Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Tài liệu Đề án "Bán phá giá hàng hóa ở VN" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.18 KB, 51 trang )








Đề án

Đề tài


"Bán phá giá hàng hóa
ở VN"

1

Chương 1 :
Tổng quan về bán phá giá hàng hoá


1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Giá trị thông thường
1.1.1.1. Khái niệm

Giá trị thông thường là giá bán có lãi của sản phẩm tương tự được bán với số lượng
thích đáng trên thị trường nội địa tới người tiêu dùng độc lập.

1.1.1.2. Điều kiện để xác định giá trị thông thường của hàng hoá
 Sản phẩm tương tự
 Số lượng thích đáng


 Có lãi
 Các khách hàng độc lập.
Sản phẩm tương tự là các sản phẩm giống nhau, hoặc nếu nó không giống nhau
hoàn toàn thì nó phải gần như giống nhau.
Số lượng thích đáng là số lượng ít nhất phải bằng 5% khối lượng xuất khẩu được
bán trong tiến trình buôn bán thông thường ở trong nước xuất khẩu.
Tiến trình buôn bán thông thường cần đáp ứng hai điều kiện: bán có lãi và khách
hàng độc lập.
Ví dụ
: nhà xuất khẩu xuất khẩu 60 chiếc xe máy giá 2000 USD/chiếc, bán nội địa
10 chiếc với giá 2100USD/chiếc. Trong trường hợp này do khối lượng bán nội địa
nhỏ hơn 5% nên không sử dụng được giá bán nội địa 2100USD/chiếc.
Có lãi là giá bán trung bình cao hơn chi phí đơn vị sản phẩm.

2
Các khách hàng độc lập: là khách hàng chiếm giữ lớn hơn hoặc bằng 5% vốn của
nhà xuất khẩu hoặc nhà xuất khẩu chiếm lớn hơn hoặc bằng 5% vốn của cả khách
hàng và nhà xuất khẩu.
1.1.1.3. Các biện pháp xác định giá trị thông thường
Giá trị thông thường là mức gía mà ở đó hàng hoá được bán cho người tiêu dùng ở
trong nước xuất khẩu.
Trong trường hợp người xuất sản phẩm ra nước ngoài và không bán s
ản phẩm đó ở
trong nước thì giá trị thông thường có thể được xác định bằng mức giá xuất khẩu
tới nước thứ ba.
Nếu nước xuất khẩu không phải là nước sản xuất hàng hoá mà do nhập từ nước sản
xuất về rồi xuất khẩu đi thì giá trị thông thường được xác định trong nước sản xuất
hàng hoá đó.
Trường hợp nước xuất khẩ
u là một nước thực hiện kế hoạch hoá tập trung thì được

phép chỉ định một nước thay thế.

1.1.2. Giá xuất khẩu:
1.1.2.1. Khái niệm:
Giá xuất khẩu là giá đã trả thực sự hoặc có khả năng trả giá xuất khẩu tới cộng
đồng, tới một khách hàng độc lập. Trong các trường hợp:
Nếu không có giá đã trả hoặc có khả năng trả tức là không có giá xuất khẩu thì ph
ải
sử dụng giá kiến tạo.
Nếu không có giá xuất khẩu tới cộng đồng thì không phải chịu sự điều tra.
Nếu không có khách hàng độc lập thì phải sử dụng giá kiến tạo.
Ví dụ: người xuất khẩu bán hàng cho người nhập khẩu mà người nhập khẩu đó có
quan hệ họ hàng với người xuất khẩu, mức giá bán 1 là 90USD (là giá xuất khẩu
không tin cậy).
Các chi phí: 20% , lãi thông thường: 10%.

3
Người nhập khẩu bán hàng cho người mua không có quan hệ họ hàng ở mức giá
bán hai là 100USD.
Như vậy giá bán 1 là giá không tin cậy.
giá bán 2 là giá tin cậy thứ nhất
giá xuất khẩu kiến tạo sẽ là: 100 – ((20%+10%)*100)= 70 USD.
70USD là giá xuất khẩu kiến tạo.

1.1.2.2. Các biện pháp xác định giá xuất khẩu:
 Nếu sản phẩm nhập khẩu có gía đã được chi trả trong thực tế hoặc có khả năng
chi trả ( như giá trong hoá đơn) thì đó là m
ức gía xuất khẩu.
 Nếu sản phẩm nhập khẩu không có giá trị chi trả trong thực tế hoặc không có
khả năng chi trả ( như gía trong hoá đơn) hoặc không thể xác định được giá của

nó thì lấy giá của sản phẩm nhập khẩu đó khi bán lại lần đầu tiên cho người mua
độc lập làm “giá xuất khẩu”.
 Hàng hóa tương tự:
 Hàng hóa tương tự là hàng hoá đồng dạng về t
ất cả các khía cạnh hoặc hoặc các
đặc tính lắp ráp gần gũi với mặt hàng so sánh.
1.1.2.3. Giá trị kiến tạo: Là sự thay thế cho một mức giá nội địa
Giá trị kiến tạo được sử dụngkhi:
 Không có việc bán hàng nội điạ hoặc việc bán hàng nội địa là nhỏ hơn 5% khối
lượng hàng xuất khẩu.
 Giá trị kiến tạo gồm ba bộ phận:
 Chi phí sản xuất ( bao gồm “lao động trực tiếp + các nguyên vật liệu trực tiếp +
chi phí quản lý hành chính sản xuất”)
 Các chi phí quản lý và bán hàng nội địa.
 Một giới hạn lãi ( trên các lần bán hàng nội địa)
Ví dụ: Chi phí vật liệu trực tiếp: 100 USD
Lao động trực tiếp : 20 USD

4
Chi phí quản lý hành

chính sản xuất: 10 USD

Chi phí sản xuất : 130USD
Chi phí quản lý và bán hàng: 40 USD

Tổng chi phí 170 USD
Lãi (15%) 30 USD

Giá trị kiến tạo 200 USD

Chú ý: Lãi là ở mức bình thường trên doanh số.


1.2. Khái niệm về bán phá giá hàng hoá
1.2.1. Khái niệm
 Theo điều VI của Hiệp định chung về buôn bán và thuế quan (GATT) năm 1947
xác định:
Bán phá giá là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán thành hàng hoá ở
mộ
t nước khác, với mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm
đó khi bán ở trong nước.
Một sản phẩm được coi là bán phá giá khi nó được đưa vào hoạt động thương mại
tại nước nhập khẩu với giá xuất khẩu thấp hơn giá có thể so sánh được trong tiến
trình buôn bán thông thường đối với sản phẩm tương tự khi đưa tới người tiêu dùng
ở trong nướ
c xuất khẩu.
Như vậy, trung tâm của khái niệm bán phá giá là có sự tách biệt về giá, khi giá xuất
khẩu thấp hơn gía trị thông thường của hàng hóa đó ở trong nước xuất khẩu.

