Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH tư TƯỞNG của hồ CHÍ MINH về PHÁT TRIỂN KINH tế QUÁ TRÌNH ĐẢNG TA vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH TRONG xây DỰNG và PHÁT TRIỂN nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.49 KB, 31 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

BÀI TẬP CUỐI KỲ
TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ. QUÁ TRÌNH ĐẢNG TA VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM

NHÓM: 11

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021
BỘ CƠNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----


TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ. QUÁ TRÌNH ĐẢNG TA VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM

Nhóm:

11

Trưởng nhóm:


Lê Thanh Thuận (2005190648)

Thành viên:
1

Lê Thanh Thuận (2005190648)

2

Trần Võ Dương Tiển (2013181477)

3

Huỳnh Nhật Thanh (2005190587)

4

Nguyễn Ngọc Nhã Trân (2005191301)

5

Nguyễn Thị Ngọc Trâm (2005190694)

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Em/ chúng em xin cam đoan đề tài: phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát
triển kinh tế. Quá trình đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam do nhóm 11 nghiên cứu và

thực hiện.
Em/ chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả bài làm của đề tài phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển kinh
tế. Q trình đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là trung thực và không sao chép từ bất
kỳ bài tập của nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gớc, xuất xứ rõ ràng.

(Ký và ghi rõ họ tên)
Lê Thanh Thuận
Huỳnh Nhật Thanh
Nguyễn Thị Ngọc Trâm
Nguyễn Ngọc Nhã Trân
Trần Võ Dương Tiển


MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1.1.

Tính cấp thiết của những vấn đề nghiên cứu....................................................1

1.2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................1

1.3.

Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................1


1.4.

Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................1

1.5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...............................................................1

PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................3
2.1.

Phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế.............................3

2.1.1. Quan điểm xác định con người là động lực quan trọng nhất của xây dựng và
phát triển kinh tế..........................................................................................................3
2.1.2.

Quan điểm về mục tiêu và con đường phát triển kinh tế của nước ta..............4

2.1.3.

Quan điểm về cơ cấu của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ.............4

2.1.4. Quan điểm về các hình thức sở hữu, các thành phần và cơ cấu các thành phần
kinh tế của nền kinh tế.................................................................................................5
2.1.5. Quan điểm phát triển kinh tế phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị,
tiến bộ xã hội, văn hóa và đạo đức...............................................................................6
2.1.6. Quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đồng thời với mở rộng và
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế................................................................................7
2.2. Quá trình Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.....................9
2.3. Ý nghĩa và kết luận..............................................................................................13
2.4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế....................................15
PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................21
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................22
PHỤ LỤC........................................................................................................................ 23


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên nhóm em xin gửi lời cảm ơn vô cùng chân thành đến trường Đại học Cơng
Nghiệp Thực Phẩm TPHCM và khóa chính trị nói chung đã tạo điều kiện cho nhóm em
được tiếp cận mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh và nhóm em xin cảm ơn đến thầy Nguyễn
Hữu Hải Đăng đã hỗ trợ nhóm em trong śt q trình học và q trình làm bài ći kì
đã giúp nhóm em có nhiều kiến thức bổ ích trong śt thời gian học.
Qua mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp nhóm em trang bị những kiến thức về tư
tưởng của bác Hồ từ đó rút ra những bài học q báu khơng những áp dụng trong q
trình học cịn áp dụng trong tương lai. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế nên dù chúng
em đã cớ gắng trong q trình làm bài tập ći kỳ nên chắc chắn cịn nhiều thiếu sót,
mong q thầy cơ xem xét và góp ý kiến về đề tài để chúng em có thể hồn thiện hơn
trong tương lai.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Nhóm sinh viên thực hiện


PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của những vấn đề nghiên cứu
Sau những năm tháng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta giành lấy độc lập tự do dân
tộc. Từ đó bước vào thời kỳ phát triển kinh tế đưa nước ta từ những ngày tháng khó khăn
sau chiến tranh cho đến ngày nay. Đảng và nhân dân ta đã đạt nhiều thành tích to lớn nhờ

vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam. Vì vậy việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh
tế giúp sinh viên có thêm hành trang kiến thức trên chặng đường sắp tới.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế. Quá trình
đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các quan điểm, lý luận của Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế. Q trình
đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết về những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát
triển kinh tế. Và quá trình đảng ta vận dụng tư tưởng của Bác trong xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường.
1.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Thành công trong việc đánh bại quân xâm lược nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản đã bước qua giai đoạn phục hồi và phát triển nền kinh tế đã bị tác động
mạnh mẻ bởi chiến tranh. Nhưng dù vậy Đảng và nhân dân ta đã vận dụng tư tưởng Hồ


Chí Minh và đã đạt đạt nhiều thành tự to lớn. Từ nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh
đến nay nước ta đã phát triển vượt bậc trở thành nước có nền kinh tế phát bậc nhất trong
khu vực Đông Nam Á và tốc độ tăng trưởng hằng năm cao. Vì vậy việc tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế giúp sinh viên có thêm kiến thức quý giá báu tư tưởng
Hồ Chí Minh và quá trình đảng áp dụng tư tưởng của bác trong thời kỳ kinh tế thị trường
hiện nay,

Dưới đây là bài tập lớn học kỳ của nhóm em về đề tài trên. Vì đây là một đề tài
khá khó và rộng, có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh, quan điểm khác nhau mà

khuôn khổ bài tập học kỳ lại có hạn nên có thể bài làm của chúng em khơng tránh
khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy các cơ để
bài làm được hoàn thiện hơn.”


PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG
2.1. Phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thớng quan điểm lý luận, chính trị rộng rãi, sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh cơ bản là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo, trong đó tạo thành một chỉnh thể thớng nhất về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức và con người.
Tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển cùng với quá
trình hình thành tư tưởng của Người về con đường giải phóng dân tộc ta, hơn hết là xây
dựng miền tổ quốc Việt Nam, xã hội chủ nghĩa. Tư duy kinh tế của Hồ Chí Minh được thể
hiện trên các phương diện:
2.1.1. Quan điểm xác định con người là động lực quan trọng nhất của xây dựng và
phát triển kinh tế.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội
từ hẹp đến rộng. Hồ Chí Minh khơng bao giờ xem xét con người một cách trừu tượng, mà
luôn xuất phát từ những tình h́ng cụ thể, có thực của con người trong các mới quan hệ
xã hội với nhiều khía cạnh, bình diện khác nhau. Có thể nói: “Cách làm cơ bản nhất của
Hồ Chí Minh vẫn là gắn kết con người với cộng đồng dân tộc”.
Con người là sự thống nhất giữa các yếu tớ sinh học và xã hội. Vì vậy, Hồ Chí
Minh ln cho rằng cấu trúc nhân cách con người là một hệ thống bao gồm tổng hợp
nhiều yếu tớ, như: tâm hồn và thể xác, trí tuệ và thể lực,… “Trong lịng ai cũng có cái tớt
và cái xấu. Phải biết cách làm cho cái tốt trong mọi người mở ra. Đới với những kẻ có hủ
tục, với ngoại trừ những kẻ phản nghịch đất và dân, cũng phải giúp họ nở ra phần tốt của
con người, xua đuổi phần xấu, khơng được tiêu diệt”. Chính quan niệm này, đã cho Hồ
Chí Minh là cái nhìn tồn diện về con người, mà đối với Người là cơ sở để thấu hiểu,
nhân ái và quan tâm đến nhân dân.



