Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Sự kết hợp kiểm toán báo cáo tài chính kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 38 trang )

.

KIỀM TOÁN NHÀ NƯỚC _

KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC KHU VỰC MIỄN TRUNG

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HOC CẤP CƠ SỞ

Tên đề tài:

SỰ KẾT HỢP KIEM TOAN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

KIỀM TOÁN TUÂN THỦ VÀ KIEM TOÁN HOẠT ĐỘNG TRONG MỘT
CUỘC KIỀM TOÁN CỦA KIỀM TOÁN NHÀ NƯỚC

Chủ nhiệm đề tài

: Cử nhân Nguyễn Văn Kỷ

Thư Ký

: Cử nhân Hồ Trung Hiếu

Thành viên tham dự : Củ nhân Nguyễn Đình Hoa
: Cử nhân Hà Huy Hà

Đà Nẵng, tháng 2 năm 2003

30/A2(04

i



ad


1
PHAN MO DAU
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam mới được ra đời và hoạt động trong thời
gian ngắn, nhưng đã nhanh chóng khẳng định được vai trị quan trọng trong
kiểm tra tài chính Nhà nước và tài sẵn cơng và là một trong những công cụ

không thể thiếu được để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN.

Tuy nhiên, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước mới chỉ tập trung vào
việc thực hiện chức năng xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số
liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các đơn vị có quan hệ với ngân sách Nhà

nước. Các chức năng vốn có khác của Kiểm tốn Nhà nước chưa được thừa

nhận về mặt pháp lí, việc vận dụng trong thực tiễn mới chỉ là những thử
nghiệm bước đầu.

Sự kết hợp giữa các loại hình kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn

tn thủ và kiểm tốn hoạt động đã được triển khai và đạt một số kết quả nhất

định. Song có thể nhận thấy rằng chức năng về kiểm tốn hoạt động cịn bị bổ
ngõ, việc kết hợp 3 loại hình kiểm tốn nói trên chưa được dựa trên nền pháp


lí chắc chắn, ổn định. Lí luận kiểm toán cũng như thực tiến hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước cũng chưa có điều kiện nghiên cứu kỹ để làm sáng tỏ
vấn đề này.

Đề tài "Sự kết hợp kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ và

kiểm toán hoạt động trong một cuộc kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước" là

một trong những nghiên cứu ban đầu hướng vào làm sáng tỏ vấn đề trên.

Đề tài được trình bày với những nội dung chính sau:
Chương I: Cơ sở lí luận về sự kết hợp các loại hình kiểm tốn báo cáo

tài chính, kiểm tốn tn thủ và kiểm toán hoạt động trong một cuộc kiểm
toán của Kiểm toán Nhà nước.
Chương II: Thực trạng sự kết hợp các loại hình kiểm tốn của Kiểm
tốn Nhà nước

Chương II: Các giải pháp về sự kết hợp các loại hình kiểm tốn của
Kiểm tốn Nhà nước
Do khả năng nghiên cứu có hạn, nguồn tư liệu tham khảo q ít, chắc
chắn cịn nhiều hạn chế, thiếu sót. Nhóm tác giả thuộc Kiểm tốn Nhà nước
khu vực miền Trung kính mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa
học Kiểm tốn Nhà nước, thủ trưởng cơ quan và các đồng nghiệp.
Trân trọng cám on !
Tập thể tác giả


_CHUONG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ SỰ KẾT HỢP CÁC LOẠI HÌNH KIỀM TỐN

BAO CAO TAI CHÍNH, KIỂM TỐN TN THỦ VÀ KIỀ M TOÁN
HOẠT ĐỘNG TRONG MỘT CUỘC KIEM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ

NƯỚC.

L/ Chức năng, nhiệm vụ và vai trị của Kiểm tốn Nhà nước trong

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
1. Chức năng, nhiệm vụ:

Trên thế giới, thuật ngữ kiểm tốn đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu
cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thơng tin trong báo cáo tài chính,

kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Tù nền
văn minh Ai cập và La mã cổ đại, đã xuất hiện kiểm toán cổ điển bằng cách

những người làm công việc ghi chép kế toán đọc những số liệu, tài liệu cho

một bên độc lập nghe và nhận xét. Vì vậy trong tiếng Anh từ Audit (kiếm
tốn) có gốc La tỉnh là Audie (nghe).

Trong giáo trình kiểm tốn, các tác giả Alvin A.Arens và James
K.Locbbecker đã định nghĩa: "Kiểm tốn là q trình các chuyên gia độc lập

và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có
thể định lượng được của một đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo

cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được
thiết lập". Và như vậy, có thể nói một cách đầy đủ hơn thì "Kiểm tốn là một
chức năng của quản lí, là một q trình mà trong đó kiểm tốn viên có thẩm


quyền- những người được đào tạo để có trình độ thích hợp, tiến hành một

cách độc lập việc thu thập xác minh, đánh giá các bằng chứng về các thông
tin số lượng liên quan đến các hoạt động kinh tế-tài chính của một đơn vị và
tổ chức kinh tế nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp của các thông tin
số lượng đối với các chuẩn mực về kinh tế, về tài chính và kế toán đã được
thiết lập và được pháp luật thừa nhận".

Trong lịch sử, kiểm tốn chính là sự phát triển độc lập của chức năng

kiểm tra kế toán. Kiểm toán là hoạt động độc lập với bộ máy riêng, có
phương pháp và đối tượng riêng; đối với hoạt động kế tốn, kiểm tốn mang
tính chất ngoại kiểm.
>
Với quan điểm hiện đại, phạm vi kiểm toán đã được mở rộng, bao

gồm: kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ và kiểm toán hoạt

động.


Sự hình thành và phát triển của Kiểm tốn Nhà nước gắn liền với sự

phát triển của tài chính Nhà nước mà chủ yếu là ngân sách Nhà nước, xuất

phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc kiểm tra, kiểm sốt chi tiêu ngân sách và

cơng quỹ quốc gia từ phía Nhà nước.
Ở Việt Nam, Kiểm tốn Nhà nước ra đời trong thời kỳ đổi mới và tiến

trình cải cách nền hành chính quốc gia (11/7/1994)

là một cơng cụ quan

trọng để Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường XHCN.
Cơ sở pháp lý cho tổ chức bộ máy và hoạt động của Kiểm toán Nhà
nước Việt Nam hiện nay được quy định tại Nghị định 70/CP ngày 11 thang 7
năm 1994 của Chính phủ về việc "Thành lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước",

Quyết định số 61/ TTg ngày 24 tháng 1 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ
về việc "Ban hành diều lệ tổ chúc và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước".
Theo đơ, Kiểm

toán Nhà nước thực hiện chúc nắng

"kiểm tra, xác

nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết
toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế và các
đoàn thể, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước

cấp".

Để thực hiện các chức năng trên, trong q trình hoạt động Kiểm tốn

Nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

- Tuân thủ pháp luật Nhà nước, chuẩn mực và quy trình kiểm tốn do
Kiểm tốn Nhà nước quy định.


- Bảo đảm tính độc lập, không bị một tổ chức cá nhân nào can thiệp
trái pháp luật vào hoạt động của Kiểm toán Nhà nước.
. - Bảo đảm tính trung thực, khách quan và giữ gìn bí mật Nhà nước, bí

mật của đơn vị được kiểm tốn

-

- Khơng gây can trở hoạt động va can thiệp vào công việc điều hành
của đơn vị được kiểm tốn
- Bảo đắm tính hiệu quả trong hoạt động kiểm toán
Đối tượng, phạm vi của Kiểm toán Nhà nước là tất cả các tổ chức, đơn

vị có nghĩa vụ với ngân sách, sử dụng tiền ngân sách hoặc có nguồn gốc từ
ngân sách Nhà nước, sử dụng tài sản Nhà nước.