5
Bán phá giá hàng hoá không đồng nghĩa với hàng hoá bán rẻ. Một nước có thể xuất
khẩu hàng hoá đó sang nước khác, bán với giá rẻ hơn hàng hoá cùng loại đang bán
trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán không thấp hơn gía bán của hàng hoá
đó trên thị trường nước xuất khẩu thì hành động đó không phải là bán phá giá.
Ví dụ về việc bán phá giá hàng hoá như sau:
Một người sản xuất TV lâu năm bán mặt hàng tivi PANASONIC với giá
300USD/chiếc, nếu ngườ
i đó xuất khẩu TV cùng loại PANASONIC tới nước khác
và bán với giá 230USD /chiếc thì người đó đã thực hiện hành động bán phá giá.


 Từ điển Tiếng Việt- do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam- Bộ giáo
dục và đào tạo phát hành năm 1999 quy định: “ Bán phá giá là bán với giá thấp
hơn giá chung của thị trường để nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường”.

 Theo điều 4 củ
a “Pháp lệnh giá” của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam định nghĩa:
“Bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông
thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường , hạn chế cạnh tranh
đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh và lợi ích của Nhà nước.”
Với định nghĩa này, Phạm vi
điều chỉnh của nó chỉ đặt ra đối với việc chống phá
giá trong quan hệ thương mại tại thị trường nội địa nhưng xét về bản chất không có
gì trái, mâu thuẫn so với những giải thích mang tính chuẩn mực của Từ điển, với
những quy định của GATT, WTO. Nó đã vận dụng và điều chỉnh một cách tương
đối hợp lý vấn để chống bán phá giá trong quan h
ệ thương mại quốc tế vào quan
hệ thương mại nội địa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Khái niệm trên đã làm
sáng tỏ ba nội dung cơ bản để tiến hành các giải pháp chống bán phá giá phải chú
ý, đó là:

6
 Thứ nhất: Xác định hành vi (Bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với
giá quá thấp so với giá thông thường…).
 Thứ hai: Xác định mục tiêu của hành vi ( …để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế
cạnh tranh đúng pháp luật).
 Thứ ba: Xác định hệ quả xảy ra của hành vi và việc thực hiện mục tiêu của
hành vi ( Gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức , cá nhân sả
n xuất kinh

doanh khác và lợi ích Nhà nước).
Một khái niệm với ba nội dung nêu trên có liên quan mật thiết với nhau và nó là
quan hệ nhân quả; nếu cắt bỏ bất kỳ vế nào củakhái niệm trên thì khái niệm sẽ mãi
mãi không thể là một khái niệm hoàn chỉnh.
1.2.2. Điều kiện bán phá giá hàng hoá
Theo điều 23- “Pháp lệnh giá” của Việt Nam ngày 8/5/2002
Các hành vi sau không bị coi là hành vi bán phá giá:
 Hạ giá bán hàng tươi sống
 Hạ giá bán hàng tồn kho do chất lượng giả
m, lạc hậu về hình thức, không phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
 Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ
 Hạ giá bán hàng hoá để khuyến mại theo quy định của pháp luật
 Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản
xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh.
Điều kiện bán phá giá hàng hoá là phải lũng đoạ
n được mặt hàng đó ở thị trường
trong nước để tránh nguồn hàng nhập khẩu trở lại.
Có thể nói bán phá giá hàng hoá là một trong những biểu hiện trực tiếp lớn nhất
của sự can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực Ngoại thương, đồng thời là thủ đoạn
quan trọng để mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá trên thị trường ngoài nước. Đặc
đi
ểm của bán phá giá hiện nay là phần lớn do Nhà nước tiến hành và tổn thất do
Ngân sách Nhà nước gánh chịu.


7
1.3. Mục tiêu của bán phá giá
Mục tiêu của bán phá giá hàng hoá là nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh
thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và cuối cùng là đạt được lợi

nhuận tối đa. Nhưng trong đó hai mục tiêu chủ yếu là mục tiêu lợi nhuận và mục
tiêu chính trị.

1.3.1. Mục tiêu chính trị
Bán phá giá là một trong những biểu hiện trực tiếp nhất của sự
can thiệp của Nhà
nước Đế quốc trong lĩnh vực ngoại thương. Ngoài mục tiêu chính là mục tiêu lợi
nhuận, mục tiêu chính trị và thao túng các nứơc khác cũng được coi là khá quan
trọng trong hành động bán phá giá. Một số nước thực hiện bán phá gía để thao túng
thị trường.
Đối với các hãng lớn ngoài việc thao túng thị trường còn có thể với mục đích khác
như dành uy tín, hoặc để tăng sức ép với bạn hàng nhập khẩu về
mặt nào đó.
Ví dụ: Mỹ đã sẵn sàng bỏ Ngân sách để mua phần lớn số gạo trên thị trường thế
giới rồi bán phá giá, điều này làm cho nhiều nước phải lao đao và phải chịu nhiều
vòng phong toả của Mỹ. Chẳng hạn giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng
400USD/tấn, thậm chí 800USD/tấn, họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới với
giá chỉ bằng 60%-70%, thậm chí 40% mức giá mua. Mức này thấp hơn nhiều so
với gía thành của nông dân Mỹ sản xuất ra, do đó Mỹ phải trợ giá từ 700- 800 tr
USD/năm để trợ giá xuất khẩu gạo, nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Tuy bị
thâm hụt Ngân sách nhưng Mỹ đã thực hiện được mục tiêu chính trị của mình là
thao túng giá gạo trên thế giới, để từ đó buộc các nước ph
ải ràng buộc với mình
trong những điều kiện nhất định.