Theo Người, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thớng nhất đất nước, xây dựng đời
sống mới và quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải bắt đầu bằng vốn con người và phát huy
nhân tố con người. Đồng thời, vai trò của quần chúng rất quan trọng, Người viết: “Nhân
dân rất thơng minh, rất nhiệt tình, rất anh hùng. Vì vậy chúng ta phải học hỏi người ta,
phải hỏi người ta, phải hiểu người ta...mọi người đồng ý, bạn có thể làm bất cứ điều gì.
Người khơng ủng hộ bạn thì bạn làm gì cũng khơng nên”.
2.1.2. Quan điểm về mục tiêu và con đường phát triển kinh tế của nước ta.
Sau khi giành lại độc lập, toàn bộ sức lực, ý chí của dân tộc ta chuyển từ mục tiêu
đấu tranh vì độc lập, tự do sang đấu tranh vì mục tiêu ấm no, hạnh phúc, vì như Hồ Chí
Minh đã nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự
do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân
được ăn no, mặc đủ”. Phát triển sản xuất và nâng cao mức sống của nhân dân. Theo
Người: “Chủ nghĩa xã hội là phải làm cho dân giàu, nước mạnh”, chính vì thế chúng ta
cần phát triển kinh tế nhanh chóng và thúc đẩy sản xuất “làm người nghèo đủ ăn. Những
người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm”.
Như vậy, ở Người, quan điểm về mục tiêu động lực với quan điểm về thống nhất,
vì mục tiêu kinh tế là phục vụ con người, do đó phải dựa vào con người, mới phát huy
được sức của, sức người và tinh thần hăng hái làm việc để phát triển sản xuất. Người nói:
“Đảng và Nhà nước ta dùng lực lượng của nhân dân để xây dựng cho nhân dân một đời
sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy con người là nguồn gốc,
mục tiêu và động lực của nền kinh tế.
2.1.3. Quan điểm về cơ cấu của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ đã quan tâm đến mối quan hệ giữa các
bộ phận cấu thành nền kinh tế q́c dân và nói về cơ cấu của hầu hết các cấp, ngành, lĩnh
vực kinh tế: từ cơ cấu kinh tế cả nước đến cơ cấu kinh tế từng ngành, cơ cấu vùng (đồng
bằng, nội địa, miền núi và ven biển), cơ cấu của kinh tế trung ương và kinh tế địa phương,



kinh tế quốc dân và kinh tế hợp tác với nước ngoài - nghĩa là quan hệ giữa xuất khẩu và
nhập khẩu, giữa độc lập và sử dụng tài nguyên, hợp tác với nước ngoài.
Sản phẩm dồi dào nếu chúng ta sản xuất rộng rãi bằng máy móc, nhưng ḿn có
nhiều máy móc Hồ Chủ tích nói: “Phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra
gang, thép, than, dầu... cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung,
là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”. Ngồi cơng nơng, Người cịn rất coi trọng
vai trị của sự ln chuyển hàng hóa và công thương đối với việc thúc đẩy sản xuất và
phát triển, coi đây là bộ phận cơ bản của cơ cấu giao thông vận tải.
Những nhận định về kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu các ngành kinh tế
quốc dân trong thời kỳ quá độ thể hiện quan điểm xuyên suốt: hãy chú trọng phát triển
nông nghiệp trong mối quan hệ tác động biện chứng đối với sự phát triển với công nghiệp
bằng cách mở rộng sản xuất và sự di chuyển của hàng hoá. Đặc biệt coi trọng sản xuất
lương thực, thực hiện hài hòa với sản xuất lương thực, hàng tiêu dùng và sản xuất hàng
xuất khẩu nhằm tận dụng lợi thế so sánh bên trong và các yếu tớ bên ngồi thúc đẩy nền
kinh tế đất nước phát triển. Cịn đới với kinh tế ở địa phương hãy tập trung vào thế mạnh
của từng nơi, từng vùng để phát triển theo nguyên tắc.
2.1.4. Quan điểm về các hình thức sở hữu, các thành phần và cơ cấu các thành phần
kinh tế của nền kinh tế.
Tư tưởng kinh tế Người về hình thái sở hữu và nền kinh tế nhiều thành phần được
thể hiện rõ nét hơn trong hai tác phẩm “Thường thức chính trị” (1953) và “Báo cáo về Dự
thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp Thứ 11 Q́c Hội Khóa I Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa” (1959). Người nhận thấy và do đó thể hiện các loại hình kinh tế và các hình
thức tài sản khác nhau, nhưng trong q trình vận động nó đã hợp nhất thành một quá
trình kinh tế - xã hội nhất là khi sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn là
một tất yếu khách quan và có vai trị nhất định.