Trong đó kiểm tốn thu-chi ngân sách Nhà nước là chủ yếu. Hay nói

cách khác kiểm tốn tài chính Nhà nước mà chủ yếu là kiểm toán ngân sách

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kiểm toán. Làm tốt nhiệm vụ
kiểm toán thu-chỉ ngân sách Nhà nước góp phần to lớn vào kết quả hoạt
động của Kiểm toán Nhà nước.

Từ các chức năng trên, Kiểm toán Nhà nước được Chính phủ giao các

nhiệm vụ:


`


4

- Xây dựng chương trình kế hoạch kiểm tốn hàng năm và tổ chức thực
hiện chương trình kế hoạch kiểm tốn đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. Kết quả kiểm tốn được báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội
và Ủy ban thường vụ Quốc hội, cho các cơ quan Nhà nước khác theo quy
định của Chính phủ. Trong trường hợp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
u cầu kiểm tốn thì cơ quan Kiểm tốn Nhà nước có trách nhiệm thực hiện

và báo cáo kết quả.

- Xác nhận, đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kiểm toán, báo cáo

quyết toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những
nội dung đã nhận xét, đánh gía, xác nhận.
- Thơng qua hoạt động kiểm toán đưa ra những khuyến nghị đối với

đơn vị được kiểm tốn, cơ quản lí cấp trên của đơn vị và cơ quan chức năng
của Nhà nước có liên quan nhằm giúp cho đơn vị được kiểm tốn sữa chữa,
khắc phục các sai sót, vi phạm nhằm chấn chỉnh cơng tác quản lý tài chính- kế

tốn của đơn vị và của nền kinh tế quốc đân. Đồng thời đề xuất với Nhà nước

những cải tiến, sửa đổi, bổ sung về chính sách, chế độ, cơ chế quản lý tài
chính-kế tốn và chính sách chế độ, ở các lĩnh vực khác có liên quan.

2. Vai trị của Kiểm toán Nhà nước

Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm


năm nay. Kiểm tốn Nhà nước khẳng định được vai trị vị trí của mình là cơng

cụ quan trọng trong kiểm tra tài chính Nhà nước và tài sản cơng. Vai trị của
Kiểm tốn Nhà nước được thể hiện trên một số mặt sau:

- Góp phần tăng cường pháp chế trong lĩnh vực kinh tế - tài chính.
Thơng qua kiểm tốn phát hiện các kẽ hỏ, bất cập, thiếu đồng bộ ...về chính
sách, chế độ tài chính. Kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan quản
lý Nhà nước có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế tài chính, đảm bảo cho việc chỉ đạo, quản lý, điều hành nền kinh tế và hoạt
động tài chính-ngân sách thống nhất, tích cực, lành mạnh, đúng hướng đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
- Góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia: Kiểm tốn tham gia
phát hiện, ngăn chặn tình
sử dụng ngân sách; Chấn
nền tài chính quốc gia.
- Thơng qua kiểm
nước đánh giá, kết luận,

trạng thất thốt, lãng phí, tham những trong quản lý
chỉnh các sai sót lệch lạc, góp phần làm lành mạnh
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, Kiểm toán Nhà
kiến nghị về tình hình quản lý, điều hành, sử dụng

NSNN tại các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách. Chấn chỉnh các vi
phạm, sai sót nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, đơn vị và cá nhân

trong việc quản lý, sử dụng NSNN, góp phần thúc đẩy việc sử dụng tiết kiệm,



.

5

có hiệu quả, hiệu lực tài chính Nhà nước và tài sản cơng. Đồng thời qua kiểm
tốn chi ngân sách cho công tác quản lý Nhà nước, xác định được tính hiệu

quả và tiết kiệm do thực hiện chủ trương sắp xếp lại bộ máy tinh giảm biên

chế, nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy hành chính Nhà nước.
3. Yêu cầu đề cao tính hiệu lực, hiệu quả cơng cụ kiểm tốn của

Nhà nước.
3.1/ Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật; là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; là cơng cụ

chủ yếu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy xây dựng Kiểm tốn

Nhà nước thực sự trở thành cơng cụ mạnh trong kiểm tra, kiểm sốt tài chính
Nhà nước và tài sản cơng là địi hỏi tất yếu và khách quan của Nhà nước, của

nhân dân nhằm đáp úng yêu cầu quản lý của Nhà nước và sự kiểm soát của

nhân dân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

3.2/ Cơng cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước tuy đã đạt được một
số kết quả bước đầu, song hệ thống pháp luật cịn chưa hồn thiện và đồng bộ,


việc thi hành pháp luật chưa nghiêm, kỷ cương còn bị bng lỏng, bộ máy

hành chính Nhà nước cịn cồng kềnh, chúc năng nhiệm vụ còn chồng chéo,
hoạt động kém hiệu quả. Tệ quan liêu, tham những, lãng phí cịn khá phổ
biến.
Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX đã
khẳng định: "Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động Nhà nước, phát huy
quyền dân chủ, tăng cường pháp chế..." Đồng thời chỉ rõ " Bổ sung hồn thiện
cơ chế chính sách quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước về quản lý kinh tế,

tài chính, quản lý tài sản, khơng để kẻ xấu lợi dụng".

Với tư cách là cơng cụ kiểm tra tài chính Nhà nước và tài sản cơng,

Kiểm tốn ngân sách Nhà nước góp phần quan trọng vào nhiệm vụ cải cách

tài chính Nhà nước. Do vậy cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Kiểm toán
Nhà nước nhằm thúc đẩy nhanh q trình cải cách tài chính Nhà nước nói
riêng và cải cách hành chính Nhà nước nói chung.
3.3/ Kiểm tốn Nhà nước Việt Nam mới ra đời và đi vào hoạt động mới

được 8 năm trong xu thế hội nhập các tổ chức Kiểm toán quốc tế như
INTOSAI và ASOSAI. Kiểm tốn Nhà nước phải có sự phát triển nhanh

chóng phù hợp với xu hướng chung của thế giới và khu vực.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cũng chính là nhu cầu nội tại, tự thân do

chính sự phát triển của Kiểm tốn Nhà nước địi hỏi.



II. Các loại hình kiểm tốn:
1. Kiểm tốn báo cáo tài chính
Kiểm tốn báo cáo tài chính là loại hình kiểm tra và xác nhận tính trung

thực, đầy đủ và hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính, đơng thời
xem xét và đánh giá báo cáo tài chính có được xây dựng phù hợp với ngun

tắc, chuẩn mực kế tốn được thừa nhận hay khơng. Trong kiểm tốn báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, kiểm tốn viên phải tiến hành kiểm toán bảng cân

đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ

và bắng thuyết minh báo cáo tài chính. Đối với tài chính Nhà nước, kiểm tốn

báo cáo tài chính là việc kiểm tốn báo cáo quyết tốn tình hình kinh phí và sử
dụng kinh phí tại các đơn vị thụ hưởng ngân sách, báo cáo quyết toán thu chi
của các don vị sự nghiệp có thu, báo cáo quyết toán thu-chi ngân sách của các

cấp ngân sách. Phạm vi kiểm tốn báo cáo tài chính do Kiểm tốn Nhà nước
thực hiện chủ yếu là ngân sách các cấp, các đơn vị HCSN thụ hưởng ngân
sách, các DNNN, các dự án Đầu tư bằng tiền NSNN

Kiểm toán báo cáo tài chính chỉ thực hiện khi có báo cáo tài chính hay

quyết tốn của đơn vị , nói cách khác kiểm tốn báo cáo tài chính là hậu kiểm.

