Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó đối với các nước đang phát triển” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.09 KB, 69 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Tổ chức thương mại thế giới WTO và
tác động của nó đối với các nước
đang phát triển
1
MỤC LỤC
Mục lục 1
Lời mở đầu 3
Chương 1: Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới WTO
1.1Sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO 5
1.1.1Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT- tổ chức tiền thân
của WTO … 5
1.1.2Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO 12
1.2 Mục tiêu,chức năng và các nguyên tắc của WTO ……. 18
Chương 2:Tác động của WTO đối với các nước đang phát triển
2.1 Những ảnh hưởng của WTO đến các nước đang phát triển
2.1.1 Những ảnh hưởng tích cực
2.1.2 Những ảnh hưởng tiêu cực
2.2 Những cơ hội và thách thức đặt ra với các nước đang phát
triển trong quá trình thực hiện một số Hiêp định của WTO.
2.2.1 Hiệp đinh về tự do hàng nông sản
2.2.2 Hiệp định hàng dệt may
2.2.3 Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ GATS
2.2.4 Hiệp định về đàu tư liên quan đến thương mại TRIMs
2.2.5 Hiệp định về quyền sở hữu trú tuệ liên quan đến thương
mại TRIPS
2.3 Các giải pháp nhằm đem lại lợi ích cao hơn cho các nước đang
phát triển
2.3.1 Nguyên nhân dẫn đến sự thiệt thòi của các nước đang phát
triển


2.3.2 Các giải pháp
2
Chương 3: Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, những cơ hội và thách thức.
3.1 Sự cần thiêt của việc gia nhập WTO
3.2 Những thuận lợi và thách thức đến tiến trình gia nhập WTO
của Việt Nam
3.3 Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của
Việt Nam
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT:
AoA : Agreement on Agricultural - Hiệp định Nông nghiệp
ATC : Agreement on Texitiles and Clothing of the WTO - Hiệp định hàng
dệt may.
GATS : General Agreement on Trade in Services - Hiệp định chung về
thương mại và dịch vụ .
GATT : General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại .
GDP : gross domestic product - Tổng thu nhập quốc dân .
IMF :International Monetery Fund - Quỹ tiền tệ Quốc tế.
ITO : International Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới.
MFA :Multifibre Arrangement - Hiệp định đa sợi .
MFN : most-favored nation - Đối xử tối huệ quốc .
NT : Nation Treatment -Đãi ngộ quốc gia .
TRIMS : trade - related investment measures - Các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương mại .
TRIPS : trade - related intellectual propecty rights - Khía cạnh về quyền
sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại .

UNCTAD :United Nations Conference on Trade and Development -
WTO :World Trade Organization - Tổ chức thương mại quốc tế .
4
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) kế
thừa Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu hoạt động từ
1/1/1995 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của hệ thông thương mại
đa biên, đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ dần các rào cản trong
thương mại quốc tế. Từ đó cho đến nay, WTO đã không ngừng mở rộng cả vế quy
mô lẫn phạm vi hoạt động của mình, đã thực sự khẳng định được vai trò quan
trọng của mình trong quá trình tự do hoá thương mại quốc tế.
Cùng với hệ thống các quy tắc, nguyên tắc, các Hiệp định của mình,WTO đã
tạo ra một hành lang pháp lý để từ đó các nước có thể đẩy nhanh tiến hành tiến
trình toàn cầu hoá, tự do thương mại, đồng thời tiếp nhận những cơ hội thuận lợi
để phát triển nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, hoạt động của WTO cùng với hệ
thông các nguyên tắc và hiệp định của mình không phải lúc nào cũng có lợi và
đảm bảo được sự công bằng cho các nước thành viên, đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển.
Để có thể tìm hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của WTO đến sự phát triển nền
kinh tế của các nước đang phát triển, em đã lựa chọn đề tài:
Tổ chức thương mại thế giới WTO và tác động của nó
đối với các nước đang phát triển.
làm khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu, kết luận, và phụ lục, nội dung của
khoá luận được chia làm ba chương:
Chương 1 : Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Chưong 2 : Tác động của WTO đến các nước đang phát triển.
Chương 3: Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, những cơ hội và thách
thức.
Với những kiến thức đã được trang bị trong 4 năm qua tại Khoa Kinh tế Đại
học Quốc Gia-Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Khu

Thị Tuyết Mai, em đã hoàn thành được bài khoá luận này. Tuy nhiên, do tính
phức tạp của vấn đề nghiên cứu và do trình độ có hạn của người viết khoá luận
5
này không tránh được nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô giáo để bài khoá luận này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành
cảm ơn.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
WTO
1.1 Sự ra đời của WTO.
1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT - Tổ chức tiền thân
của WTO.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (General agreements on
Tariff & Trade) là tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, GATT được ra đời trong trào lưu hình
thành hàng loạt các cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động kinh tế quốc tế nhằm
khôi phục lại sự phát triển kinh tế thương mại thế giới.
Ý tưởng ban đầu của các nước là thành lập một tổ chức thứ ba cùng với hai tổ
chức được biết đến là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quĩ tiền tệ Quốc tế
(IMF) nhằm giải quyết các vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ thống "Bretton
Woods", hình thành các nguyên tắc thế lệ cho thương mại quốc tế, điều tiết các
lĩnh vực về thương mại hàng hoá, công ăn việc làm, hạn chế và khắc phục tình
trạng hạn chế, ràng buộc thương mại phát triển. Vì vậy kế hoạch đầy đủ được trên
50 nước lúc đó dự định là thiết lập tổ chức thương mại thế giới (ITO) như là một
tổ chức chuyên ngành của Liên hợp quốc (UN). Dự thảo hiến chương ITO rất
tham vọng, dự thảo này đã tiến xa hơn các nguyên tắc về thương mại gồm các lĩnh
vực như lao động, hiệp định hàng hoá, thực tiễn hạn chế kinh doanh, đầu tư quốc
tế và dịch vụ.
Trước khi hiến chương ITO được phê chuẩn, 23 trong số 50 nước đã cùng
nhau tiến hành các cuộc đàm phám vế thuế quan xử lý các biện pháp bảo hộ mậu
dịch đang được áp dụng và duy trì trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30.