1.3.2. Mục tiêu lợi nhuận
Thực tế quan sát ở Châu Âu đã chỉ ra rằng, khi mà các hãng cạnh tranh với nhau có
mức chi phí bình quân xấp xỉ như nhau thì họ thường thoả thuận thủ tiêu cạnh

8

tranh, giảm lượng bán và tăng giá bán. Khi tự do cạnh tranh, sau một khoảng thời
gian không dài thị trường không cân bằng, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm
thoả thuận giảm sản lượng xuống tạo ra mức cân bằng mới của thị trường nhưng
vẫn có lợi nhuận cao hơn cạnh tranh ngang.
Còn đối với các nước xuất khẩu, khi thực hiện hành động bán phá gía nhằm mục
tiêu lợi nhuận, nướ
c xuất khẩu phải hạn chế tối đa nhập khẩu, các doanh nghiệp
trong nước thoả thuận với nhau về giá, nâng mức giá trong nước lên. Mặt khác, họ
xuất khẩu với giá triệt tiêu đối thủ. Sau khi chiếm lĩnh thị trường nước nhập khẩu,
họ sẽ tìm cách thao túng để thu lợi nhuận tối đa.
 Nguyên nhân của việc tăng lợi nhuận khi bán phá giá:
Các doanh nghiệp trong nước đ
ã thoả thuận với nhau để xác định mức sản lượng
từng hãng và xác định mức giá chung trong nước. Khi đó họ sẽ thu được nhiều lãi
trong việc nâng giá bán.
Tăng được số lượng hàng xuất khẩu do giá rẻ hơn tại nước nhập khẩu , tạo điều
kiện cho các hãng này mở rộng sản xuất, tận dụng được hết công suất, máy móc
thiết bị dẫn đến giả
m chi phí, do đó mà bù lỗ cho việc bán phá giá ở nước ngoài.
Khi mọi đối thủ cạnh tranh đã bị đánh bại, họ sẽ lũng đoạn thị trưòng nước nhập
khẩu về mặt hàng được đem bán phá giá và lợi nhuận sẽ lớn hơn gấp nhiều lần.
Một số ví dụ về việc bán phá giá mặt hàng tivi của Nhật tại thị trường Mỹ:
Từ nh
ững năm 1960, các công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là HITACHI,
SANYO, SHARP và TOSHIBA đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày
10/09/1964, họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi
công ty.
Kết quả của việc thoả thuận nâng giá này là người Nhật phải trả giá 700USD cho 1
chiếc tivi màu trong khi ở Mỹ giá là 400USD/chiếc tivi cùng loại. Các công ty của
Mỹ đã không chịu nổi sự cạnh tranh và đế

n năm 1989, sáu hãng lớn và nhiều hãng
nhỏ của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất bị suy yếu, ngược lại các hãng điện tử
của Nhật đã thu được lợi nhuận lớn qua việc bán phá giá này.

9

1.4. Nguyên nhân của việc bán phá giá
Hành động bán phá giá xảy ra do nhiều nguyên nhân, có thể kể đến những nguyên
nhân chính sau đây:
 Do có các khoản tài trợ của Chính phủ hoặc cơ quan công cộng nước ngoài.
Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích chính sau đây:
+ Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
+ Duy trì mức sử dụng nhất định với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền v
ốn
trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho người sản xuất cũng như
cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như nhau và đều
đưa đến những hệ quả kinh tế tương tự.
Các hình thức tài trợ chủ yếu là: trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự tham
gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như các hỗ
trợ xuất khẩu.
Các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy và thiết bị
hiện đại, nghĩa là giúp cho các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát
triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu. Do
đó mà chi phí sản xuất giảm xuống dẫn đến việc hạ giá bán.
 Do nhập siêu lớn, vẫn phải có ngoại t
ệ để bù đắp cho thiếu hụt này. Khi đó có
thể áp dụng biện pháp bán phá giá để giải quyết cho vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.
 Do trong một nước có quá nhiều hàng tồn kho, không thể giải quyết theo cơ chế
giá bình thường.
Bán phá giá được sử dụng như là công cụ cạnh tranh. Sau khi đã chiếm lĩnh được

thị trường nội điạ của nước nhập khẩu, tri
ệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng nội
địa thì các hãng sẽ tìm cách thao túng thị trường nội địa để thu được lợi nhuận tối
đa.
Cũng có thể có một số nước làm ra sản phẩm với giá thành rất thấp do sử dụng lao
động trẻ em, tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu.
Việc sử dụng lao động trẻ em ngoài việc mang lại siêu lợi nhuậ
n còn là cách để

10
cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh. Nhờ giá nhân công rẻ mạc, người ta có thể hạ giá
thành sản phẩm , xuất khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước ngoài.
 Đối với mặt hàng ngoại nhập khẩu, do thu được lợi nhuận siêu ngạch có được từ
trốn thuế nhập khẩu, hàng ngoại sẽ điều tiết và chiếm lĩnh được thị trường với
giá cạnh tranh so với hàng hoá sản xuấ
t trong nước. Ví dụ: hàng vải trên thị
trường Việt Nam, thực tế hàng vải nội chỉ giữ 20% thị phần còn 80 % thị phần
là hàng vải ngoại nắm giữ, trong đó hàng Trung Quốc chiếm 60% thị phần, phần
lớn số vải từ Trung Quốc là do nhập lậu, trốn thuế nên được bán với giá dù chỉ
bằng 1/3- 1/2 hàng sản xuất trong nước.



1.5. Những ảnh hưởng của vi
ệc bán phá giá hàng hoá

Hành động bán phá giá có thể có lợi trong một số trường hợp ,nhưng nếu lạm dụng
quá thì sẽ gây nhiều tác hại đối với nước nhập khẩu cũng như nước xuất khẩu.

1.5.1. Đối với nước xuất khẩu

1.5.1.1. Mặt tích cực
Bán phá giá giúp cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm, tăng thu được ngoại tệ
, giúp tiêu thụ được lượng hàng tồn kho,
đặc biệt là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, quần áo lỗi mốt Tiêu biểu như ở
Pháp, ngay từ khi mới vào mùa đã có lượng hàng tồn đọng như: thực phẩm sắp hết
thời hạn sử dụng, quần áo , giầy dép hết mốt lên tới 50% số dự trữ bán ra. Hàng
tồn kho này được mang bán với mức giá thấp hơn 30% giá thị trường. Đế
n cuối
mùa, hàng tồn đọng chỉ còn vài phần trăm lại đựơc bán lại cho những người chuyên
nghiệp với giá bằng 1/10 giá cũ, họ sẽ đẩy số hàng hoá này ra nước ngoài bán phá
giá.

11
Ngoài ra biện pháp bán phá giá còn là công cụ quan trọng trong chính sách Ngoại
thương của đất nước nhằm giúp cho việc thực hiện những mục tiêu cụ thể trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước đó.