Trên thực tế, kiểm tốn báo cáo tài chính đã có tác dụng tích cực trong việc
xác thực báo cáo tài chính của doanh nghiệp Nhà nước, quyết tốn kinh phí

của các đơn vị sử dụng ngân sách và quyết toán ngân sách các cấp, giúp Quốc


hội trong việc thẩm tra và phê duyệt tổng quyết toán hàng năm, tư vấn cho các
đơn vị được kiểm tốn chấn chỉnh cơng tác lập và báo cáo tài chính hàng năm.

Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động, Kiểm tốn Nhà nước khơng thực

hiện riêng rẽ loại hình kiểm tốn báo cáø tài chính mà ở một chừng mực nhất
định đã có sự kết hợp giữa loại hình kiểm tốn này với loại hình kiểm toán

tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Điều này được thể hiện ngay trong nội dung

quyết định thành lập đoàn kiểm toán của Tổng Kiểm toán Nhà nước, khi kiểm
toán báo cáo quyết toán ngân sách hay kiểm toán báo cáo tài chính doanh
nghiệp, báo cáo quyết tốn vốn đầu tư hoàn thành đều hàm chứa việc sử dụng

và kết hợp cả 3 loại hình kiểm tốn. Tuy nhiên về mức độ và phương pháp kết
hợp chưa được chỉ đạo thống nhất, kết quả thực tiễn về sự kết hợp các loại
hình kiểm tốn chưa được đúc kết, rút kinh nghiệm.

2. Kiểm toán tuân thủ:

Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm tốn tiến hành kiểm tra đánh giá

mức độ chấp hành pháp luật, các chính sách, chế độ tài chính Nhà nước của

đối tượng được kiểm tốn.


7


Kiểm tốn tn thủ là loại hình kiểm tốn phổ biến thường được sử
dụng song hành trong các cuộc kiểm tốn báo cáo tài chính. Chính sách chế
độ tài chính Nhà nước bao gồm nhiều mối quan hệ trên các lĩnh vực kinh tế-xã

hội nhằm điều chỉnh các quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các đối tượng

trong hoạt động kinh tế-xã hội. Trong khi kỷ cương còn bị bng lỏng, tình

trạng khơng tn thủ pháp luật về tài chính kế tốn diễn ra ỏ nhiều nơi thì
kiểm tốn tuân thủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước hiện nay đã sử
dụng kết hợp giữa kiểm toán tuân thủ với loại hình kiểm tốn báo cáo tài
chính. Tuy nhiên, tùy thuộc tính chất của từng cuộc kiểm tốn và sự chỉ đạo
của các đồn kiểm tốn mà loại hình kiểm toán tuân thủ được sử dụng ở các
mức độ khác nhau, song xét trên bình điện chung, trong thời gian qua kiểm
toán tuân thủ ngày càng được chú trọng đầy đủ hơn trong đánh giá việc tuân

thủ các luật, chính sách, chế độ, cơ chế quản lý, điều hành tài chính, ngân sách
của đối tượng được kiểm tốn. Kiểm tốn tuân thủ đã có những đóng góp quan

trọng trong việc phát hiện những sai phạm do không chấp hành đầy đủ chính
sách, chế độ tài chính, gây thất thốt, lãng phí, kém hiệu quả trong quản lý, sử
dụng NSNN, chấp hành không đúng nghĩa vụ nộp ngân sách và thực hiện các
luật, chế độ, chính sách tài chính khác.
3. Kiểm tốn hoạt động:

Kiểm tốn hoạt động là loại hình kiểm tốn với đặc trưng chủ yếu là

nhằm xác định tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực trong việc sử dụng các


nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao của thực thể được kiểm tốn,
trong đó:

- Tính kinh tế là việc giảm tối đa các chị phí về nhân lực, trí lực, vật lực

đem ra sử dụng cho hoạt động khi đem ra so sánh với một số lượng và chất

lượng phù hợp.

- Tính hiệu quả là mối quan hệ giữa đầu ra tính bằng giá trị các hàng

hoá, địch vụ, lao vụ hoặc các kết quả khác với nguồn lực- chi phí đã sử dụng
để tạo ra chúng
- Tính hiệu lực là xem xét các mục tiêu hoạt động đã đạt tới và quan hệ

ảnh hưởng thực tế của nó tương quan so sánh với mục tiêu dự kiến.

Trong lĩnh vực tài chính Nhà nước, kiểm tốn hoạt động cùng với kiểm

tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thử giúp Quốc hội, Chính phủ nhìn
nhận rõ hơn tình hình quản lý và múc độ hoạt động tài chính Nhà nước của
Chính phủ và các cơ quan có sử dụng nguồn lực tài chính từ NSNN.

Kiểm tốn hoạt động có mục tiêu cơ bản:

- Kiểm tra tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động.


- Kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong việc quản lý, sử
dụng nguồn lực tài chính Nhà nước


- Kiểm tra tính trung thực của q trình dự toán sử dụng nguồn lực, các

quyết toán và các báo cáo tài chính.
- Kiểm tra hiệu năng của bộ máy quản lý, bộ máy điều hành các hoạt
động .
- Cung cấp thông tin cho cơ quan lãnh đạo các cấp .

- Cung cấp thông tin cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và khuyến nghị
để họ có quyết định phù hợp trong việc xử lí.

Phạm vi kiểm tốn hoạt động rộng hơn kiểm tốn báo cáo tài chính,

kiểm tốn tuân thủ nhưng chủ yếu nhấn mạnh việc xem xét hiệu quả, hiệu lực
của hoạt động

và hiệu quả hành động của các chủ thể sử dụng nguồn lực tài

chính Nhà nước và nó chú trọng vào thời kì đang diễn ra các hoạt động kinh tế

tài chính, thậm chí kiểm toán trước khi phát sinh các hoạt động .

Kiểm toán Nhà nước ra đời và hoạt động trên cơ sở 2 văn bản pháp luật
về kiểm tốn đó là Nghị định 70/CP và Quyết định 61/TTg, trong 2 van ban

này chưa

có điều khỏan quy định riêng quyền hạn tiến hành

kiểm tra tính


kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực với các đối tượng kiểm toán.

Sau 8 năm hoạt động , Kiểm toán Nhà nước chưa thực hiện

các cuộc

kiểm toán hoạt động riêng mà các cuộc kiểm tốn đều có sự kết hợp nhất định
giữa kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ với kiểm tốn hoạt động.