Các nước này mong muốn nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch, khôi phục
lại nền kinh tế bị phá huỷ nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ II.
6
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại thế giới đã được thoả thuận tại
Hội nghị Liên hợp Quốc tế về thương mại và việc làm tại Havana từ 11/1947 đến
24/3/1948, nhưng do một số nước không tán thành nên việc hình thành tổ chức
thương mại thế giới (ITO) đã không thực hiện được. Tuy nhiên kết quả của cuộc
đàm phán cũng đem lại sự thành công nhất định; đã có 45000 nhượng bộ về thuế
quan, ảnh hưởng đến khối lượng thương mại trị giá 10 tỉ $, tức là gần 1/5 tổng
thương mại trên thế giới. 23 nước này đều cùng nhất trí chấp nhận ủng hộ một số
quy định trong hiến chương của ITO. Các quy định này sẽ được thực hiện hết sức
nhanh chóng một cách tạm thời để có thể bảo vệ được thành quả của những cam
kết thuế quan đã được đàm phán. Kết hợp của những qui định thương mại và cam
kết thuế quan được biết đến dưới tên gọi Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại (GATT). Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 11/1/1948. 23 nước
tham gia trở thành những thành viên sáng lập GATT, hay còn gọi là "các bên tham
gia hiệp định". Mặc dù GATT chỉ mang tính tạm thời nhưng đây vẫn là công cụ
duy nhất mang tính đa biên điều tiết thương mại thế giới kể từ năm 1948 cho đến
khi WTO được thành lập vào năm 1995 và trong suốt thời gian đó các văn bản
pháp lý của GATT vẫn được duy trì gần giống năm 1948. Có thêm một số hiệp
định mới được đưa vào dưới dạng hiệp định "nhiều bên" và các nỗ lực cắt giảm
thế quan vẫn được tiếp tục. Tất cả những bước tiến lớn của thương mại quốc tế đã
diễn ra thông qua các cuộc đàm phán thương mại đa biên được biết đến dưới cái
tên "vòng đàm phán thương mại".
7
Bảng 1: Các vòng đàm phán của GATT
Năm Địa điểm Chủ đề đàm phán Số
nước
1947 Geneva Thuế quan 23
1949 Annecy Thuế quan 13

1951 Torquay Thuế quan 38
1956 Geneva Thuế quan 26
1960 - 1961 Geneva (vòng Dillon) Thuế quan 26
1964 - 1967 Geneva (vòng Kenedy) Thuế quan và các biện pháp
chống bán phá giá
62
1973 - 1979 Geneva ( Vòng Tokyo) Thuế quan và các biện pháp
phi thuế, các hiệp định khung.
102
1986 - 1994 Geneva (vòng Uruguay) Thuế quan và các biện pháp
Phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí
Tuệ, giải quyết tranh chấp,
Nông nghiệp,WTO
123
Trong các vòng đàm phán thương mại đầu tiên của GATT chủ yếu tập trung
vào việc cắt giảm thuế quan hơn nữa. Đến vòng Kenedy, nội dung của các vòng
đàm phán đã được mở rộng: đưa ra đàm phàn về hiệp định chống bán phá giá, số
nước tham gia là 62 nước. Tiếp theo là vòng đàm phán Tokyo, kéo dài từ năm
1973 đến năm 1979 với sự tham gia của 102 nước. Kết quả vòng đàm phán này
bao gồm 9 thị trường công nghiệp hàng đầu trên thế giới cắt giảm trung bình 1/3
mức thuế quan và do đó mức thuế trung bình đối với hàng nông sản giảm xuống ở
mức 47%. Việc cắt giảm thuế quan sẽ được thực hiện trong vòng 8 năm bao gồm
cả vấn đề điều hoà thuế - thuế càng cao thì cắt giảm càng lớn theo tỷ lệ.
Tuy nhiên, bên cạnh các vấn đề có kết quả như trên thì đối với các vấn đề khác
kết quả của vòng đàm phán Tokyo là không mấy hoàn hảo. Vòng đàm phán này đã
thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến thương mại hàng nông
sản, không đưa ra được hiệp định mới về các biện pháp tự vệ (biện pháp khẩn cấp
đối với hàng nhập khẩu). Mặc dù vậy, đã có nhiều hiệp định về hàng rào phi quan
thuế đã xuất hiện tại vòng đàm phán này (một vài hiệp định mới hoàn toàn, một
vài hiệp định tiếp tục bổ sung thêm từ các qui dịnh của GATT). Trong phần lớn