Người cũng có cái nhìn khách quan về kinh tế tư bản tư nhân dân tộc vì thấy được
những đặc điểm riêng của giai cấp tư sản Việt Nam. Nói cách khác: “Giai cấp tư sản nước
ta chống đế quốc, thiên về yêu nước”, thì nếu chúng ta thuyết phục và lãnh đạo tớt, họ có

thể phát triển đi theo chủ nghĩa xã hội”.
Với chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh
đã huy động lực lượng của toàn dân tộc, trên cơ sở liên minh cơng nhân và trí thức, bước
vào kỷ nguyên mới của dân tộc - xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội thực hiện
khát vọng của dân tộc: độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho mọi người.
2.1.5. Quan điểm phát triển kinh tế phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị,
tiến bộ xã hội, văn hóa và đạo đức.
Kinh tế gắn với chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức con người là một trong những
quan điểm cơ bản nhất của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh. Chính trị định hướng nền kinh
tế, phát triển kinh tế sẽ củng cớ nó. Vì một cơ sở chính trị bền vững. Nhưng sự phát triển
kinh tế cũng có thể dẫn đến những xáo trộn làm mất cân đối giữa kinh tế và văn hóa, kinh
tế và tiến bộ đạo đức xã hội, kinh tế và tự nhiên. Hồ Chí Minh rất nhạy cảm với những
vấn đề này, nên khơng chỉ nói một mặt, một mặt nhấn mạnh trực tiếp phát triển kinh tế,
mà ln có sự kết hợp để tạo ra sự phát triển hài hòa giữa kinh tế với tiến bộ xã hội và đạo
đức con người.
Người đã nêu rõ, trong quá trình xây dựng đất nước, phải coi trọng bớn vấn đề là
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó “văn hóa thiết thực phục vụ con người, nâng
cao đời sống hạnh phúc và quần chúng lành mạnh…, nội dung văn hóa phải có ý nghĩa
giáo dục…văn hóa phải gắn với lao động và sản xuất”. Theo quan điểm của Người:
“Cũng như mọi hoạt động khác, văn hóa, nghệ thuật khơng được bỏ ngồi lề mà kinh
doanh, chính trị”. Văn hóa tạo động lực tinh thần mạnh mẽ. Người viết: “Nâng cao trình
độ văn hóa của nhân dân sẽ giúp chúng ta đẩy nhanh công cuộc khôi phục kinh tế và phát
triển dân chủ…cũng cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thớng nhất,
độc lập, dân chủ và thịnh vượng”.


Với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, sản xuất trở thành nhiệm vụ chính trị
quan trọng hàng đầu mà mọi người phải phục vụ trong sản xuất. Theo Người, đóng góp
vào sản xuất phải là thước đo đạo đức và ý chí cách mạng của mỗi cá nhân và là u cầu
“kiên quyết chớng chớng căn bệnh nói suông, tiêu khiển và lối làm việc không tăng gia

sản xuất”. Song song đó, Hồ Chủ tịch có quan điểm muốn nâng cao tinh thần tập thể,
chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng Người cho rằng: “Nếu lợi ích cá nhân đó khơng mâu
thuẫn với lợi ích của tập thể, khơng xấu xa,.. thì lợi ích chung của tập thể được bảo đảm
bằng lợi ích của cá nhân có điều kiện được đáp ứng”.
Từ đó chúng ta thấy rõ Người rất chú trọng đến vai trị của nhân tớ có ích trong nền
kinh tế, đồng thời luôn lấy tinh thần làm chủ tập thể để giải quyết nhanh chóng các xung
đột lợi ích, tạo ra sự kết hợp, cơng tư và cùng nhau có lợi.
2.1.6. Quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đồng thời với mở rộng và
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Việc mở rộng để cùng hợp tác quốc tế trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế theo sau là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Người cho rằng “sự tiến bộ chung phụ
thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa q́c tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc
tế được mở rộng và tăng cường”.
Tháng 12 năm 1946, trong lời kêu gọi Liên hợp quốc, Người cơng bớ chính sách
mở cửa của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trên mọi lĩnh vực nói chung và kinh
tế nói riêng. Theo đó: “nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà
tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; nước Việt Nam
sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá
cảnh quốc tế; nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế
dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc…”.
Tự lực-tự cường và xây dựng nên các tiềm lực trong nước cũng là điều kiện để mở
rộng và phát triển hợp tác với kinh tế quốc tế. Người cho rằng nền độc lập của Việt Nam