Để kết thúc phần này, chúng tơi xin trích dẫn ý kiến của đồng chí
Nguyễn Đức Kiên - Ủy viên trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra
kinh tế và ngân sách, Quốc hội khoá X1 như sau: "Hiện nay trên thế giới, kiểm

tốn đủ thì phải bao gồm kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ các
quy định của pháp luật và kiểm toán hoạt động . Kiểm tốn Nhà nước ở nước

ta có lẽ là mới thực hiện được kiểm tốn báo cáo tài chính và kiểm tốn tn
thủ. Chúng tơi cho rằng, dưới góc độ hoạt động của Quốc hội thì kiểm tốn
hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho Quốc hội xem xét, quyết định có
nên chi tiền vào việc này hay chương trình kia hay khơng 2 chỉ tiền vào đâu
thì có hiệu quả ? "
II. Sự kết hợp các loại hình kiểm tốn trong một cuộc kiểm tốn là

địi hồi tất yếu góp phần nâng cao chất lượng quản lý tài chính Nhà nước .
1. Cơ sở của sự kết hợp.
Lí luận kiểm tốn phân loại kiểm tốn theo các tiêu thức khác nhau,
theo mục đích kiểm tốn, hoạt động kiểm tốn được phân thành 3 loại hình:



kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ, kiểm tốn hoạt động. Việc
kết hợp các loại hình kiểm tốn khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
người ra quyết định kiểm toán hay kiểm toán viên mà chính là yêu cầu nâng

cao chất lượng hoạt động kiểm tốn địi hỏi.

Kết hợp các loại hình kiểm tốn là việc triển khai hoạt động kiểm toán

trong từng cuộc kiểm toán nhằm đạt được mục tiêu tổng hợp của các loại hình,
cụ thể là:

- Tính trung thực, hợp pháp của số liệu báo cáo tài chính
- Việc tuân thủ các quy định của Nhà nước tại đơn vị được kiểm toán.
- Hiệu quả của việc quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước

tại đơn vị được kiểm tốn.

Trong hoạt động kiểm tốn mỗi loại hình kiểm tốn đều có lợi thế riêng
nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể và nó phù hợp với từng khâu, từng loại
công việc nhất định. Trong Y học, việc điều trị bệnh, một loại thuốc có thể trị

một hoặc một số bệnh. Một cơ thể con người thường không chỉ xuất hiện một
loại bệnh. Một đơn thuốc phải là sự phối hợp của một số loại thuốc để trị một

hoặc một số bệnh. Tương tự trong hoạt động kiểm toán, việc kết hợp 3 loại

hình kiểm tốn cũng là địi hỏi tất yếu của quản lý. Cơ sở của sự kết hợp 3 loại
hình Kiểm tốn trước hết xuất phát từ yêu cầu của hoạt động quản lý tài chính
Nhà nước và tài sản công, bao gồm việc quản lý và sử dụng đúng mục đích,


đúng dự tốn, đúng luật, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, hiệu lực. Kiểm toán Nhà

nước là công cụ quan trọng trong hệ thống các công cụ thanh kiểm tra của

Nhà nước, do vậy Kiểm toán Nhà nước cần phải đánh giá toàn diện việc quản
lý, sử dụng tài chính Nhà nước và tài sản cơng tại các đơn vị được kiểm tốn.

Qua đó đáp úng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý ở tầm vi mơ cũng như tầm

vĩ mơ.

Lý luận kiểm tốn kết luận rằng các chúc năng của Kiểm toán Nhà
nước được hình thành và phát triển theo 3 cấp độ, đó là kiểm tốn thơng tin
(kiểm tốn báo cáo tài chính), kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Tuy
nhiên việc phân loại theo mục đích kiểm tốn như trên cũng chỉ mang tính
chất tương đối. Điều đó khơng có nghĩa là lịch sử phát triển kiểm toán bắt đầu

từ kiểm tốn báo cáo tài chính, sau đó mới phát triển thành kiểm toán tuân thủ
và kiểm toán hoạt động

mà trong sự phát triển cịn có đan xen, lồng phép

phối hợp giữa các loại hình kiểm tốn với nhau. Kết hợp 3 loại hình kiểm tốn
trong một cuộc kiểm tốn của Kiểm toán Nhà nước để thực hiện kiểm toán
trên tồn diện 3 mặt kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm

toán hoạt động là một xu hướng tất yếu.


Thực tiễn những năm qua cho thấy tất yếu phải hồn thiện chúc năng,

nhiệm vụ của Kiểm tốn Nhà nước mới đáp ứng được yêu cầu quản lý của
Nhà nước, đảm bảo cơ sở pháp lí vững chắc cho kiểm tốn hoạt động và kết
hợp các loại hình kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ, kiểm tốn
hoạt động .

2. Tác dụng của việc kết hợp 3 loại hình kiểm tốn.
Sự kết hợp đồng bộ và có hiệu quả 3 loại hình kiểm tốn sẽ mang lại

những tác dụng thiết thực trên cả phương diện quân lý vĩ mơ và quản lý vi mơ,
tác động tích cực tới cơng cuộc cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp

quyền, chống lãng phí, tham những và sự tự khẳng định mình của Kiểm tốn
Nhà nước.



- Chất lượng hoạt động của Kiểm tốn Nhà nước phụ thuộc vào trình độ
và khả năng kết hợp giữa các loại hình kiểm tốn. Hoạt động của Kiểm toán

Nhà nước trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Báo

cáo kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước ngày càng được Quốc hội,
Chính phủ và các cơ quan Nhà nước quan tâm hơn. Thơng qua đó Nhà nước
thấy được q trình quản lý, điều hành, sử dụng tài chính Nhà nước và tài sản

cơng có những ưu, nhược điểm, tổn tại, hạn chế nào? những vấn đề về cơ chế

cần phải được bổ sung, sửa đổi phù hợp nhằm sử dụng nguồn tài chính đúng
mục đích, tiết kiệm, hiệu quả. Hay nói cách khác, sự kết hợp 3 loại hình kiểm


tốn đã phục vụ tích cực cho quản lý vĩ mơ của Nhà nước.

- Qua các cuộc kiểm tốn, sự kết hợp 3 loại hình kiểm tốn bao giờ

cũng đem lại cho các đơn vị được kiểm toán những lợi ích nhất định. Điều rõ

ràng và dễ nhận thấy là trong q trình kiểm tốn, bằng tư vấn, góp ý, bằng
việc phát

hiện ra các bằng chứng thuyết phục, kiểm tốn đã chỉ ra những sai

sót lệch lạc, kiến nghị để đơn vị được kiểm toán tự chấn chỉnh, uốn nắn. Ngay

cả trong trường hợp mà kiểm tốn khơng phát hiện có những sai sót thì kết
quả kiểm tốn cũng là một sự xác nhận độ lành mạnh về báo cáo tài chính của
đơn vị, giúp dơn vị khẳng định mình, tự tin hơn trong cơng tác quản lý tài
chính. Điều đó cho thấy sự kết hợp tốt 3 loại hình kiểm tốn trực tiếp phục vụ

cho cơng tác quản lý vi mơ tại đơn vị được kiểm tốn.

- Xét ở phạm vi rộng sự kết hợp 3 loại hình kiểm tốn cịn phục vụ tích

cực cho cơng cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN.