8
các trường hợp thì chỉ có một số nước rất nhỏ, chủ yếu là các nước công nghiệp
phát triển chấp nhận tham gia vào các hiêp định mới này vì họ là những người
được lợi ích nhiều nhất. Do đó, các hiệp định này chỉ được gọi là "hệ thống qui
tắc". Những qui tắc này không mang tính chất đa biên, nhưng đây là một bước
khởi đầu mới.
Các "hệ thống qui tắc" của vòng Tokyo:
+ Trợ cấp và các biện pháp đổi kháng - diễn giải điều 6.16 và 23 hiệp định
GATT.
+ Các hàng rào kỹ thuật đổi với thương mại - còn được gọi là: Hiệp định về
tiêu chuẩn.
+ Các thủ tục cấp phép nhập khẩu.
+ Mua sắm chính phủ.
+ Định giá hải quan - diễn giải điều 7.
+ Chống phá giá - diễn giải điều 6, thay cho qui định vòng Kenedy.
+ Thoả thuận về sữa quốc tế.
+ Thương mại máy bay dân dụng.
Một số hệ thống qui tắc sau vòng đàm phán Uuguay đã được điều chỉnh lại và
được cam kết mang tính chất đa biên buộc các nước thành viên phải cùng nhau
thực hiện. Chỉ có 4 hiệp định: mua sắm chính phủ, máy bay dân dụng cho đến hiện
nay vẫn mang tính nhiều bên. Vào năm 1997, hai hiệp định về thịt bò và sữa đã
được huỷ bỏ.
Cho đến hết vòng đàm phán Tokyo, GATT hoạt động mang tính tạm thời và
có phạm vi hoạt động hạn chế. Tuy nhiên, GATT đã đem lại những thành công rất
lớn trong việc đảm bảo tự do hoá phần lớn thương mại quốc tế. Chỉ tính đến việc
cắt giảm thuế quan đã khiến cho tốc độ tăng trưởng trung bình của thương mại thế
giới lên mức trung bình trong suốt thập niên 50-60.
Chính tốc độ tự do hoá mậu dịch đã giúp cho tốc độ tăng trưởng của thương
mại luôn luôn vượt qua tốc độ tăng trưởng kinh tế trong suốt thời kỳ GATT tồn
tại. Bên cạnh đó, ngày càng nhiều nước đệ đơn tham gia xin gia nhập đã cho thấy

hệ thống thương mại đa biên đã được công nhận như một công cụ để phục vụ công
9
cuộc phát triển kinh tế, thương mại của cả thế giới nói chung và của từng quốc gia
nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đã xuất hiện những vấn đề mới
nảy sinh. Vòng Tokyo đã cố gắng giải quyết một số vấn đề đó nhưng kết quả
mang lại còn khá hạn chế.
GATT đã phải đối mặt với những khó khăn rất lớn.
Thứ nhất, thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức thấp
cộng với tác động của suy thoái kinh tế trong suốt thập niên 70 và 80 đã dẫn đến
việc chính phủ các nước đã tiến hành điều chỉnh các hình thức bảo hộ đối với các
lĩnh vực đang phải cạnh tranh với nước ngoài nhằm có thể giữ được ổn định cho
nền kinh tế của họ.
Tỷ lệ thất nghiệp cao cộng với việc phải đóng cửa liên tục nhiều nhà máy đã
buộc chính phủ các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phải đi đến thoả thuận song phương
về chia sẻ thị trường với các nhà cạnh tranh và ngày càng tăng dần mức độ trợ cấp
nhằm duy trì được vị trí của mình, nhất là trong thương maị hàng nông sản. Những
thay đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị của việc giảm thuế quan
đã mang lại cho thương mại quốc tế, vì vậy hiệu quả và độ tin cậy của GATT bị
suy giảm.
Thứ hai, đến thập niên 80 thì Hiệp định chung không còn đáp ứng được những
yêu cầu thực tiễn của thương mại quốc tế như ở thập niên 40 nữa. Ít nhất thì hệ
thống thương mại thế giới đã trở nên phức tạp, đa dạng và quan trọng hơn rất
nhiều so với 40 năm trước. Phần lớn GATT chỉ điều tiết thương mại hàng hoá hữu
hình nhưng ngày nay nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh
mẽ, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, thương mại dịch vụ - lĩnh vực
không được hiệp định GATT điều chỉnh đã trở thành lợi ích cơ bản của ngày càng
nhiều nước. Từ ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển, tư vấn đã phát triển không
ngừng; đầu tư quốc tế cũng được mở rộng. Thương mại dịch vụ phát triển cũng
kéo theo sự gia tăng hơn nữa của thương mại hàng hoá.

Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá GATT cũng còn
nhiều bất cập, ví dụ đối với lĩnh vực nông nghiệp, những lỗ hổng của hệ thống
10
thương mại đa biên đã bị lợi dụng triệt để và mọi nỗ lực nhằm tự do hoá hàng
nông sản đã không đạt được thành công. Trong lĩnh vực hàng dệt may cũng vậy,
các nước đã cùng nhau miễn trừ các nguyên tắc của GATT và đưa ra một hiệp
định mới là Hiệp định đa sợi.
Thứ tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng gây ra
nhiều lo ngại. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia không mang tính chất bắt
buộc do vậy các nước có thể tuân theo và cũng có thể không. Bên cạnh đó, thương
mại quốc tế trong những năm 80 trở đi đòi hỏi phải có một tổ chức cố định, có nền
tảng pháp lý vững chắc để có thể đảm bảo thực thi các quy định, các nguyên tắc
chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống các quy chế giải quyết tranh chấp,
GATT cũng chưa có cơ chế chặt chẽ, chưa có thời gian biểu nhất định do vậy các
cuộc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ đi vào ách tắc.
Đây là những nhân tố khiến cho các thành viên của GATT tin rằng phải có
những nỗ lực mới nhằm củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Những
nỗ lực đó đã dẫn đến kết quả có vòng đàm phán Uruguay, tuyên bố Marrakesh và
việc tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời.
1.1.2 Vòng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO.
1.1.2.1 Vòng đàm phán Uruguay.
Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán lớn nhất cả về thời gian và các
lĩnh vực thương mại. Vòng này kéo dài 7 năm rưỡi, gần bằng 2 lần thời gian dự
định ban đầu. Đến cuối vòng đàm phán số nước tham dự đă lên tới 125 nước; đây
thực sự là vòng đàm phán thương mại lớn nhất từ trước tới nay và có lẽ đây cũng
là cuộc đàm phán thuộc loại lớn nhất trong lịch sử.
Một số thời điểm chủ chốt của vòng Uruguay:
Tháng 9/86 Punta del Este: bắt đầu.
Tháng 12/88 Montreal: rà soát giữa kỳ của các bộ trưởng.
Tháng 4/89 Geneva: Rà soát giữa kỳ hoàn thành.