1.5.1.2. Mặt tiêu cực
Người tiêu dùng trong nước phải chịu thiệt do phải chịu giá cao hơn so với trước
đây do có sự thoả thuận về giá giữa các doanh nghiệp.
Việc các doanh nghiệp bán phá giá, lượng hàng hoá đó l
ại được bán cho chính các
doanh nghiệp trong nước mình, do đó lại quay lại lũng đoạn thị trường trong nước.
Do việc bán phá giá nhằm mục đích thu được siêu lợi nhuận nên một vài nước đã
sử dụng lao động trẻ em, phụ nữ, lao động tù nhân với giá rẻ mạt. Hậu quả là người
lao động bị ngược đãi nặng nề. Trung Quốc là một trong những nước tiêu biểu sử
d
ụng lao động tù nhân.Theo số liệu mới đây của văn phòng Quốc tế về lao động trẻ
em (BIT) thì trên toàn thế giới có trên 250 triệu trẻ em từ 5-14 tuổi đang tham gia

hoạt động kinh tế.



1.5.2. Đối với nước nhập khẩu
1.5.2.1. Tác động tích cực
Người tiêu dùng có cơ hội để lựa chọn , tiêu dùng những mặt hàng mới, lạ giá cả dễ
chấp nhận.
Đối mặt vớ
i những mặt hàng từ nước ngoài đưa vào với giá rẻ, buộc các dịch vụ
trong nước phải tìm cách cải tiến mẫu mã hàng hóa, đổi mới máy móc thiết bị, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tích cực áp dụng công nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn
nhân lực để hạ chi phí sản xuất nhằm giữ vững vị trí trên thị trường và thu được lợi
nhuận tối ưu.


12
1.5.2.2. Tác động tiêu cực
Bán phá giá hàng hoá cũng gây ra không ít những khó khăn cho nước nhập khẩu,
nhất là đỗi với các nước đang phát triển, có thị trường hẹp.
Trước hết với người tiêu dùng của nước nhập khẩu họ phải sử dụng những mặt
hàng kém chất lượng, hàng giả, đôi khi cả hàng quá thời hạn sử dụng, không đảm
bảo về an toàn về an toàn thực phẩm, vệ sinh, ả
nh hưởng nghiêm trọng đến sức
khoẻ của người dân.
Các chủ doanh nghiệp, những người kinh doanh do hám lợi, thu được lợi nhuận
cao, do đó tìm mọi cách nhập lậu hàng hoá, trốn thuế gây thất thu cho Ngân sách
Nhà nước. Hơn nữa do không thể cạnh tranh đựơc với hàng nước ngoài nên nhiều
xí nghiệp trong nước bị đình trệ sản xuất, bị phá sản hoàn toàn. Khi đó nó là
nguyên nhân quan trọng gây ra hiện tượng trì trệ, hạn chế t

ốc độ phát triển nền kinh
tế của nước nhập khẩu.
Về mặt xã hội, việc các xí nghiệp bị đóng cửa sản xuất hoặc ở bên bờ của sự phá
sản hoạt động cầm chừng đã làm cho nhiều công nhân không có việc làm, đời sống
khó khăn, thất nghiệp tăng, kèm theo nó là các tệ nạn xã hội cũng gia tăng gây khó
khăn cho sự phát triển kinh tế xã hội c
ủa nước nhập khẩu.










Chương 2
: Thực trạng bán phá giá hàng hoá ở Việt Nam

13

2.1. Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam

Việc nước ta tham gia vào ASEAN, APEC và xin gia nhập WTO sẽ dẫn đến việc
xoá bỏ hàng rào thuế quan, hiện tượng bán phá giá hàng hoá nước ngoài chắc chắn
ngày càng tăng trên thị trường nứơc ta. Các hãng nước ngoài tìm đủ mọi phương
sách để chiếm đoạt thị phần, dồn ép các ngành sản xuất Việt Nam vào một góc thị
phần nhỏ hẹp.
Theo kết quả điề

u tra xã hội học của hội người tiêu dùng Việt Nam tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: các nhóm hàng ôtô, xe máy, rượu bia, thuốc lá
của Mỹ, Nhật, Pháp và các nước châu Âu khác chiếm ưu thế. Với nhóm mặt hàng
gia dụng trước năm 1992 hàng Việt Nam chiếm 62%, hàng Mỹ chiếm 15%m các
nước châu Âu chiếm 14%, và 11% là các nước còn lại thì từ năm 1992 trở lại đây
hàng Trung Quốc đã từng bước chiếm chiếm lĩnh trận địa này. Các m
ặt hàng như
đồ chơi trẻ em, hàng dân dụng, xe máy, xe đạp, các giống cây trồng, thuốc trừ sâu
của Trung Quốc cũng xâm nhập mạnh vào thị trừơng nước ta trong thời gian gần
đây.
Sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm cho Trung Quốc cạnh tranh mạnh hơn
trong những ngành hiện nay. Trung Quốc họ đang có lợi thế so sánh, trong khi đó
những mặt hàng thuộc nhóm A ( những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu
là lao động gi
ản đơn như vải vóc, quần áo giầy dép, dụng cụ lữ hành, dụng cụ du
lịch ,) cũng là lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Do đó Việt Nam sẽ phải
gặp nhiều khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh này, còn Trung Quốc sẽ tìm mọi
biện pháp để thực hiện mục tiêu của mình.
Bên cạnh đó, tình trạng buôn lâụ, trốn thuế ở nước ta ngày càng gia tăng và càng
phức tạp h
ơn. Buôn lậu làm cho hàng ế thừa, hàng kém phẩm chất được bày bán
tràn lan trên thị trường, gây tổn thất nặng nề cho các nhà sản xuất trong nước, gây
thiệt hại về kinh tế và sức khoẻ cho người tiêu dùng.

14
Xét về tổng thể, do sự cạnh tranh không lành mạnh của các hãng nước ngoài, nền
công nghiệp nội địa nước ta đang trong thế suy yếu. Xét cụ thể trong một số ngành
sau:

2.1.1. Ngành dệt may

Thực trạng
Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành công nghiệp dệt may đã có sự phát triển
vượt bậc, có vai trò quan trọng trong công cuộc Công nghiệp Hoá đất nước, có khối
lượng sản phẩm và giá trị kim ng
ạch xuất khẩu lớn. Theo thống kê, năm 1999 giá
trị xuất khẩu đạt 1,73 tỷ USD. Giá trị sản lượng hàng hoá chiếm tỷ trọng trên 8%
gía trị sản lượng toàn ngành công nghiệp và chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Tuy nhiên một mảng thị trường rất quan trọng mà chưa được các
doanh nghiệp Việt Nam quan tâm là thị trường nội địa.
Nghiên cứu các doanh nghiệp trên thế giới cho thấy bao gi
ờ họ cũng luôn quan tâm
đến thị trường nội địa, lấy thị trường nội địa làm gốc, làm nền tảng. Trong khi đó
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại bỏ ngỏ thị trường này. Trên thực tế có
những doanh nghiệp trên 90% giá trị sản xuất là xuất khẩu, hầu như không thấy có
sản phẩm bán trong nước như công ty may Chiến Thắng, công ty may Hưng Yên
Một số công ty may có uy tín như công ty may 10, Thăng Long thì dung lượ
ng
thị trường rất hẹp, chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu trong nước. Hiện nay, trên
thực tế vải nội địa chỉ giữ được 20% thị phần, còn nhường 80% thị phần cho hàng
vải ngoại nắm giữ, trong đó hàng Trung Quốc chiếm lĩnh khoảng 60% thị phần.
Mặc dù tổng công ty dệt may Việt Nam đã được thành lập, nhưng ngay cả các xí
nghiệp may trong tổ
ng công ty cũng không sử dụng vải của các xí nghiệp trong
nước, vải cho may mặc xuất khẩu đang phải nhập khẩu 80 - 90%.
Trên thị trường Việt Nam hiện nay có đủ các loại vải của các nước có danh tiếng về
sản xuất vải trên thế giới. Hàng từ bình dân đến kha khá thì có sản phẩm của Trung
Quốc, Thái Lan, Đài loan, Nhật, Singapor, Indonexia hàng cao cấp thì có vải của

15
Anh, Mỹ, Y, Bằng nhiều con đường, các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần

thông qua việc bán hạ gía các mặt hàng của mình, đặc biệt là mặt hàng vải Trung
Quốc. Giá hàng vải Trung Quốc chỉ bằng 1/3- 1/2 hàng sản xuất trong nước. Một
mét vải siu TrungQuốc giá 12.000- 15.000đ tuỳ theo khổ và màu, trong khi đó vải
siu Long An là 21.000đ.
Loại vải Mousseline Trung Quốc (TQ) hoa màu đủ loại gía chỉ từ 16.000- 18.000đ.
Các loại vải phin, thô, lanh, giá chưa
đến 10.000đ/m. Quần áo TQ giá rất rẻ, lại
thích hợp với tầm vóc người Việt Nam. Một bộ complet tương đối đẹp, nếu mua ở
cửa hiệu sang trọng ở Bắc Kinh giá có thể đến 2triệu đồng, nhưng nếu mua bộ
tương tự ở Việt Nam thì chỉ có vài trăm nghìn.
Hàng vải nhập ngoại đổ bộ vào thị trường Việt Nam qua nhiều con đường: tiều
ngạch, chính ng
ạch,… Điển hình là nhập qua con biên giới phía bắc với Trung
Quốc( đưa vào thị trường Việt Nam 50% tống số lượng vải nhập lậu)
Ngoài ra tình trạng buôn lậu vải bằng đường biển qua các tàu viễn dương, đặc biệt
là qua đường bưu điện cũng đáng báo động.
Hiện nay, các cửa khẩu ở miền Trung và Tây Nam như Lao Bảo,Nội Bài, cũng là
những ngõ vào lớn của vải ngo
ại.
 Các biện pháp bảo vệ thị trường nội đia:
Để bảo vệ vững chắc thị trường nội địa cho mặt hàng dệt may, bảo hộ sản phẩm
trong nước Nhà nước ta cần có các biện pháp:
+ Biện pháp khuyến khích ngưòi VN tiêu dùng hàng trong nước sản xuất.
+ Những chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành dệt và ngành sản xuất nguyên
phụ liệu cho ngành may. Đồng thời, Nhà nứơc cần tă
ng cường đầu tư vào các cơ sở
sản xuất này, trang bị những công nghệ hiện đại, tạo ra sự gắn kết giữa dệt và may.
+ Đầu tư vào các cơ sở đào tạo đội ngũ cán bộ và công nhân dệt may, cần có sự
quan tâm hơn nữa về vấn đề thời trang.


16
Về giá cả các doanh nghiệp cũng cần có các biện pháp bảo hộ sản xuất của mình:
có thể thông qua giá tức là sản xuất sản phẩm với giá thấp để có thể phù hợp với
sức mua va cạnh tranh được.

2.1.2. Mặt hàng xe đạp, xe máy
2.1.2.1. Xe đạp
Trước thập niên 80, mỗi năm nước ta sản xuất không ít hơn 500.000 chiếc xe đạp
và khoảng 5.000 tấn phụ tùng. Đã hình thành 4 trung tâm sản xuất xe đạp vớ
i gần
100 doanh nghiệp có tên tuổi, phân bố đều trên các vùng đất nước như: Hà Nội, Hải
phòng, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng là hàng nhâp lậu trốn thuế bán
với giá quá rẻ, khiến cho hàng xe đạp nội địa không cạnh tranh nổi, ngành sản xuất
xe đạp bị tổn thương nặng. Bốn trung tâm sản xuất xe đạp lớn của cả nước nay chỉ

còn hai trung tâm là Hà Nội và Hồ Chí Minh hoạt động cầm chừng, còn giữ lại tên
gọi truyền thống, nhưng tồn tại nhờ vào việc sản xuất kinh doanh các mặt hàng
khác không phải sản xuất bằng xe đạp. Từ việc sản xuất 500.000 xe/năm đến nay
chỉ còn 150.000chiếc/năm. Hiệp hội xe đạp, xe máy Việt Nam ( VINACYCLE)
thành lập năm 1991 có 96 thành viên, đến nay chỉ còn 43 thành viên.

Tại Hà Nội, năm1996, liên hiệp các xí nghiệp xe đạ
p, xe máy (LIXEHA) có 13
công ty, xí nghiệp thành viên, chỉ sản xuất được 51.000 xe đạp và 1.500 tấn phụ
tùng, chưa bằng ẵ so với năm có sản lượng cao nhất. Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà
nổi tiếng về sản xuất xe đạp, nay lại nổi tiếng về mặt hàng bàn ghế và trang thiết bị
nội thất. Công ty sản xuất và dịch vụ cơ điện- một thành viên của LIXEHA thì nay
sản xuất trang thiết bị ytế
. Trong thành phố chỉ còn lác đác vài cửa hàng Quốc

doanh bày bán xe đạp nội địa nhãn hiệu VIFIA, LIXEHA, Xuân Hoà hay Thống
Nhất nhưng rất ít người mua.