- Mục tiêu cơ bản của cải cách nền hành chính là cắt giảm các khoản
chỉ tiêu bat hợp lí nhưng phải đảm bảo và khơng ngừng nâng cao chất lượng

dịch vụ cơng. Đó cũng chính là chúc năng, nhiệm vụ của Kiểm tốn Nhà nước
nói chung và của Kiếm tốn ngân sách Nhà nước nói riêng. Hoạt động của



11

Kiểm tốn Nhà nước nhằm góp phần thúc đẩy các đơn vị sử dụng ngân sách

Nhà nước tiết kiệm, đúng mục đích, ngăn chặn các hành vi tiêu cực gây thất
thốt, lãng phí cơng quỹ Nhà nưóc, đồng thời giúp các cơ quan, đơn vị khai

thác các nguồn thu, tăng thu cho NSNN để ln có đủ nguồn lực đảm bảo cho

quá trình mở rộng, nâng cao các dịch vụ hành chính cơng. Ngồi ra Kiểm tốn
Nhà nước cịn có tác động tích cực đến cơng tác tổ chức nhân sự tại các đơn vị

khi kiểm toán chế độ thanh tốn chỉ trả tiên cơng, tiền lương của các đơn vị
này. Đặc biệt khi thực hiện kiểm toán hoạt động , sự kết hợp 3 loại hình kiểm
tốn có tác dụng thiết thực, đồng bộ hơn khi đánh giá hoạt động của bộ máy
hành chính, tác động sẽ tích cực hơn đối với q trình cải cách nền hành chính

Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

- Kết hợp 3 loại hình kiểm tốn là nhu cầu tự thân nội tại của Kiểm toán

Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tốn. Đây cũng chính là
q trình tự hồn thiện mình của Kiểm tốn Nhà nước. Trên cơ sở đó Kiểm

tốn Nhà nước mới có điều kiện để phát triển. Vai trị, tác dụng của Kiểm tốn
Nhà nước mới được phát huy đầy đủ, mạnh mẽ, góp phần xứng đáng vào cơng
cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.


3. Yêu cầu của sự kết hợp.

Kiểm toán Nhà nước là lĩnh vực còn mới mẽ đối với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN như Việt Nam. Để trỏ thành công cụ mạnh trong
quản lý vĩ mô nền kinh tế đồi hỏi phải có thời gian và sự nỗ lực trên nhiều mặt
không phải chỉ của ngành Kiểm toán Nhà nước. Quan điểm chỉ đạo của Đảng

ta trong các Nghị quyết đã rõ ràng, nhất quán. Vấn đề còn lại là sự nhận thức
của các ngành, các cấp, của xã hội và của cả ngành Kiểm toán Nhà nước, nhận

thức đúng, thống nhất là tiền đề cho việc ban hành, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
đạt kết quả tốt, tránh được rủi ro. Sự kết hợp giữa các loại hình kiểm tốn
khơng phải là một ngoại lệ. Đã đến lúc phải nhận thức rằng nếu không kết hợp

ba loại hình kiểm tốn thì khơng cịn đáp ứng được chức năng, nhiệm vụ vốn
có của Kiểm tốn Nhà nước. Sự riêng lẽ, đơn độc của một loại hình hay sự kết
hợp giữa một - hai loại hình kiểm tốn có tính truyền thống là sự chậm trễ,

thậm chí kém cỏi... chỉ có sự kết hợp tốt giữa ba loại hình kiểm tốn mới có
thể làm thay đổi điện mạo, tạo nên sức sống mới để Kiểm toán Nhà nước tiếp
tục khẳng định mình và đáp ứng được địi hỏi của cơng tác kiểm tra, kiểm sốt
của Nhà nước.
Trong thực tiễn, sự kết hợp bước đầu hiện nay cũng chỉ là sự mị mẫm,
thủ nghiệm. Để có cơ sở vững chắc, yêu cầu cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ

và tương xứng cho các hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Trên nền cơ sở


pháp lý đó, tổ chức chỉ đạo thống nhất, đồng bộ, kịp thời trong các khâu của


quy trình kiểm tốn, trong từng đồn kiểm tốn, tố kiểm tốn.
Tổ chúc chỉ đạo có vai trị đặc biệt quan trọng, đảm bảo được tính thống

nhất, xun suốt trong tồn ngành. Sự nhất quán tạo nên nề nếp, kỷ cương, ý
thức trách nhiệm trong từng kiểm tốn viên, tổ, đồn kiểm tốn.

Tổ chức thực hiện có vai trị quyết định sự thành bại trong việc kết hợp
ba loại hình kiểm tốn. u cầu cần phải đạt được là sự nhuần nhuyễn, hợp lý,

hiệu lực và hiệu quả nhằm đảm bảo cho chất lượng của sự kết hợp đạt được ở
mức cao nhất, tránh được sự tùy tiện, manh mún, tản mạn, rời rạc.

Đây là vấn đề cốt lõi trong các yêu cầu của sự kết hợp ba loại hình kiểm

tốn

_

CHƯƠNGIH

.

THUC TRANG SU KET HOP CAC LOAI HINH KIEM TOAN CUA

KIEM TOAN NHA NUGC

I. Thực trạng việc thực hiện các loại hình kiểm tốn.
Sau khi được thành lập (1994) Kiểm toán Nhà nước vừa xây dựng, vừa
ổn định để thực hiện nhiệm vụ kiểm tốn. Trên cơ sỏ lý luận, nghiên cứu các
mơ hình hoạt động kiểm toán các nước, Kiểm toán Nhà nước đã sớm ban hành

được các văn bản pháp lý làm căn cứ cho hoạt động kiểm toán. Bám sát chức
năng, nhiệm vụ theo Nghị định 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc

thành lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước, hoạt động kiểm toán chủ yếu tập
trung vào kiểm toán báo cáo tài chính, từng bước kết hợp giữa kiểm tốn báo

cáo tài chính và kiểm tốn tn thủ. Thời gian gần đây đã có sự xuất hiện

bước đầu của sự kết hợp cả 3 loại hình kiểm tốn: kiểm tốn báo cáo tài chính,

kiểm tốn tn thủ và kiểm tốn hoạt động.
1. Tình hình thực hiện kiểm tốn báo cáo tài chính.
Những năm đầu, cơ số lý luận chưa được nhận thức đầy đủ, đúng đắn,
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn kiểm tốn chưa có, do vậy mục tiêu kiểm
toán chưa được xác định rõ ràng và thiếu thống nhất. Tuỳ thuộc nhận thức và

chỉ đạo của từng kiểm toán chuyên ngành hoặc khu vực mà mục tiêu đề ra cho

các cuộc kiểm toán ở các cấp độ khác nhau, mục tiêu cịn thiếu tồn diện,

thậm chí cịn chệch hướng, biến cuộc kiểm tốn từ việc xác nhận tính đầy đủ,
trung thực, chính xác, hợp pháp

báo cáo quyết tốn ngân sách của một địa

phương, một ngành thành mục tiêu chống thất thu và tiết kiệm chi, làm thay

công việc của các cơ quan vốn có chức năng, nhiệm vụ này.



Do việc xác định mục tiêu chưa rõ ràng và đúng đắn, đối tượng và

phạm vi kiểm toán được xác định ở diện rộng nên nội dung kiểm toán chưa

đầy đủ và tồn điện. Kiểm tốn báo cáo quyết tốn ngân sách của một tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, kiểm toán thu ngân sách phần lớn tập trung

kiểm toán tại các DNNN nhằm xác định nghĩa vụ nộp ngân sách, số phát hiện

tăng thu qua kiểm toán. Kiểm toán chi ngân sách, chủ yếu kiểm toán chỉ tiết

tại các đơn vị sử dụng ngân sách nhằm phát hiện việc chỉ sai chế độ, định mức

tiêu chuẩn để thu hỗồi, chưa quan tâm nhiều đến chất lượng công tác quản lý
điều hành chỉ ngân sách, cơng tác kế tốn và quyết tốn ngân sách. Tại Sở Tài
chính - Vật giá, Cục thuế, Kho bạc Nhà nước được xác định là các đầu mối

quan trọng nhưng chưa tập trung lực lượng kiểm toán viên và chỉ đạo đúng
mức để kiểm toán. Thơng qua đó phát hiện, đánh giá, kết luận về công tác

quản lý, điều hành của một cấp ngân sách. Trên thực tế trong những năm đầu,

khi kiểm toán tại các cơ quan

này,

cũng chỉ là việc đối chiếu, yêu cầu cung

cấp số liệu, tình hình. Chính vì nội dung kiểm tốn khơng dầy đủ, thiếu tồn
diện như đã nêu trên nên phương pháp kiểm toán chủ yếu là so sánh, đối

chiếu, nặng về kỹ thuật tính tốn hơn là các kỹ năng nghiệp vụ kiểm toán.