Tháng 12/90 Brussels: bế mạc hội nghị bộ trưởng trong bế tắc.
Tháng 12/91 Genneva: Dự thảo đầu tiên của "Hiệp định cuối cùng" được hoàn
thành.
11
Tháng 11/92 Washington: Mỹ và EC đạt được mức bột phá mang tên "Blair
House" trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tháng 7/93 Tokyo: Nhóm Quad đạt được bước đột phá về mở cửa thị trường tại
hội nghị thượng đỉnh G7
Tháng 12/93 Geneva: Phần lớn các cuộc đàm phán kết thúc (một số cuộc thương
thảo về mở cửa thị trường được tiếp tục).
Tháng 4/94 Marrakesh: Các hiệp định được ký.
Tháng 1/95 Geneva: WTO được thành lập và các hiệp định bắt đầu có hiệu lực.
Mặc dù tại một số thời điểm, vòng đàm phán có vẻ như thất bại, nhưng cuối
cùng vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất từ trước tới nay đối với hệ thống
thương mại quốc tế.
Cơ sở cho chương trình nghị sự của vòng đàm phán Uruguay đã được khởi đầu
ngay từ tháng 11 năm 1982 tại Geneva, tuy nhiên phải mất đến 4 năm để thăm dò
làm rõ các vấn đề và xây dựng sự nhất trí thì các bộ trưởng mới đi đến thống nhất
trong việc đưa ra 1 vòng đàm phán mới. Cuộc đàm phán được bắt đầu tại Punta
del Este Uruguay (1986). Chương trình đàm phán bao gồm hầu hết các vấn đề
chính sách thương mại còn chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương
mại đa biên sang một số lĩnh vực mới. Trong đó, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở
hữu trí tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh vực có tính nhạy cảm
cao như hàng nông sản và hàng dệt may, mọi nguyên tắc về điều khoản ban đầu
của GATT đều được rà soát lại.
Hai năm sau đó, vào tháng 12 năm 1988, các Bộ trưởng gặp nhau tại Montreal,
Canada nhằm mục đích kiểm điểm lại những tiến triển tại thời điểm giữa vòng
đàm phán, bên cạnh đó tiếp tục đề ra mục tiêu cho các cuộc đàm phán tiếp theo.
Tuy nhiên, đàm phán đã đi đến bế tắc. Mọi vấn đề chỉ được giải quyết tại hội nghị
ở Geneva 4 năm sau đó. Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn, tại hội nghị Montreal

các vị bộ trưởng đều thống nhất thông qua hầu hết các kết quả ban đầu gồm : các
nhượng bộ mở cửa thị trường cho hàng nhiệt đới nhằm mục đích giúp đỡ các nước
đang phát triển; cơ chế giải quyết tranh chấp được đơn giản hóa và một cơ chế rà
soát chính sách thương mại. Từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên đưa ra được một
12
cơ chế thường xuyên, mang tính hệ thống và toàn diện để rà soát chính sách và
thực hành thương mại đối với các nước thành viên của GATT. Vòng đàm phán
này đã dự định kết thúc tại Brussels vào tháng 12 năm 1990, nhưng do bất đồng
quan điểm giữa các bên về cách thức tiến hành cải cách hệ thống thương mại hàng
nông sản nên đã phải kéo dài. Đây là thời kỳ vòng Uruguay đang đi vào giai đoạn
khó khăn nhất. Cho dù viễn cảnh chính trị đen tối, một khối lượng công việc kỹ
thuật đáng kể đã được thực hiện và dẫn đến kết quả là có một dự thảo hiệp định
pháp lý cuối cùng, dự thảo này được gọi là “Dự thảo luật cuối cùng”. Dự thảo này
được đệ trình tại Geneva vào năm 1991. Dự thảo đã hoàn tất được tất cả các mục
tiêu đề ra tại Punta del Este, ngoại trừ danh mục cam kết cắt giảm thuế quan và mở
cửa thị trường dịch vụ của các nước. Dự thảo này đã trở thành cơ sở để có được sự
thống nhất cuối cùng.
Trong vòng hai năm tiếp theo, các cuộc đàm phán đã đứng giữa hai ngả, một bên
là thất bại cận kề, một bên là thành công với tới được. Một vài thời hạn cuối cùng
được đưa ra và bị vượt quá. Tại vòng đàm phán đã nảy sinh những bất đồng quan
điểm bên cạnh vấn đề nông nghiệp ; đó là dịch vụ, mở cửa thị trường, các qui tắc
chống bán phá giá và đề xuất về việc thành lập một tổ chức thương mại mới. Tại
đây, bất đồng quan điểm của Mỹ và EU chính là nguyên nhân quan trọng nhất
khiến cho vòng đàm phán chưa thể kết thúc thành công được.
Tháng 11 năm 1992, Mỹ và EU đã thống nhất được phần lớn sự khác biệt
trong lĩnh vực nông nghiệp, cả hai đã đưa ra được một thỏa thuận mang tên “Thỏa
thuận Blair House”. Đến tháng 7 năm 1993, nhóm Quad ( Mỹ, EU, Nhật, Canada )
tuyên bố đã đạt được những thỏa thuận đáng kể trong đàm phán thuế quan và các
vấn đề liên quan đến mở cửa thị trường. Đến 15 tháng 12 năm 1993 thì tất cả mọi
vấn đề đều được giải quyết và đàm phán về mở cửa thị trường cho hàng hóa và