17
Trong khi nhu cầu xe đạp trong cả nước rất lớn khoảng 500.000- 600.000 xe/năm,
khả năng sản xuất trong nước có thể đáp ứng được, nhưng chúng ta đã nhường
3/4thị phần cho xe đạp nhập từ các nước Nhật, Pháp, Singapor và chủ yếu nhất là
hàng của Trung Quốc. Hàng Trung Quốc đa phần là nhập lậu, trốn thuế, mẫu mã
đẹp và thay đổi liên tục, giá bán rẻ: xe đạp mini TQ giá từ 400-600.000 đ/chiếc, xe
đạ
p địa hình TQ năm 1996: 1,3 triệu đồng/chiếc, sang năm 1997 chỉ có
800.000d/chiếc, chất lượng vẫn thế mà kiểu dáng đẹp hơn, các đại lý bán xe đạp
TQ có thể chịu vốn, do đó bỏ xa hàng Việt Nam.

2.1.2.2. Xe máy
Việt Nam là một nước đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người khoảng
400.000đ(năm 2001). Các thành phố lớn của Việt Nam đang trong quá trình phát
triển trong đó các khu vực chính của các thành phố đều
đang được xây dựng, hầu
hết các đường phố ở các thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh đều rất hẹp. Đó là lý
do tại sao xe máy, xe đạp là những phương tiện phổ biến nhất ở Việt Nam kể từ
những năm 70.
Năm 1999 lượng xe máy tiêu thụ trên thị trường Việt Nam khoảng nửa triệu chiếc,
người ta cho rằng còn lâu nữa mới có thể đạt được một tri
ệu chiếc/năm. Bất ngờ
cuộc “đổ bộ” ào ạt của xe Trung quốc, đến năm 2000 con số này đã lên đến 1,8
chiếc. Năm 2001 lượng linh kiện xe máy nhập khẩu lên đến hơn hai triệu bộ.
Cuộc “đổ bộ” của xe Trung quốc giá rẻ từ năm 1999 đã buộc các hãng xe gắn máy
lớn hạ giá- 51 doanh nghiệp lắp ráp xe Trung quốc dạng IKD đã tạo nên sức ép
kinh tế đáng k

ể buộc các hãng xe máy liên doanh và 100% vốn nước ngoài phải hạ
giá. Super Dream từ 26 triệu đồng hạ xuống dưới 20 triệu đồng (thời điểm 2001).
Sirius từ trên dưới 24 triệu đồng xuống còn dưới 20 triệu đồng với phanh chống, 21
triệu với phanh đĩa. Viva 110 cũng tương tự.
VMEP là hãng có giá bán thấp nhất trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, giá Angel năm 1998 là 1.300 USD, đến năm 2002 chỉ còn dưới

18
1.000 USD, mặc dù xe đã cải tiến nhiều. Các thương hiệu xe khác của hãng như
Magic, Magic star cũng phải giảm khoảng 1 triệu đồng/xe.
Để cạnh tranh với những hãng xe Trung quốc đang bán phá giá trên thị trường Việt
Nam, hãng Honda Việt Nam- một thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam đã tung ra
thị trường xe Honda Wave Alpha vào 19/01/2002. Xe Wave Alpha được thiết kế để
đáp ứng nhu cầu xe của thị trường Việt Nam: phù hợp với
địa hình Việt Nam, giá
rẻ ( hơn 10 triệu đ) trong khi vẫn đảm bảo chất lượng và độ tin cậy cao thông qua
việc sử dụng các cấu kiện sản xuất trong nước với giá thành thấp hơn cũng như
những cấu kiện được mua qua hệ thống mua sắm toàn cầu của Honda. So với các
loại xe máy Trung quốc đang hiện hành thì Wave Alpha có nhiều tính năng hơn
hẳn.
Sau sự xuất hiện củ
a Wave Alpha, người tiêu dùng đồng loạt mua loại xe mới này,
thị trường loại xe đó trở nên sôi động, nhiều người đã phải đặt cọc tiền mua trước
và sau một thời gian mới lấy được xe. Trong khi đó, nhiều cửa hàng bán xe Trung
quốc ở thành phố Hồ Chí Minh đồng loạt giảm giá bán các loại xe động cơ Longcin
và Lifan với mức 400- 600.000đ/xe.
Giá xe Trung quốc loại Dream cao còn 5,8- 6,5 triệuđồng/xe, Wave còn 6,2-
6,8triệu đồng/xe, . Nhưng d
ường như vẫn không cạnh tranh được với Wave Alpha
của Honda.

Đến tháng 04/2002 đã xuất hiện loại xe Wave Alpha TQ với mẫu mã, màu sắc
giống hệt của hãng Honda Việt Nam nhưng có giá bán rẻ hơn nhiều. Tại cửa hàng
xe máy của công ty Đức Phương trên đường Lê Văn Việt (quận 9- TP Hồ Chí
Minh), xe Wave Alpha Trung Quốc được bán với giá 7,5 triệu đồng/xe, chủ bán xe
bao giấy tờ và có giấy hải quan chỉ sau 1 ngày.
Như vậy với việ
c bán phá giá xe máy của hãng xe nhập từ Trung quốc đã ảnh
hưởng ít nhiều tới thị trường xe máy nội địa. Cuộc đổ bộ của xe Trung quốc với giá
rẻ đã làm cho nhiều hãng xe của Việt Nam phải điêu đứng một thời gian để tìm
cách trụ vững.

19

2.1.3. Hàng phân bón
Một tình trạng rất mới trong 5 tháng của năm 2002 trên thị trường Việt Nam là
các doanh nghiệp sản xuất phân NPK , nhất là các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài đang đứng trước nguy cơ thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do phân NPK
chủng loại 16:16:8(NPK16:16:8), nhập khẩu từ Hàn Quốc đang được bán với gía
rất thấp trên thị trường Việt Nam.
Trong nước hiện nay có hai “đại gia” về sản xuất phân NPK 16:16:8 là Công ty liên
doanh phân bón Việt- Nhật (JVF) , công su
ất thiết kế 350.000 tấn phân NPK trong
một năm và công ty kiên doanh phân bón Baconco, cũng có công suất tương tự.
Nhu cầu phân NPK trong nước hiện nay khoảng 1.5 triệu tấn/năm, trong đó có
khoảng 300000- 400000 tấn là phân NPK 16:16:8.
Hơn ba năm trước, khi JVF và Baconco chưa thành lậ,phân NPK 16:16:8 chủ yếu
nhập từ Philippin, khoảng 300000- 350000 tấn/năm. Gần đây do trong nước đã sản
xuất được loại phân này nên lượng nhập khẩu giảm mạnh, chỉ còn 50000- 100000
tấn/n
ăm.