Mục tiêu kiểm toán định hướng nội dung kiểm toán, nội dung kiểm toán
chỉ phối phương pháp kiểm tốn, đến lượt nó - phương pháp kiểm toán đơn
giản, thiếu kỹ năng sẽ làm cho nội dung kiểm tốn thiếu phong phú, sâu sắc
và thiếu tồn diện, dẫn đến chất lượng kiểm tốn hay nói cách khác là báo cáo
kiểm toán giai đoạn này chưa phản ảnh được đầy đủ thực chất báo cáo quyết

toán ngân sách của một tỉnh, thành phố, chưa thực hiện đầy đủ chức năng

kiểm tra và thẩm định để xem xét tính đầy đủ, trung thực, chính xác và hợp
pháp của một báo cáo quyết toán ngân sách.

thủ.

2. Sự kết hợp giữa kiểm tốn báo cáo tài chính với kiểm tốn tuân
Trước đòi hỏi nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước,

sự kết hợp giữa kiểm toán báo cáo tài chính với kiểm tốn tn thủ là một tất
yếu, một sự đòi hỏi khách quan để thực hiện chúc năng của Kiểm toán Nhà
nước, để củng cố và nâng cao vai trị, vị trí và uy tín của Kiểm tốn Nhà nước

với tư cách là cơng cụ quan trọng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ô nước ta.
Chất lượng hoạt động kiểm tốn được nâng cao hay khơng trước hết
phụ thuộc vào việc xác định mục tiêu có đúng đắn và tồn điện không. Những

năm gần đây, mục tiêu của các cuộc kiểm toán NSNN đã được xác định rõ

ràng và đầy đủ hơn trong các văn bản chỉ đạo của Kiểm toán Nhà nước.



,

14

Việc xác định đối tượng và phạm vi kiểm toán dần được chính xác và

trọng yếu hơn. Đây cũng là cơ sở cho việc kết hợp giữa kiểm toán báo cáo tài

chính và kiểm tốn tn thủ có chất lượng và hiệu quả hơn.

Nội dung kiểm tốn đã có
đã kịp thời thể hiện được các mục
các cuộc kiểm toán được nâng lên
được sự quan tâm của Quốc Hội,

nhiều khía cạnh phong phú, đa dạng hơn và
tiêu của cuộc kiểm toán. Do vậy chất lượng
rõ rệt. Kết quả kiểm toán đã từng bước dành
Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước,

các đơn vị kiểm tốn và đơng đảo cơng chúng trong xã hội.

Trong các cuộc kiểm toán ngân sách tại các tỉnh, thành phố, nội dung
kết hợp giữa kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm tốn tn thủ đã được thể
hiện rõ nét. Trong các quyết định kiểm toán ngân sách của Kiểm tốn Nhà

nước khơng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra, xác nhận, đánh giá tính đầy đủ, trung
thực, chính xác của báo cáo quyết tốn mà là :

- Kiểm toán các khoản thu - chỉ tài chính thuộc NSNN

- Kiểm tốn các khoản kinh phí uỷ quyền, chương trình mục tiêu mà

ngân sách cấp trên uỷ quyền cho địa phương quản lý thực hiện trên địa bàn.

- Kiểm toán việc chấp hành các luật, chế độ chính sách tài chính, pháp

lệnh kế tốn thống kê.

Như vậy, bên cạnh xác nhận tính đầy đủ, trung thực, chính xác, hợp
pháp báo cáo quyết toán ngân sách của tỉnh, thành phố, Kiểm toán Nhà nước

đã đi sâu hơn để phát hiện tìm bằng chúng thuyết phục làm cơ sở đưa ra

những nhận xét, đánh giá việc chấp hành luật pháp, chế độ, chính sách quản lý
của Nhà nước đã ban hành, thơng qua đó kiến nghị với đơn vị được kiểm toán,
các cơ quan chúc năng bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách phù hợp hơn.
Nội dung kết hợp giữa kiểm tốn-báo cáo tài chính và kiểm tốn tuân

thủ trong một cuộc kiếm toán báo cáo quyết toán NSNN tỉnh, thành phố
khơng chí dừng lại ở số liệu báo cáo quyết toán mà cả 3 khâu của chu trình
ngân sách.

Trong khâu lập và giao dự tốn trên cơ sở hỗ sơ do đối tượng kiểm toán

cung cấp, kiểm tốn xem xét về trình tự, thủ tục, phương pháp, số liệu để đưa
ra các kết luận về mức độ tuân thủ các quy định hiện hành tại Chương IV Luật
NSNN, các văn bản hướng dẫn dưới luật như Nghị định, Thơng tư hướng dẫn


lập, chấp hành và quyết tốn NSNN và các văn bản về định hướng phát triển
kinh tế xã hội, giải pháp điều hành ngân sách, hướng dẫn xây dựng dự toán
hàng năm của Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Bộ tài chính).

Trong khâu chấp hành ngân sách của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương, sử dụng kiểm tốn tn thủ để xem xét q trình quản lý điều hành thu -

chỉ ngân sách có ý nghĩa hết súc quan trọng.


-

15

Trước hết thông qua thực hiện thu - chi ngan sách để đánh giá việc chấp
hành dự toán được giao ở múc độ nào. Những chỉ tiêu nào đạt, vượt hoặc
khơng đạt dự tốn, do ngun nhân chủ quan hay khách quan.
Đối với kiểm toán thu NSNN, đi sâu vào từng sắc thuế, từng lĩnh vực để
đánh giá mức độ thực hiện. Căn cú vào các hồ sơ quản lý thu, tờ khai nộp
thuế, báo cáo tài chính của đối tượng nộp thuế và các tài liệu liên quan để xác
định nghĩa vụ nộp ngân sách bao gồm số phải nộp năm trước chuyển sang, số
phát sinh trong năm, số được giảm, số đã nộp, số còn phải nộp. Trong một số
trường hợp cần thiết có thể bố trí kiểm toán viên kiểm toán đối chứng hoặc

xác minh tại các đơn vị "có vấn đề", thơng qua đó đánh giá việc chấp hành
nghĩa vụ nộp ngân sách của các đối tượng nộp thuế. Đồng thời, kết hợp với

kiểm toán tại Kho bạc Nhà nước, xem xét diễn biến, số dư các tài khoản tiền
gửi tạm thu, tạm giữ chờ xử lý để đánh giá mức độ tập trung nguồn thu ngân

sách.
Qua kiểm tốn cơng tác quản lý thu để phát hiện các trường hợp còn

dấu, ém nguồn thu tại các đối tượng nộp thuế, còn treo gác trên các tài khoản

tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước để đánh giá việc chấp hành các luật thuế, luật
NSNN, các hướng dẫn về qui trình tác nghiệp quản lý thu và các văn bản khác
có liên quan.
Ngồi ra, kiểm tốn tn thủ còn phải chú ý tới việc thực hiện các luật,

văn bản hướng dẫn dưới luật của Nhà nước, các qui trình, qui chế của các cơ
quan quản lý cấp trên. Tại các cơ quan quản lý thu phát hiện các bằng chứng

thuyết phục để nêu ra các nhận xét, đánh giá mức độ tuân thủ các chế độ qui

định trong miễn giảm thuế, hồn thuế GTGT; cơng tác thanh kiểm tra; thực

hiện việc quản lý và sử dụng hoá đơn, ấn chỉ ....