luôn phụ thuộc vào sức mạnh của Việt Nam và “phương châm của ta hiện nay là: Tự lực
cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm
vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng
của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đới chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại”.
Qua đây, chúng ta có thể thấy rằng trong cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế,
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tớ bên trong, bên ngồi và các yếu tớ bên trong và

bên ngồi đã được định vị và giải quyết đúng đắn. Yếu tố bên trong, nội lực là chủ yếu,
quyết định, so với yếu tố bên ngồi thì ngoại lực là phụ, nhưng rất cần thiết và quan trọng.
Chỉ trên cơ sở độc lập về kinh tế, đáp ứng được nhu cầu trong nước và giao lưu với thế
giới bên ngồi thì độc lập chính trị mới được củng cố vững chắc để thúc đẩy sản xuất,
phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Nếu sản xuất yếu kém, không
đáp ứng được nhu cầu trong nước và phải dựa vào kinh tế nước ngồi thì ći cùng sẽ dẫn
đến lệ thuộc về chính trị, không bảo vệ được độc lập, chủ quyền quốc gia.
Tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa quan điểm cơ bản, vô cùng
ngắn gọn và tinh tế về phương hướng chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là một hình mẫu của phương pháp luận tư tưởng kinh tế.
Lời giới thiệu rất đơn giản, thiết thực và dễ nhận được sự ủng hộ của đơng đảo người dân,
vì xuất phát từ nhu cầu cấp thiết, mong muốn của người dân và phù hợp với điều kiện
quốc gia của các nước lạc hậu trong chuyển đổi nơng nghiệp. chủ nghĩa xã hội.
Nước ta đang tích cực hội nhập q́c tế. Trong bới cảnh tồn cầu hóa và kinh tế tri
thức, cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang phát triển như vũ bão, cạnh tranh trên phạm
vi toàn cầu ngày càng gay gắt, tổng thể tư tưởng kinh tế, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
đó, kinh tế đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam soi đường đi đến thắng lợi ngày càng to
lớn của cách mạng nước ta.
2.2. Quá trình Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Hồ Chí Minh xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều trăn trở của Người là phải tìm ra hình thức, bước đi, biện
pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội biến nhận thức lý luận thành hoạt động thực
tiễn hàng ngày. Để xác định bước đi và tìm hướng giải quyết phù hợp với Việt Nam, Hồ
Chí Minh đề ra hai nguyên tắc cơ bản:
+ Một là: xây dựng CNXH là một hiện tượng phổ biến mang tính q́c tế, cần qn
triệt các ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ mới có thể tham
khảo, học tập kinh nghiệm của các nước láng giềng.

+ Hai là: xác định bước đi và biện pháp xây dựng CNXH chủ yếu xuất phát từ điều
kiện thực tế của nước ta, nhu cầu và khả năng của nhân dân.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định phương
châm thực hiện bước đi trong xây dựng CNXH, dần dần, thận trọng từng bước một, từ
thấp đến cao, không chủ quan nơn nóng và sự tuần tự của bước đi do điều kiện khách
quan quy định. Mặt khác, phải tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH nhưng
không phải làm bừa bãi, làm ẩu mà phải phù hợp với điều kiện thực tế. Trong các bước đi
lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vai trị của cơng nghiệp hóa XHCN.
Coi đó là “con đường phải đi của chúng ta”- là nhiệm vụ quan trọng của thời kì quá độ lên
CNXH.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều phương thức, biện pháp cụ thể
xây dựng CNXH trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm sau đây:
 Tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp giữa cải tạo và xây
dựng, lấy xây dựng làm chính.
 Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở 2
miền khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
 Xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp hợp lí, quyết tâm thực hiện
CNXH.


 Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, lâu dài để xây dựng CNXH là đem
của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Người cho rằng, phải huy động hết mọi nguồn lực từ dân để đem lại lợi ích cho
dân, phải biến sự nghiệp xây dựng CNXH thành sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh
đạo. Đảng có vai trò là tập hợp lực lượng, đề ra đường lới, chính sách để huy động và khai
thác triệt để các nguồn lực của dân vì lợi ích của tất cả quần chúng nhân dân.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đạt được những thành tựu
quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển XHCN ở nước ta. Cùng với
tổng kết thực tiễn, con đường đi lên CNXH ngày càng sát thực cụ thể hóa. Nhưng trong
q trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đới đầu

với hàng loạt thách thức khó khăn từ các điều kiện thực tế trong nước. Trong bới cảnh đó
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH chúng ta cần giải quyết vấn đề quan trọng
nhất:
 Giữ vững mục tiêu chủ nghĩa xã hội
 Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực
để tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
 Kết hợp sức mạnh toàn dân tộc với sức mạnh thời đại
 Xây dựng Đảng vững mạnh, làm sạch bộ máy nhà nước, đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm phát triển kinh tế.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đã chính thức đưa ra khái niệm về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là tiêu chuẩn tổng quát, là đường lối của Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc, đầy đủ
và hoàn thiện hơn.


Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Phát
triển lực lượng sản xuất, kết hợp xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế
để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Đặc trưng về chế độ sở hữu: Trước khi đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Sau khi tiến hành
đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước là kinh tế giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một yếu tố quan trọng
của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp thành nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng về phân phối: Dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường dưới sự

quản lý của Nhà nước, Nhà nước quyết định phân phối dần chuyển sang thị trường quyết
định phân phối, thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế đạt được,
mức đóng góp vớn và các nguồn lực khác vào sản xuất.
Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với sự quản lý,
điều hành của Nhà nước, bảo đảm các mục tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa là nền kinh tế chịu sự chi phối bởi
các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tớ bảo đảm tính định hướng xã hội
chủ nghĩa tuân - theo quy luật của thị trường; vừa là nền kinh tế đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa - có tổ chức, có
kế hoạch. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy được những ưu
thế, vừa loại bỏ đi những khuyết tật của hai nền kinh tế (kinh tế thị trường và kinh tế kế
hoạch), nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ, giúp phát triển kinh tế tiến tới công bằng xã hội, khắc phục những khó khăn, yếu
điểm của cơ chế thị trường, thì khơng chỉ có thị trường điều tiết hồn tồn mà bên cạnh đó
cịn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ,
phương tiện, cũng là một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại, hội nhập q́c
tế, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Cơ chế vận hành của kinh tế thị
trường là một cơ chế mở, được điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh
tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường tạo khả năng kết nới hình thành chuỗi giá trị cho
nền sản xuất tồn cầu.
Cần tập trung vào một sớ vấn đề để hồn thiện, đồng bộ và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

 Thống nhất và nâng cao nhận thức của người dân về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
 Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập
trung loại bỏ các điểm yếu, phát triển điểm mạnh.
 “Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn
trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo
nguyên tắc thị trường”.
Những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
khơng chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác -


Lênin về thời kỳ quá độ, mà còn được bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới; qua
đó, tiếp tục khẳng định và làm sáng rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin.
Qua hơn 30 năm đổi mới đã làm sáng tỏ lý luận, tư tưởng của Hồ Chí Minh về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là những tiêu chí đánh giá đúng về sự kiên
định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá
độ của Đảng ta, đồng thời là những cơ sở, điều kiện đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi tới thành công.
Cho đến nay theo hầu hết các cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều quan niệm về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, song đều có chung một cách hiểu là thời kỳ độc lập
tương đới, một xã hội mà ở đó các lĩnh vực cơ bản chưa hồn tồn là xã hội chủ nghĩa.
Nói cách khác, trong xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH, cái cũ và cái mới cùng tồn tại
đan xen, vừa chi phối ảnh hưởng lẫn nhau, vừa đấu tranh với nhau để từng bước cho ra
đời một xã hội mới, đúng nghĩa là xã hội chủ nghĩa. Theo như vậy là đã có sự bổ sung,
phát triển quan niệm về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề này cần
tiếp tục nghiên cứu, làm rõ và bổ sung trong tình hình hiện nay.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát huy sáng tạo những giá trị

của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn luôn vận động và biến đổi, đặt ra nhiều vấn đề mới,
những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị cốt lõi, cần
tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều kiện mới.
2.3. Ý nghĩa và kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế vơ cùng thiết thực gần gũi vì nó xuất
phát từ nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân, bao hàm những quan điểm cơ bản súc tích và
tinh tế về đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế và là một phương pháp luận mẫu
mực về tư duy kinh tế. Đó cũng là sự vận dụng sáng tạo đầy linh động vào hồn cảnh cụ
thể ở Việt Nam, chính vì vậy nó vừa có ý nghĩa về lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.