Sau khi phân NPK 16:16:8 Philippine không còn nhập vào Việt Nam thì phân NPK
của Hàn Quốc nhảy vào thế chỗ với lượng nhập khẩu vào năm 2001 là 20000 tấn.
Đến năm 2002,lượng nhập này tăng đột biến và nhà nhập khẩu bán cho đại lý rẻ
hơn phân cùng loại được sản xuất trong nước đến 500000 đồng/tấn. Hiện nay giá
chào bán phân NPK 16:16:8 là 1700- 1800 đồng /kg.Nhà nhập khẩu Việt Nam bán
cho đại lý là 2100- 2250đồng/kg, trong khi giá bán tại nhà máy trong nước là
2500-2600 đồng /kg. Để né tránh việc bị kiệ
n bán phá gía, nhà nhập khẩu phân bón
từ Hàn Quốc đã không nhập nguyên bao mà nhập hàng về Việt Nam rồi mới đóng
bao.
Trước tình trạng bán phá giá này,các doanh nghiệp sản xuất phân bón Việt Nam
đang đứng trước những khó khăn. Các doanh nghiệp Việt Nam đang khiếu nại với

20
Hội phân bón Việt Nam và Chính phủ về vấn đề nay nhưng trên thực tế Việt Nam
chưa có “luật chống bán phá giá”nên rất khó cho việc giải quyết thực trạng này.

2.1.4. Nước giải khát

Trong trận chiến giữa các hãng đồ uống có ga quốc tế như Coca- cola và Pepsi, các
hãng sản xuất nước giải khát Việt Nam như Mekofood (sản xuất đồ uống có ga
nhãn Festi). Công ty Tribeco đã nhìn thấy trước những khó khăn trong cuộc chiến
này. Ngay khi vào cu
ộc, cảhai hãng tung ra những hình thức quảng cáo cùng với
chiến thuật cạnh tranh quyết liệt và liên tục. Coca- cola hạ giá bằng cách nâng dung
tích chai từ 207ml lên 300 ml nhưng vẫn giữ giá bán 1500đ. Còn Pepsi tung ra loại
chai dung tích 500ml, bán giá 1600đ, như vậy giá thành hạ xuống còn 800đ/250ml.
Trong khi đó sản phẩm của Tribeco là chai dung tích 207ml, giá bán 1100đ/chai,
còn chai Festi 200ml giá bán là 2000đ/chai.
Tháng 1 năm 1996 thị trường lại chứng kiến cuộc bán phá giá quy mô lớn của

Coca-cola. Công ty liên doanh Coca-cola Ngọc Hồi áp dụng chế độ khuyế
n mại
đến hết tháng 1/1996. Theo đó cứ mua 3 két coca hoặc 3 két sprite được tăng thêm
một két hay mua 5 thùng coca hoặc 5 thùng sprite thì tặng thêm 1 thùng. Nếu tính
ra thì Coca-cola đã hạ giá đến 25%, với mức giá này thì Coca-cola đã làm một cuộc
phá giá.Vì thuế doanh thu nước ngọt lúc bấy giờ là 8%, thuế nhập khẩu hương liệu
là 30%, khó có một giá thành sản xuất rẻ hơn mức giá khuyến mại này.
Một hãng khổng lồ sản xuất ở vài chục nước khác nhau như Coca-cola và Pepsi chỉ

cần mang ít hàng tồn kho tạm thời đưa vào Việt Nam cho không người tiêu dùng
cũng không ảnh hưởng gì đến doanh thu của họ. Muốn đánh gục đối phương họ đã
không làm như vậy vì của cho không sẽ mang tiếng là đồ bỏ đi. Họ đã bán dưới giá
thành sản xuất của các công ty trong nước và mở rộng các đợt khuyến mại liên tục
trị giá hàng tỷ đồng, họ không hề chịu lỗ
bởi vì số hàng này chỉ là số hàng thừa
theo kế hoạc sản xuất trên toàn thế giới mà họ đã thu đủ lợi nhuận.

21
Đối với các hãng liên doanh việc giảm gía bán sản phẩm đến mức thấp hơn giá
thành dẫn đến doanh nghiệp bị lỗ, liên doanh không được chia lời, thực chất chỉ
phía Việt Nam chịu thiệt còn phía nước ngoài vẫn có lãi thông qua việc cung cấp
nguyên liêụ, công nghệ thiết bị với giá cao.
Không thể đứng vững nổi trong cuộc cạnh tranh khôngbình đẳng và không cân sức
này, công ty Tribeco, “con chim đầu đàn” của ngành sản xuất nước ngọt Việt Nam
đang lâm vào tình trạng “hấp hối’. Năng suất năm 1996 giảm 30% đến giữa năm
1997 thì sản lượng đã giảm đến 60% so với những năm trước.

2.2. Thực trạng bán phá giá hàng xuất khẩu của Việt Nam
Trong quan hệ thương mại Quốc tế, cho đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam khi
xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài đã bị các doanh nghiệp nước ngoài khởi kiện 8

vụ bởi họ cho là các doanh nghiệp Việ
t Nam bán phá giá hàng hoá trên thị trường.
- Trường hợp đầu tiên bị kiện bán phá giá là mặt hàng gạo, năm 1994, nước đâm
đơn kiện là Colombia. Kết luận cuối cùng là gạo Việt Nam nhập khẩu vào
Colombia không bị đánh thuế chống bán phá giá mặc dù bán ở mức thấp 9.07%
song không gây tổn hại cho các nhà sản xuất lúa gạo ở nước sở tại.
Năm 1998 với mặt hàng mì chính xuất khẩu vào EU, Việt Nam đã bị EU quy vào
nứơc có mặ
t hàng bị bán phá giá. Kết cục thì mì chính bị đánh thuế chống bán phá
giá là 16.8%.
Cũng cùng năm này hàng giầy dép của Việt nam xuất khẩu vào EU cũng bị kiện
bán phá giá nhưng vì thị phần quá nhỏ nên không bị đánh thuế chống bán phá giá.
Năm 2000: bật lửa ga của Việt Nam xuất khẩu sang Balan đã bị kiện bán phá gía và
bị đánh thuế chống bán phá giá với mức 0.09euro/chiếc.
Năm 2001: mặt hàng tỏi của Việt Nam xu
ất khẩu sang Canada bị đưa vào vòng
kiện tụng bán phá giá và bị đánh thuế chống bán phá giá 1,48 CAD/kg.
Năm 2002, từ tháng 6 đến nay, doanh nghiệp VN lại phải đối mặt với ba vụ kiện
với các mặt hàng: đế giày, bật lửa ga vào Canada và cá da trơn vào Mỹ. Lý do mà