dịch vụ được kết thúc. Ngày 15/4/1994, thỏa thuận đã được bộ trưởng của phần
lớn 125 nước tham gia hội nghị ký kết tại Marrakesh, Marốc.
Cuối cùng, vào tháng 1/1995 hội nghị bộ trưởng tại Geneva đã thống nhất
thành lập một tổ chức thương mại mới, tổ chức thương mại thế giới - World Trade
13
Organization - viết tắt là WTO chính thức được thành lập ; các hiệp định được kí
kết tại vòng đàm phàn Uruguay bắt đầu có hiệu lực.
Nhìn chung tại một số thời điểm, vòng Uruguay có vẻ như đã thất bại, tuy
nhiên cuối cùng thì vòng Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất, là bước tiến quan
trọng nhất đối với hệ thống thương mại thế giới kể từ ngày GATT được thành lập
sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Mặc dù còn gặp phải nhiều vấn đề, vòng
Uruguay đã đem lại một số kết quả ngay từ những ngày đầu: Trong vòng 2 năm
các nước tham dự đã nhất trí cắt giảm thuế nhập khẩu với hàng nhiệt đới - những
sản phẩm chủ yếu do các nước đang phát triển xuất khẩu. Các nước cũng đã nhất
trí điều chỉnh các qui định về giải quyết tranh chấp, trong đó một số biện pháp đã
được thực hiện ngay lập tức. Các nước cũng yêu cầu cần có báo cáo thường xuyên
về hệ thống chính sách thương mại của các nước thành viên, đây là một bước tiến
hết sức quan trọng nhằm làm minh bạch hóa hệ thống chính sách của các nước
trên thế giới.
Với kết quả của vòng đàm phán Uruguay người ta ước tính thuế quan nói
chung sẽ giảm đi trung bình khoảng 40%. Dự kiến Mĩ sẽ giảm 35%, Canada 45%,
ấn Độ 55%, Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) 41%, Đài Loan giảm khoảng 30 - 50%
cho hàng công nghiệp và nông sản. Với mức thuế hàng nông sản nói riêng, trong
vòng 6 năm tới tính từ năm 1995 sẽ giảm 36% và mức trợ cấp gây phương hại cho
thương mại bình đẳng cũng sẽ giảm 20%. Do đó, người ta dự đoán rằng từ năm
1995 đến năm 2002, buôn bán quốc tế sẽ tăng thêm từ 213 - 272 tỷ đô la mỗi năm,
xuất khẩu thế giới mỗi năm tăng 5% nhập khẩu tăng 3,5%.
* Chương trình nghị sự : 15 chủ đề tại vòng đàm phán Uruguay
+ Thuế quan
+ Hàng rào phi thuế quan

+ Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên
+ Hàng dệt may
+ Nông nghiệp
+ Sản phẩm nhiệt đới
+ Các điều khoản của GATT
14
+ Các hệ thống qui định của vòng đàm phán Tokyo
+ Chống phá giá
+ Trợ cấp
+ Tài sản trí tuệ
+ Các biện pháp đầu tư
+ Giải quyết tranh chấp
+ Hệ thống GATT
+ Dịch vụ.
1.2.2. Sự khác nhau giữa WTO và GATT
WTO là một tổ chức thương mại được thành lập trên cơ sở kế thừa GATT.
GATT sau WTO đã được sửa đổi, bổ sung và là một trong những hiệp định của
WTO. Sau đây là những khác biệt chủ chốt :
+ GATT chỉ mang tính chất tạm thời. Hiệp định chung về thương mại và thuế
quan chưa bao giờ được quốc hội các nước phê chuẩn; nó không có qui định nào
về việc thành lập một tổ chức nhất định.
WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài. WTO là một tổ
chức quốc tế được thành lập bởi sự nhất trí của các quốc gia thành viên. WTO có
nền tảng pháp lý vững chức bởi vì các nước thành viên đã thông qua các hiệp định
và chính các hiệp định đã mô tả phương thức hoạt động của tổ chức. Các quốc gia
thành viên phải thực hiện đúng theo các qui định, nguyên tắc của WTO và các
hiệp định của nó.
+ GATT chỉ có "các bên tham gia ký kết", điều này cho thấy rõ ràng là GATT
chỉ mang tính chất một hiệp định. WTO có các nước thành viên và WTO là một tổ
chức quốc tế.

+ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT chỉ giải quyết các vấn
đề liên quan đến thương mại hàng hoá. Trong khi đó WTO là tổ chức kế thừa và
phát triển GATT, hiệp định GATT tồn tại cùng với các hiệp định khác của WTO
như hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS); hiệp định về quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). WTO đã đưa 3 hiệp định này vào
chung một tổ chức.
15
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính tự động và nhanh hơn so
với cơ chế của GATT. Đây là đóng góp lớn nhất của WTO đối với hệ thống
thương mại thế giới.
Trước đây việc giải quyết tranh chấp giữa các nước ký kết GATT được dựa
vào hai cơ chế chủ yếu :
+ Theo điều khoản tham vấn và điều khoản Bảo vệ các ưu đãi và lợi ích.
+ Cơ chế giải quyết tranh chấp của mỗi hiệp định đa phương.
Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn bị những hạn chế :
+ Các nghị quyết đạt được không giải quyết được những tranh chấp phát
sinh, thường dẫn đến việc các bên thương lượng hoà giải là chính.
+ Hệ thống giải quyết tranh chấp không mang tính tự động do vậy bên bị
kiện có thể dễ dàng gây khó khăn để ngăn cản một nhóm chuyên trách (Ban hội
thẩm) tiến hành hoạt động của mình.
+ Thời hạn tiến hành qui trình giải quyết tranh chấp quá dài.
+ Hệ thống không có cơ chế bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện.
Những khiếm khuyết trên làm giảm bớt những giá trị của tự do hoá thương
mại mà hệ thống thương maị đa phương đem lại các nước đã vấp phải nhiều khó
khăn trong việc giải quyết tranh chấp với các đối tác mạnh hơn mình.
Đối với WTO, tổ chức thương mại thế giới đã đưa ra được một cơ chế giải
quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại
quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế được những hành động
đơn phương, độc đoán của các cường quốc thương mại, cho phép nhanh chóng
tháo gỡ những ách tắc thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Các thủ tục của