Ngày nay với những vị thế, tiềm lực và uy tín q́c tế như hiện tại là nhờ vào
những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới không ngừng nghỉ góp phần tạo ra những
thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn giúp đất nước có được trong śt quá trình phấn đấu đi
lên. Bắt đầu từ những đổi mới nhận thức, tư duy của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho những đổi mới trong chủ trương, đường lới
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước
của Đảng được thực hiện trong những năm qua và cũng là một trong những yếu tớ quan
trọng nhất đóng góp vào những thành tựu đạt được của đất nước.
Có thể nói, đất nước ta đang tích cực chủ động hội nhập q́c tế sâu rộng trải qua
bao nhiêu năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ngày càng đầy đủ hơn, hoàn thiện về hệ thớng pháp luật, chính sách, cơ chế phù hợp
với u cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng ngày hiện
đại và hộp nhập q́c tế, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nền kinh tế thị trường vớn dĩ gặp nhiều khó khăn trở ngại đơi lúc phức tạp
đang dần dần được hồn thiện theo hướng hiện đại, từng bước phát triển đồng bộ, hội
nhập gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhờ đường lới đổi mới kinh tế phù hợp, q
trình Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng

trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt đáng kể. Nhờ vậy, sau nhiều
năm đổi mới và phát triển đã giành được những thành tựu bất ngờ, đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình, nâng cao đời sớng
của nhân dân; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho
nền kinh tế nước nhà.


2.4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất sâu sắc về phương diện kinh tế của con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta, từ tính tất yếu khách quan cho đến đặc điểm, nội
dung và mục tiêu kinh tế của nó.
Ngay từ trong “Chính cương vắn tắt” khi thành lập Đảng ta, Nguyễn ái Q́c đã
chỉ rõ làm cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện cách mạng ruộng đất, rồi tiến lên xã
hội cộng sản. Và, khi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản - trở thành yêu cầu hiện thực, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Ba mươi
năm hoạt động của Đảng” đăng trên Tạp chí “Những vấn đề hịa bình và chủ nghĩa xã
hội” đã nêu một luận điểm tổng quát là : “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ...Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, bằng luận điểm trên
đây, tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật rõ ràng, sáng
sủa
Một là, sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thì phải đưa đất
nước ta, xã hội ta, nhân dân ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, mà điều này nhìn sâu xa thì đã được lịch sử quyết định ngay từ khi
Đảng ta được thành lập, Đảng ta bước lên vũ đài chính trị đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Chính Nguyễn ái Q́c cũng đã từng nói “ḿn giải phóng dân tộc
khơng có đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”.
Hai là, đặc điểm to nhất của thời kỳ quá độ của Việt Nam ta là xuất phát từ nước

nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Nói như cách nói của Lênin, thì ở đây vừa tránh được cái đau khổ
nhưng lại vừa có đau khổ. Điều quan trọng, xét về bước tiến của lịch sử là nước ta không


cần phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tạo ra phòng chờ cho chủ nghĩa xã hội, mà
chúng ta đi ngay vào con đường xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong điều kiện ấy thì tiến hành cơng nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ quan trọng nhất quyết định thắng lợi của con
đường xã hội chủ nghĩa nước ta.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong mấy chục năm nay, dù sóng gió phức
tạp, Đảng ta vẫn luôn luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đã hoạch định
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và giương cao
Cương lĩnh ấy trong hành động, đã xác định cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ
trung tâm suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta nhận thức sâu sắc sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội là toàn diện, từ lực lượng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất,
từ hạ tầng cơ sở cho đến kiến trúc thượng tầng, trong đó cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là một cơng việc có ý nghĩa quyết định. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra cơ
cấu kinh tế mới, phân cơng lao động mới, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong khi
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra năng suất lao động cao, cải thiện căn bản đời
sớng vật chất và văn hóa tồn xã hội, tạo nên cái cốt vật chất của quan hệ sản xuất mới,
củng cố và nâng cao năng lực quốc phịng, cho nên sự thành cơng của nó sẽ quyết định
căn bản kết thúc thời kỳ quá độ.
Trong quá trình cơng nghiệp hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "công nghiệp và
nông nghiệp là như hai chân của nền kinh tế nước nhà. Chân phải thật vững thật khỏe, thì
kinh tế mới tiến bộ thuận lợi và nhanh chóng". Tương tự như vậy, nói nơng nghiệp là bao
gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp...Quan hệ công - nơng nghiệp theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là cơ sở kinh tế của quan hệ thành thị - nông thôn, của liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Từ đặc điểm to nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Hồ Chủ tịch chỉ