22
Hiệp hội cá nheo Hoa kỳ (CFA) đưa ra là hàng thuỷ sản VN bán giá rẻ, phá giá thị
trường. Nhưng trên thực tế, sau khi đi khảo sát vùng nuôi cá basa, cá tra ở đồng
bằng sông Cửu Long, tận mắt chứng kiến những bè cá lớn trên sông Tiền và sông
Hậu thuộc vào loại lý tưởng nhất thế giới, gặp gỡ những nhà nuôi trồng thuỷ sản
nơi đây cũng như khảo sát mặt bằng giá, phái đoàn của Bộ Nông nghi
ệp Hoa kỳ,
của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam đã thừa nhận giá nhân công lao động ở một số nước có
thu nhập bình quân đầu người khoảng 300USD/năm phải khác với
23.000USD/năm. Như vậy sức tiêu thụ cá Việt Nam không giảm trên thị trường

Hoa kỳ là từ cuộc chiến thương hiệu CAFISH đã làm cho cái tên cá tra, cá basa nổi
tiếng ở thị trường Mỹ. Nếu vụ kiện
được xem xét trên dữ kiện VN thì Mỹ sẽ đưa ra
mức thuế chống phá giá là 191%. Trường hợp VN được xem là nền kinh tế thị
trường thì mức để tính thuế là 144%.
Một điều đáng lưu ý là: nếu coi VN là một nước có cơ chế thị trường, một nước
nào đó có thể xem xét việc đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng VN nếu xét
thấy trị giá thông thường của hàng hoá cao hơn giá xuất kh
ẩu bán cho người nhập
khẩu hoặc hàng hoá được bán cho người nhập khẩu với giá thấp hơn tổng chi phí
của hàng hoá. Riêng với trường hợp nhập khẩu từ nước không có nền kinh tế thị
trường mở (kinh tế phi thị trường), nước xuất khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ
ba để so sánh khi xác định xem có đánh thuế chống bán phá giá hay không.
Đáng tiếc là cho đến nay, các nước khi tiến hành đ
iều tra nhằm áp dụng thuế chống
bán phá giá đối với hàng VN thường dùng biện pháp so sánh giá xuất khẩu của VN
với giá xuất khẩu của nước thứ ba. Ví dụ như Colombia khi điều tra đã lấy giá gạo
của Việt nam so sánh với giá gạo xuất khẩu của Thái Lan. Điều này là không công
bằng với VN.
Thực tế cho thấy, những mặt hàng xuất khẩu của VN bị kiện bán phá giá hầu như

những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu không cao (trừ cá basa), hoặc không phải
là mặt hàng xuất khẩu chiến lược nên các doanh nghiệp VN chưa thực sự quan tâm
đến vấn đề này.

23


2.3. Tác hại của việc bán phá giá hàng hoá đối với nền kinh tế nước ta
2.3.1. . Những thiệt hại về mặt kinh tế

Từ thực trạng đã phân tích ở trên ta thấy bán phá gía hàng nhập khẩu nước ngoài đã
gây ra những hậu quả lớn đối với ngành sản xuất nội địa. Hầu hết những ngành
công nghiệp đã từng có thế mạnh như: xe đạp, quạt điện, c
ơ khí, điện tử dân dụng,
vải, may mặc, rượu, bia, nay đều bị suy yếu nghiêm trọng do không cạnh tranh nổi
với các hàng ngoại bán phá giá.
Cụ thể những thiệt hại do bán phá giá gây ra đối với một số ngành công nghiệp nội
địa như:
Ngành dệt hiện nay phải nhường 80% thị phần cho hàng nước ngoài, chỉ còn giữ lại
được 20%, các xí nghiệp sản xuất đang ở trong tình trạng rất khó khăn.
S
ản xuất xe đạp thị phần bị mất đi 75%, sản lượng chỉ đạt 25% so với năng lực sản
xuất.
Ngành cơ khí, sản xuất máy nông nghiệp và phụ tùng thị phần giảm từ 60% xuống
còn 20%, sản xuất động cơ nổ thị phần giảm từ 50% xuống còn 10%
Sản xuất quạt điện thị phần giảm từ 80xuống 20%. Sản lượ
ng chỉ còn đạt 20% so
với năng lực sản xuất. Giá bị giảm đi 150.000đ/chiếc.
Ngành sản xuất rượu bị mất 90% thị phần cho hàng ngoại. Hai nhà máy sản xuất
rượu bia lớn nhất là rượu Bình Tây phải đóng cửa, còn rượu Hà Nội chỉ còn đạt
khoảng 10% công suất.
Như vậy việc bán phá giá hàng nhập khẩu đã gây ra hiện tượng trì trệ, hạn chế tốc
độ
phát triển của nền kinh tế, cùng với nó là sự đình trệ, bên bờ vực phá sản hoặc
giải thể của một số xí nghiệp không còn khả năng thanh toán.

2.3.2. Những thiệt hại về mặt xã hội

24
Sự đình trệ sản xuất của hàng loạt các xí nghiệp cùng với sự giải thể, bên bờ vực

phá sản của một số xí nghiệp đã gây ra tình trạng thất nghiệp gia tăng dẫn đến thu
nhập giảm, cùng với nó là các tệ nạn xã hội cũng gia tăng.
Người tiêu dùng phải sử dụng những loại hàng hoá kém phẩm chất, quá hạn, hàng
giả, thậm chí hàng độc hại từ n
ước ngoài nhập vào gây nguy hại cho sức khoẻ của
người tiêu dùng.
Bán phá giá, thu được lợi nhuận lớn, do đó mà tình trạng buôn lậu, trốn thuế, gian
lận thương mại ngày càng gia tăng. Một số cán bộ có chức có quyền do hám lơị đã
tiếp tay cho bọn tội phạm làm tha hoá đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp, gây ra
những thiệt hại lớn đối với xã hội. Tiêu biểu là vụ Tân Trường Sanh ở thành ph

Hồ Chí Minh năm 1997 đã tiếp tay cho bọn buôn lậu, với trị giá hàng lên tới 25 tỷ
đồng, bọn tội phạm đã sử dụng kho hàng của quân đội để cất giữ hàng hoá.
Đứng trước những thiệt hại này, một số câu hỏi cần thiết phải đằt ra là chúng ta
phải có phương án “chiến đấu” như thế nào với việc hàng ngoại bán phá giá hay chỉ
có một điệp khúc “đề ngh
ị Nhà nứơc cấm nhập hàng ngoại”?. Trong khi đó đến
năm 2006, thời hạn thực hiện giảm thuế theo Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung (CEPT) để thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) có hiệu lực
chẳng còn xa.







Chương 3:
Một số kiến nghị giải quyết tình trạng bán phá giá ở
Việt Nam


×