WTO dựa trên qui định luật pháp và giúp cho hệ thống thương mại an toàn và dễ
dự báo hơn. Hệ thống này dựa trên các qui tắc được xác định rõ ràng với cả biểu
thời gian để hoàn thành một vụ tranh chấp. Một nhóm chuyên gia sẽ được thành
lập cho mỗi tranh chấp. Nhóm này sẽ đưa ra các qui định đầu tiên và các thành
viên WTO có thể ủng hộ hay phản đối, các kháng cáo dựa trên luật là có thể chấp
nhận được. Các thành viên WTO đều nhất trí rằng khi mà một nước thành viên
16
khác đang vi phạm qui tắc thương mại, họ sẽ sử dụng hệ thống thương mại đa biên
để giải quyết tranh chấp thay cho việc thực hiện các hành động đơn phương.
Trước đây GATT có thủ tục để giải quyết tranh chấp nhưng nó chưa đưa ra
được thời gian biểu cụ thể, các qui định dễ bị cản trở và nhiều vụ vẫn không giải
quyết được sau một thời gian dài. WTO đã đưa ra một quy trình giải quyết tranh
chấp với thời gian và thủ tục được xác định rõ ràng hơn. Khoảng thời gian để giải
quyết một vụ tranh chấp dài hơn trước kia. Thời hạn cuối cùng cho mỗi giai đoạn
giải quyết tranh chấp rất linh hoạt. Hiệp định nhấn mạnh việc giải quyết nhanh
chóng là cần thiết. Các thủ tục và thời gian biểu phải được tuân theo trong quá
trình giải quyết.
WTO cũng không cho phép các nước thất bại trong vụ tranh chấp ngăn cản
việc thi hành quyết nghị. Theo thủ tục của GATT các quyết định chỉ có thể được
thông qua theo các thoả hiệp. Điều đó có nghĩa là chỉ cần một sự phản đối nào đó
cũng có thể ngăn việc thi hành quyết nghị. Nhưng hiện nay các quyết nghị được
thông qua một cách tự động, trừ khi có một thoả hiệp để từ chối một quyết nghị.
Bất kỳ một nước nào muốn ngăn cản một quyết nghị cũng cần phải thuyết phục
các thành viên khác (kể cả đối thủ) đồng ý với quan điểm của mình.
Tóm lại, hệ thống giải quyết tranh chấp được coi là một trong những thành
tựu lớn nhất của WTO.
1.2 Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc hoạt động của WTO
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ quan quốc tế duy nhất giải quyết
các qui định về thương mại giữa các quốc gia với nhau. Nội dung chính của WTO
là các hiệp định được hầu hết các nước có nền thương mại cùng nhau tham gia

đàm phán và ký kết. Các văn bản này qui định các cơ sở pháp lý làm nền tảng cho
thương mại quốc tế. Các tài liệu đó về cơ bản mang tính ràng buộc các chính phủ
phải duy trì một chế độ thương mại trong một khuôn khổ đã được các bên thống
nhất. Mặc dù các thoả thuận đạt được là do các chính phủ đàm phán và ký kết
nhưng mục đích lại nhằm giúp các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ
trong nước; các nhà hoạt động xuất nhập khẩu có thể tiến hành các hoạt động kinh
doanh dễ dàng hơn.
17
1.2.1. Mục tiêu :
Mục tiêu chính của hệ thống thương mại thế giới là nhằm giúp thương mại
được lưu chuyển tự do ở mức tối đa, chừng nào nó còn nằm trong giới hạn không
gây ra các ảnh hưởng xấu không muốn có.
Ngoài ra, WTO còn có những mục tiêu sau:
+ Nâng cao mức sống của con người.
+ Bảo đảm tạo đầy đủ công ăn việc làm, tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu
cầu thực tế của người lao động.
+ Phát triển việc sử dụng hợp lý của người lao động.
+ Phát triển việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của thế giới .
+ Mở rộng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới.
1.2.2 Chức năng của WTO.
WTO có những chức năng sau đây:
Chức năng thứ nhất của WTO: Là tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên
mà nội dung của nó rất đa dạng đề cập lớn tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Thông
qua các cuộc đàm phán như vậy, việc tự do hoá mậu dịch của các nước trên thế
giới được phát triển, đồng thời những qui tắc quốc tế mới cũng được xây dựng và
sửa đổi theo yêu cầu của thời đại.
Chức năng thứ hai của WTO: Là một luật lệ quốc tế chung được các nước thành
viên cùng nhau ký kết. WTO đề ra những qui tắc quốc tế về thương mại và đảm
bảo các nước thành viên của WTO phải thực hiện các nguyên tắc đó. Đặc trưng
của các quyết định và qui tắc của WTO là nó có hiệu lực bắt buộc tất cả các thành

