coi trọng vấn đề tinh thần.
Họ luôn quan tâm đến việc xây dựng, tu bổ cho ngơi chùa chung và coi đó
là bộ mặt văn hóa của thơn xóm. Mỗi ngơi chùa là một di tích văn hóa, lịch
sử và kiến trúc, đó là nơi lưu giữ và phổ biến kinh sách Phật giáo cũng như
các tác phẩm văn học, nghệ thuật; là trung tâm đào tạo giáo lý cho các sư
sãi, dạy chữ Khmer cho con em đồng bào dân tộc; là trung tâm sinh hoạt văn

hóa - xã hội gắn với tập tục, nơi hoạt động văn nghệ, thể thao truyền thống
và phổ biến thơng tin của cộng đồng.
Ngồi ra, ngơi chùa cịn là một hình ảnh thân thương rất quen thuộc gần
gũi với nếp sống hiền hòa của những người dân quê mộc mạc. Câu nói: “Đất
12


vua, Chùa làng” đã cho ta thấy cái giá trị tín ngưỡng thiêng liêng trong tình
tự hài hịa gắn bó thể hiện trong nếp sống tình cảm chơn chất đơn thuần của
người dân quê. Vì chùa là mái ấm che chở ấp ủ nuôi dưỡng đời sống tâm
linh của họ. Họ xem ngôi chùa như là một mái ấm gia đình chung. Do đó,
nên họ cùng nhau quyết tâm đóng góp xây dựng bảo vệ và phát huy mạnh
mẽ. Mái chùa là niềm an ủi xoa dịu những nỗi buồn u uất đè nặng trong tâm
hồn của họ. Và vì thế nên họ không thể nào quên được.
Chùa là biểu tượng linh thiêng đã ăn sâu vào lòng người dân tộc Khmer
từ xa xưa. Như nước thấm vào lòng đất. Vì vậy, dù trải qua hàng nghìn năm
thăng trầm, thăng trầm, vinh nhục, sao đổi dời, những hình ảnh của ngơi
chùa vẫn hiện diện đầy kiêu hãnh trong lịng mọi người.
Trong quá trình đổi mới, hội nhập và giao lưu, chùa tiếp tục đóng vai
trị quan trọng trong đời sống của đồng bào Khmer Nam bộ, mang lại những
giá trị thiết thực, đặc biệt là công tác tổ chức các hoạt động văn hóa - xã hội.
ngày hội. . Vì vậy, thời gian qua, các địa phương luôn quan tâm đầu tư cơ
sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cho các chùa Khmer tham gia tổ chức các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, cộng đồng. địa phương. Ngồi ra, chùa còn là
nơi tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, tuyên truyền về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh dành cho Phật tử Khmer.
Với tinh thần đó, chùa Khmer góp phần gìn giữ và phát huy có hiệu quả
giá trị lịch sử - văn hóa của chùa cũng như các giá trị văn hóa phi vật thể, là
nơi tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao của nhân dân, nhất là đồng

bào Khmer, qua đó, vận động người dân, các phật tử tham gia tích cực phong
trào xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương, góp phần quan trọng vào việc
đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trong từng xóm
ấp và cộng đồng…

13


PHẦN KẾT LUẬN
Ngôi chùa Khmer Nam Bộ là một trung tâm văn hóa của tộc người này.
Nơi đây gắn liền với các hoạt động văn hóa, nghi lễ dân gian, đồng thời là
ngôi trường truyền thống dạy kiến thức, đạo đức và nghề thủ cơng. Chùa
được ví như một bảo tàng về Phật giáo và nghệ thuật phum sóc, là nơi để
người Khmer nương tựa linh hồn khi còn sống và gửi tro cốt khi qua đời.
Có thể nói, chùa Khmer là một bảo tàng giúp chúng ta có cái nhìn tồn
cảnh về phong tục, tập qn, tơn giáo, tín ngưỡng và lịch sử văn hóa của dân
tộc Khmer, khơng những thế nó cịn là một sự thật. . Là kết quả của các giá
trị đạo đức, là tổng hòa các giá trị đạo đức, thẩm mỹ và nghệ thuật. Việc bảo
tồn và phát huy hệ thống truyền thông chữ viết Khmer có giá trị phải được
giao cho nhà thờ. Việc thúc đẩy và phát triển các vấn đề kinh tế - xã hội đối
với người Khmer cũng nên bắt đầu từ gia đình. Ngơi chùa có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng đối với đồng bào Khmer nên hiện nay, công trình xây dựng
trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa và đời sống mới được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Trong thời gian tới, chúng ta cần có kế hoạch
nghiên cứu tổng thể giá trị của từng ngơi chùa, trùng tu những ngơi chùa có
giá trị lịch sử và nghệ thuật cao, đồng thời tiếp tục xây dựng trung tâm văn
hóa. Hồn thiện giáo dục về mọi mặt, đáp ứng về mặt tinh thần. nhu cầu
hưởng thụ của đồng bào Khmer Tây Nam Bộ.

14



TÀI LIỆU THAM KHẢO

15



×