Đối với kiểm toán chi ngân sách, quá trình kiểm tốn tn thủ tập trung

vào 2 nội dung lớn đó là chỉ đầu tư phát triển và chỉ thường xuyên. Tuỳ thuộc

tình hình kinh tế xã hội và qui mô ngân sách địa phương mà các tỉnh xác dinh

cơ cấu giữa 2 loại chỉ này.
Chi đầu tư XDCB là nội dung chi chủ yếu của chỉ đầu tư phát triển,
phương pháp kiểm toán cho phép xác định trọng yếu và trên thực tế khi kiểm

toán chỉ đầu tư XDCB cũng chỉ xem xét được một số vấn đề lón. Qua đó tim


ra bằng chứng để đánh giá nhận xét trên các mặt sau :

- Chấp hành trình tự, thủ tục quản lý đầu tu XDCB
- Chấp hành các định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá XDCB
- Chấp hành các chế độ, chính sách của Nhà nước trong quản lý tài
chính và thanh tốn vốn đầu tư.


Chi thường xuyên phục vụ cho nhu cầu các lĩnh vực của đời sống xã
hội, mỗi lĩnh vực đều có đặc điểm riêng nên phân bổ ngân sách, cơ chế quản
lý tài chính phải có những qui định phù hợp. Tuy nhiên chúng đều có điểm
chung là được quản lý thông qua các định mức, tiêu chuẩn, chế độ. Do vậy,
kiểm toán tuân thủ các lĩnh vực chi thường xuyên căn cú vào các định mức,

tiêu chuẩn, chế độ chung và đặc thù của từng ngành để tìm ra các bằng chứng

phục vụ cho việc nhận xét, đánh giá phù hợp.

Một nội dung quan trọng của sự kết hợp giữa kiểm tốn báo cáo tài

chính với kiểm tốn tn thủ là sử dụng các số liệu, tình hình của các cuộc

kiểm toán đối chúng hoặc xác minh để làm căn cú cho đối chiếu số liệu chỉ
tiết, lên số liệu tổng hợp để xác thực tính chính xác, đầy đủ, trung thực, hợp

pháp của báo cáo quyết toán ngân sách tỉnh, thành phố.

Khâu quyết tốn ngân sách có vai trị quyết định trong việc đưa ra các


số liệu phản ánh tình hình thu - chỉ ngân sách trong một niên độ ngân sách,

kiểm tốn báo cáo quyết tốn tài chính ngân sách chủ yếu và trước hết sử

dụng loại hình kiểm tốn báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khâu này vẫn phải sử

dụng cả kiểm toán tuân thủ để đánh giá cơng tác kế tốn và quyết tốn NSNN

có tn thủ theo pháp lệnh kế toán thống kê, chế độ kế toán (bao gồm chế độ
chứng từ, sổ kế toán, hạch toán kế toán và báo cáo quyết toán), hệ thống báo
cáo quyết tốn có đúng, đủ biểu mẫu, có đối chiếu, xác nhận của cơ quan Kho
bạc Nhà nước, xác thực của chính quyền Nhà nước cùng cấp, có hợp pháp

khơng ...?

,

Khi mục tiêu kiểm tốn được đặt ra cao hơn thì nội dung kiểm tốn phải

phong phú, tồn diện hơn. Sự kết hợp giữa kiểm toán báo cáo tài chính và

kiểm tốn tn thủ thời gian qua được đánh giá là đã đi vào chiều sâu hơn,

đồng bộ và chặt chẽ, sử dụng các phương pháp kiểm toán tốt hơn. Do vậy,
chất lượng của các cuộc kiểm toán được nâng lêr rõ rệt. Việc xác thực tính

đúng đắn, đầy đủ, chính xác của báo cáo quyết tốn ngân sách tỉnh, thành phố

có cơ sở tin cậy hơn, đánh giá việc chấp hành các luật, chính sách chế độ quản
lý của Nhà nước trở thành nội dung lớn và quan trọng trong một báo cáo kiểm


tốn. Các thơng tin trong báo cáo kiểm tốn có giá trị tin cậy hơn đối với

Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong việc định hướng ban hành, bổ sung và sửa

đổi các cơ chế quản lý kính tế xã hội, tài chính - ngân sách. Các kiến nghị của

Kiểm toán Nhà nước đối với các đơn vị được kiểm toán, các cơ quan quản lý
Nhà nước chúc năng cũng đã có tác dụng tích cực trong việc chấn chính các
sai sót, tổn tại. Vì vậy, uy tín của ngành Kiểm tốn Nhà nước trong hệ thống

quyền lực Nhà nước và trong công chúng đã được nâng lên đáng kể.


:

17

Việc kết hợp giữa kiểm tốn báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ
cũng đã đặt ra yêu cầu cao hơn cho các kiểm toán chuyên ngành, kiểm toán
khu vực và các đồn kiểm tốn, địi hỏi các tổ chức này phải có những nghiên
cứu, chỉ đạo, điều hành các đồn kiểm tốn tốt hơn, đặc biệt là nội dung,
phương pháp để phát hiện bằng chứng, đồng thời giảm thiểu được các rủi ro,
sự kết hợp này cũng đòi hởi kiểm tốn viên nâng cao trình độ nghiệp vụ
chun mơn, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ để khơng những phát
hiện được các sai sót mà cịn tìm ra các ngun nhân dẫn đến các sai sót, đưa
ra các bằng chứng nhận xét, đánh giá và kiến nghị, tư vấn một cách xác đáng,

thuyết phục.
3. Những


vấn đề về sự kết hợp giữa 3 loại hình kiểm tốn trong

hoạt động của Kiểm tốn Nhà nước

3.1. Mục đích của sự kết hợp

Qua những vấn đề nêu trên, cho thấy sự tổn tại và phát triển của Kiểm

toán Nhà nước phụ thuộc vào chất lượng các cuộc kiểm toán, cơ sở của việc

nâng cao chất lượng kiểm toán là việc áp dụng và kết hợp tốt giữa các loại

hình kiểm tốn bao gồm : kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tn thủ và

kiểm tốn hoạt động.

Mục đích bao trùm của việc kết hợp là nâng cao chất lượng hoạt động

kiểm toán, khẳng định Kiểm toán Nhà nước là công cụ mạnh của Nhà nước

trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Từ đó cho thấy mục tiêu cụ thể của sự kết hợp 3 loại hình kiểm tốn
được thể hiện trên một số mặt sau:

- Mỏ rộng phạm vi, đối tượng kiểm tốn.