viên và có khả năng làm cho mọi thành viên có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện.
Bất cứ một nước thành viên nào một khi đã thừa nhận "hiệp định WTO" và những
hiệp định phụ khác của WTO thì nước đó cần phải điều chỉnh hay chuyển các quy
định pháp luật và các thủ tục hành chính của mình theo các quy định của WTO.
Chức năng thứ ba của WTO: Là khả năng giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp
mậu dịch quốc tế. WTO có chức năng như là một toà án giải quyết các tranh chấp
nảy sinh giữa các thành viên trong các lĩnh vực liên quan. Bất cứ một thành viên
nào của WTO khi thấy lợi ích của nước mình đang bị xâm hại trong hoạt động
18
kinh tế ở một thị trường nào đó vì có thành viên khác đang thực hiện chính sách
trái với các qui tắc của WTO thì có quyền khởi tố lên cơ quan giải quyết mâu
thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng các hoạt động kinh tế xâm
hại đến lợi ích của mình. Bất cứ thành viên nào cũng phải chấp nhận khi bị các
thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là một trong những nghĩa vụ của mọi
thành viên, không nước nào có thể tránh khỏi.
Chức năng thứ tư của WTO: Là phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế
thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc giảm nhẹ qui
chế. Phần lớn các nước trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập
trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đã và đang làm thủ tục
để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm phán cần thiết để gia nhập WTO, các
nước này có thể tìm hiểu được về hệ thống kinh tế thị trường và đồng thời xắp xếp
lại những chế độ và qui tắc để có thể quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
1.2.3 Các nguyên tắc của WTO.
Các hiệp định của WTO mang tính chất lâu dài và phức tạp đó là vì những văn bản
pháp lý bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn. Các hiệp định này giải quyết
các vấn đề liên quan đến: nông nghiệp, hàng dệt may, ngân hàng, bưu chính viễn
thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về vệ sinh dịch
tễ, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác nữa. Tuy nhiên có một số các nguyên tắc
hết sức cơ bản và đơn giản xuyên suốt tất cả các hiệp định. Các nguyên tắc đó
chính là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Sau đây là chi tiết các nguyên

tắc đó.
Nguyên tắc thứ nhất: Là thương mại không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này
được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ quốc và đối
xử quốc gia.
Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): đối xử mọi người bình đẳng như
nhau. Theo qui định của các hiệp định WTO, nguyên tắc này được áp dụng như
sau: Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau như là các
bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một nước khác được hưởng lợi
nhiều hơn thì đối xử "tốt nhất" đó phải được giành cho tất cả các nước thành viên
19
WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử tối huệ quốc. Nguyên tắc
MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140 thành viên khác tương
tự nhau.
Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều đầu tiên của
hiệp định chung về quan thuế và thương mại GATT về thương mại hàng hoá.
Nguyên tắc MFN cũng được đề cao trong hiệp định chung về dịch vụ GATS, hiệp
định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIMs tuy có khác nhau
một ít ở từng hiệp định.
Đối xử quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong nước như
nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau, ít
nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo nguyên
tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng nhập
khẩu thì phải cung cấp các điều kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước.
Vì thế các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản
xuất trong nước và không được phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ các
nước thành viên WTO khác.
Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch vụ nhãn hiệu thương mại, bản quyền
và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước ngoài. Đối xử quốc gia chỉ
áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã vào
đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi phạm nguyên

tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự.
Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua đàm
phán.WTO đảm bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá
trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương
mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác như cấm nhập khẩu, quota có tác
dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như tệ quan liêu, chính
sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán.
Kể từ khi GATT, sau đó là WTO được thành lập đã tiến hành 8 vòng đàm phán
để giảm thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực
hiện nguyên tắc tự do thương mại này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm
20
phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do
hoá thương mại.
Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng.
WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng
và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây dựng nhằm đảm
bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các đều khoản về chống phá giá,
trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định của WTO như Nông
nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đều nhằm mục
đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các
nước.
Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam kết
không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như vậy tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội trong tương lai.
Trong WTO, khi các nước thoả thuận mở cửa thị trường cho các hàng hoá và dịch
vụ nước ngoài, họ phải tiến hành ràng buộc các cam kết thuế. Đối với thương mại
hàng hoá, các ràng buộc này được thể hiện dưới hình thức thuế trần.
Một nước có thể thay đổi mức thuế ràng buộc, tuy nhiên điều này chỉ có thể thực
hiên được sau khi nước đó đã đàm phán với các nước bạn hàng và có nghĩa là phải
bồi thường cho khối lượng thương mại đã bị mất. Qua vòng đàm phán Uruguay,

một khối lượng thương mại lớn được hưởng cam kết về ràng buộc thuế. Tính riêng
trong lĩnh vực hàng nông sản 100% sản phẩm đã được ràng buộc thuế. Kết quả là
WTO đã tạo được sự đảm bảo cao hơn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
Nguyên tắc thứ năm: Các thoả thuận thương mại khu vực. WTO thừa nhận
các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương
mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc
theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm các thoả thuận này tạo thuận
lợi cho thương mại các nước liên quan song không làm tăng hàng rào cản trở
thương mại với các nước ngoài liên kết.
Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển.
WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các nước đang
21
phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một trong những nguyên tắc
cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt
và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của
họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO
dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi những linh
hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến
việc trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
22
CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA WTO ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN
2.1. Những ảnh hưởng của WTO đối với các nước đang phát triển.
2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực.
Tổ chức thương mại thế giới WTO là một tổ chức quốc tế, điều tiết hệ thống
thương mại đa biên, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới
nói chung và đến nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên nói riêng. Đối với các
nước đang phát triển, gia nhập WTO đã mang lại được rất nhiều lợi ích thiết thực
đối với công cuộc phát triển kinh tế của họ. Cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh
tế và đặc biệt là sự ra đời của WTO từ năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình

quân của các nước đang phát triển luôn đạt khoảng từ 4% đến 5%. Tỷ trọng kinh
tế của các nước này trong nền kinh tế toàn cầu đã tăng lên nhanh chóng, từ 13%
năm 1995 lên 29% năm 1998 (chỉ 3 năm, sau khi WTO ra đời). Tỷ trọng trong
thương mại thế giới của các nước đang phát triển cũng tăng lên từ 11% đến 32%
trong cùng thời kỳ. Đến năm 2010, theo dự báo, tỷ lệ này có thể lên tới 45%. Đặc
biệt, các nền kinh tế Đông á trong nhiều năm liền có tốc độ tăng trưởng nhanh đã
đạt đến tỷ lệ 7%. Các nước Mỹ La Tinh cũng đạt mức tăng trưởng bình quân cao;
các nước Châu Phi đã dần dần bước ra khỏi tình trạng bi đát về kinh tế. Năm 1999,
Châu Phi đã đạt mức tăng trưởng 3,6% là mức cao nhất từ hơn một thập kỷ qua.
Một số nước đang phát triển có tốc độ phát triển cao đã trở thành một trong những
động lực thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Đây là những con số tổng quan về những
thành công của hoạt động của tổ chức thương mại thế giới đối với các nước đang
phát triển, làm rõ thêm những ảnh hưởng tích cực của WTO đến các mặt của nền
kinh tế:
Thứ nhất, tất cả các hàng hoá và dịch vụ của các nước đang phát triển là thành
viên của WTO đều được đối xử theo các nguyên tắc, quy định của WTO; được đối
xử bình đẳng, không phân biệt đối với hàng hoá và dịch vụ của các nước phát
triển. Các loại hàng hoá và dịch vụ này khi được xuất khẩu sang bất kỳ một thị
trường của một nước thành viên nào kể cả Mỹ hay EU đều được hưởng mọi quyền
lợi mà chính phủ nước đó dành cho hàng hoá và dịch vụ nước mình.
23
Thứ hai, các rào cản thuế và phi thuế quan đều buộc phải cắt giảm, các biện
pháp hạn chế định lượng đều bị cấm sử dụng được áp dụng cho mọi thành viên
của WTO không loại trừ một thành viên nào của WTO. Do đó cơ hội xuất khẩu
của các nước đang phát triển gia tăng rõ rệt, thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch
vụ được mở rộng. Các nước đang phát triển đã và sẽ tập trung chuyên môn hoá các
mặt hàng mà mình có lợi thế, nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Thứ ba, sản xuất trong nước được chú trọng và thu hút được nhiều lao động,
tạo được nhiều công ăn việc làm hơn cho người dân, đặc biệt là trong những ngành
nghề sản xuất phục vụ xuất khẩu làm tăng nhanh sự tăng trưởng của nền kinh tế và

xã hội của nước đó.
Thứ tư, là thành viên của WTO, có nghĩa là các nước đã tạo dựng được một
môi trường kinh tế, chính trị ổn định, tạo được sự tín nhiệm của các nước trên thế
giới. Chính vì vậy, các nước đang phát triển có thể mở rộng được thị phần của
mình trên thị trường quốc tế, giành được nhiều ưu đãi thương mại tạo được cho
mình lợi thế kinh tế chính trị, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước
ngoài.
Thứ năm, các quan hệ kinh tế, văn hoá, chính trị với các nước thành viên được
mở rộng, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt trong quản kí kinh tế, xã hội, khoa
học kĩ thuật, tiếp cận được các thành tựu KHKT tiên tiến trên thế giới, cũng như
tiếp thu được các lối sống văn hoá của các nền văn minh khác nhau trên thế giới.
Thứ sáu, hoạt động của WTO khiến cho cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên
gay gắt, do đó các doanh nghiệp của các nước đang phát triển buộc phải tìm tòi,
khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời áp dụng công nghệ mới phát triển
bền vững hoạt động sản xuất kinh doanh, tích tụ được nhiều nguồn lực để có thể
nâng cao khả năng cạnh tranh tích cực trong nước thúc đẩy nền kinh tế phát triển
và có đủ năng lực canh tranh được với nước ngoài, thích ứng với xu hướng toàn
cầu hoá hiện nay. Cạnh tranh với bất cứ bản chất nào thì cũng khiến cho các nước
đang phát triển có tầm nhìn tốt hơn, tiếp cận được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của
các nước phát triển, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa cải tiến và chấp
24
nhận các tiêu chuẩn giám sát quốc tế tốt nhất, kiểm soát được rủi ro và thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển.
Thứ bẩy, vấn đề di chuyển lao động giữa các nước thành viên đã trở nên dễ
dàng hơn. Di chuyển lao động tự do đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho các
nước đang phát triển. Cái lợi của các nước đang phát triển thường xuyên xuất khẩu
lao động là nhận được một khoản thu nhập ngoại tệ không nhỏ từ tiền lương mà
nước sở tại trả cho người lao động. Theo báo cáo của Economic Aspects thì trong
những năm 1990 - 1995 khoản tiền đó lên đến 70 tỷ USD. Xuất khẩu lao động có
vị trí đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vừa thay đổi cán cân kinh tế vừa

tăng sức mua của xã hội thúc đẩy thương mại và sản xuất nội địa. Thêm vào đó,
các nước phát triển thường nhập khẩu lao động từ các nước đang phát triển và sau
thời gian làm việc cho các hãng, công ty kinh nghiệm, tay nghề và trình độ của
người lao động được nâng lên, có khả năng tiếp cận với nền công nghiệp tiên tiến,
khi trở về tổ quốc, họ sẽ trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển đất
nước.
2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, những lợi ích không nhỏ, nhận được từ
WTO, các nước đang phát triển phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực của
nó:
Thứ nhất, trong tổ chức thương mại thế giới, theo các nguyên tắc của nó, mọi
thành viên đều được đối xử như nhau, đều được hưởng mọi đãi ngộ MFN và NT,
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước đều được giảm dần chính
vì vậy, thị trường tiêu thụ được mở rộng, các nước đều tập trung sản xuất theo
định hướng xuất khẩu. Các nước đang phát triển cũng không là ngoại lệ. Các nước
này đều chú trọng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mà mình có lợi thế so sánh và
mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất là nguyên liệu thô và các mặt hàng công nghiệp có
giá trị thấp. Tuy nhiên trên thực tế, các nước đang phát triển cũng bị buộc phải sản
xuất ra các mặt hàng có giá trị và lợi nhuận thấp đó. Các nước phát triển sử dụng
đòn bẩy thuế quan buộc các nước đang phát triển phải tập trung khai thác và xuất
khẩu hai loại hàng hoá có mức thuế thấp như nguyên liệu thô và hàng hoá bán
25

×