- Nội dung kiểm tốn tồn diện, phong phú hơn
- Phương pháp kiểm toán được sử dụng và kết hợp tốt hơn


- Tăng cường khả năng phát hiện các vi phạm, sai sót tại các đơn vị

được kiểm toán, giảm thiểu xuống múc thấp nhất các rủi ro kiểm tốn có thể

Xây ra

- Đánh giá, nhận xét, kết luận, kiến nghị toàn diện, phong phú, đồng bộ

hơn đối với các đối tượng được kiểm toán, các cơ quan quản lý Nhà nước có
thấm quyền liên quan.
- Cung cấp thơng tin có gía trị để phục vụ cho việc lãnh đạo, chỉ đạo

của Đảng, Quốc hội, Chính phủ

- Nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng cho kiểm toán viên đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ ngày một nặng nề và thử thách to lớn đang đặt ra cho Kiểm toán

Nhà nước


18

3.2. Điều kiện kết hợp

3.2.1/ Địa vi pháp lí và chức năng nhiệm vụ
Có quan điểm cho rằng, nếu Kiểm toán Nhà nước chưa được quy định
thêm chức năng về kiểm tốn hoạt động thì Kiểm tốn Nhà nước chưa có cơ


sở pháp lí để thực hiện loại hình kiểm tốn này và khơng có cơ sở để kết hợp

3 loại hình kiểm tốn. Tuy nhiên trong thực tiễn, Kiểm toán Nhà nước đã từng

bước vận dụng kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm tốn của mình.

Chính vì thế, sự kết hợp giữa các loại hình kiểm tốn bước đầu đã được thực

hiện. Tuy rằng múc độ, nội dung, phương pháp kết hợp còn nhiều vấn đề cần
được nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn. Song điều được khẳng định là nhị có sự
kết hợp nên chất lượng các cuộc kiểm toán đã từng bước được nâng lên.

Từ thực tiễn trên cho thấy: Trong điều kiện hiện nay nếu Kiểm tốn

Nhà nước cứ chờ đến lúc có cơ sở pháp lí tương xứng, chắc chắn mới thực

hiện kiểm tốn hoạt động và kết hợp 3 loại hình kiểm tốn là một sự máy
móc, thụ động, tự hạ thấp vai trị của Kiểm toán Nhà nước.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng nếu Kiểm tốn Nhà nước có địa vị pháp
lí ngang tầm nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn... được bổ sung hồn thiện, thì

hiệu quả, hiệu lực của Kiểm tốn Nhà nước sẽ được nâng lên rõ rệt.
Vì vậy, điều kiện hàng đầu cần được khẩn trương xác lập đó chính là
địa vị pháp lí và chức năng nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước

3.2.2/ Đội ngũ kiểm toán viên.

Kiểm toán viên Nhà nước được hình thành từ nguồn cán bộ được tiếp
nhận, thuyên chuyển từ các cơ quan đơn vị của Trung ương, địa phương và


nguồn sinh viên tốt nghiệp đại học kinh tế và một số trường khác. Về chất
lượng: 100% kiểm tốn viên đều
tài chính kế tốn. Đối với một số
là cán bộ chun ngành tài chính,
có kiến thức chun mơn nghiệp

có trình độ đại học trở lên, có kiến thức về
kiểm tốn viên đã trải qua cơng tác, chủ yếu
một bộ phận có kinh nghiệm trong quản lý,
vụ, cập nhật được các đường lối, chính sách

của Đảngvà Nhà nước. Bộ phận cịn lại có khả năng chun môn và kiến thức

nghiệp vụ ở tầm vi mô nhưng năng lực quản lý, khả năng tổng hợp và phân

tích cịn bị hạn chế.

Đối với nguồn kiểm tốn viên mới được tuyển dụng thông qua thi

tuyển, đội ngũ này được tiếp cận với kiến thức của kinh tế thị trường, cơng
nghệ thơng tin và kiến thúc tổng hợp, phân tích tương đối tốt.

Qua thực tiễn công tác, đội ngũ kiểm tốn viên đã có những bước tiến
bộ, trưởng thành. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ trong những năm gần

đây trình độ, năng lực của kiểm tốn viên đã bộc lộ nhũng bất cập. Qua các
cuộc kiểm toán cho thấy phương pháp kiểm tốn cịn nặng nề về kiểm tra kế



19

tốn, nặng về tầm vi mơ, khả năng phát hiện sai sót cịn hạn chế, các sai sót đã

phát hiện chưa nêu được các nhận xét, đánh giá một cách dầy đủ, toàn diện.

Phương pháp làm việc của một số kiểm toán viên thiếu khoa học. Sự phối kết
hợp trong các tổ kiểm tốn, giữa các tổ trong Đồn kiểm tốn cịn hạn chế.
Từng kiểm tốn viên, sự vận dụng kết hợp các loại hình kiểm tốn trong khi

thực hiện nhiệm vụ được phân cơng cịn ở mức độ nhất định, thiếu sự nhất
quán và đồng bộ.
Do vậy, nâng cao trình độ năng lực, giáo dục. rèn luyện, thử thách kiểm

toán viên là vấn đề đang được lãnh dạo Kiểm toán Nhà nước hết sức chú
trọng.

Sự kết hợp các loại hình kiểm tốn chỉ có thể được thực hiện tốt nhất

khi có đội ngũ kiểm tốn viên vừa có trình độ năng lực chun mơn ngang
tầm với địi hỏi của cơng việc, có đạo đức nghề nghiệp, có văn hóa kiểm tốn
thì chất lượng các cuộc kiểm tốn nói riêng, hoạt động kiểm tốn, vai trị vị

trí của Kiểm tốn Nhà nước nói chung được khẳng định và phát triển
3.2.3/ Về chuẩn mực và quy trình kiểm tốn:

Các chuẩn mực và quy trình đã trổ thành chỗ dựa tin cậy cho việc hành

nghề của kiểm toán viên. Tuy nhiên, chúng đã và đang bộc lộ những mặt hạn
chế nhất định, không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu nhiệm vụ trong giai


đoạn hiện nay và trong tương lai. Chuẩn mực kiểm tốn hiện nay chưa có các
chuẩn mực về kiểm toán hoạt động, về sự kết hợp giữa các loại hình kiểm

tốn. Quy trình kiểm tốn nói chung và quy trình kiểm tốn ngân sách nói
riêng đang nặng về kiểm tốn báo cáo tài chính nhưng chưa thật cụ thể, đầy
đủ. Do vậy, về chuẩn mực và quy trình cũng cần được nghiên cứu, bổ sung
sửa đổi kịp thời.
Ngoài ra Kiểm toán Nhà nước cũng chưa xây dựng được cẩm nang (hay
thực hành kiểm toán) chuyên ngành- loại sách "Gối đầu giường" của kiểm
toán viên - điều kiện quan trọng để nâng cao năng lực kiểm toán viên và chất
lượng hoạt động kiểm toán
3.2.4. Ung dụng tin học trong hoạt động kiểm tốn.
Trên bình diện chung, theo thống kê, đánh giá thì hầu hết kiểm tốn

viên đều có trình độ tin học cơ bản, biết sử dụng một số phần mềm nhất định,

một số kiểm tốn viên có trình độ cao hơn. Tuy nhiên, điều nhận ra rất rõ là
việc ứng dụng tin học để hỗ trợ công tác kiểm tốn hầu như chưa có. Trong

q trình kiểm tốn, phần lón các kiểm tốn viên phải u cầu đơn vị được
kiểm toán in các loại sổ, báo cáo ... ra giấy, chưa thực hiện được việc kiểm

toán trên máy. Kiểm toán Nhà nước chưa trang bị đầy đủ máy vi tính xách tay
và chưa có các chương trình phần mềm hỗ trợ kiểm toán cho các kiểm toán



×