ra thì đương nhiên đưa đến đặc điểm nhiều thành phần kinh tế trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11


Q́c hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, ngày 18 tháng 12 năm 1959”, Hồ Chủ
tịch nói: “Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như
sau:
+ Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản".
Hồ Chủ tịch nói tiếp:
“Kinh tế q́c doanh là hình thức sở hữu của tồn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế
q́c dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên. Kinh tế hợp tác xã là hình
thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn
và giúp đỡ cho nó phát triển. Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác,
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ
cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự
nguyện. Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi
cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước”.
Sẽ là vơ cùng thiếu sót nếu khơng đề cập đến tư tưởng kinh tế rất đặc trưng Hồ Chí
Minh, đó là cần kiệm xây dựng nước nhà, tăng gia sản xuất và tiết kiệm, sản xuất đi đơi
với tiết kiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Ḿn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải ra sức tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm... tăng gia sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm”, “sản xuất mà
không tiết kiệm thì như gió vào nhà trớng”. Chúng ta cịn phải dày công nghiên cứu để
thấu hiểu và tổ chức cuộc sớng theo một chân lý bình thường nhưng vĩ đại mà Hồ Chủ
tịch đã dạy “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng



lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh
phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Thật vậy, sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội.
Phải sản xuất mới có cái mà tiêu dùng, dù tiêu dùng mang tính chất tinh thần, văn hóa thì
vẫn phải trải qua sản xuất vật chất, vẫn nhờ vào sản xuất vật chất. Tiêu dùng kích thích
sản xuất phát triển, sản xuất phát triển lại mở rộng tiêu dùng, nâng cao tiêu dùng, trong đó
sản xuất ln ln đóng vai trị mẫu số. Người ta không thể đem tiêu dùng hết, mà một
phần của cải phải dành để tái sản xuất mở rộng không ngừng, làm cơ sở để tiêu dùng lâu
dài, để phát triển tiêu dùng. Không thể sống theo kiểu "xã hội tiêu dùng" không quan tâm
đến sản xuất, không đếm xỉa đến sản xuất. Mọi sản phẩm đều là sự kết tinh của lao động,
cả lao động chân tay và lao động trí óc, trong đó lao động trí óc ngày càng tăng lên, cho
nên cả sản xuất và tiêu dùng đều phải với thái độ tôn trọng lao động. Có thể nói, đi đến
đâu, nói với đới tượng nào và trong bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào, Bác Hồ cũng dạy
phải lao động cho tốt, phải sản xuất, phải tiết kiệm. Khi Hồ Chủ tịch nói tăng gia sản xuất
và tiết kiệm, nói sản xuất đi đơi với tiết kiệm, là nói những vấn đề thuộc vào loại quy luật
số một của kinh tế, của sự tồn tại và phát triển xã hội như C. Mác từng chỉ ra, nó càng
mang tính khách quan và càng vơ cùng cần thiết trong hồn cảnh từ kinh tế kém phát triển
đang phấn đấu đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta. Hơn nữa, tiết kiệm không chỉ có ý
nghĩa thực hiện một quy luật kinh tế, mà cịn đáp ứng những chi phí q́c phịng tương
xứng trong bới cảnh mới.
Tình trạng lãng phí hiện nay cịn nặng nề, đó là sự tiêu xài của một bộ phận dân cư
vượt q trình độ kinh tế, đời sớng xã hội, trình độ văn minh hiện thời của nước ta, là
những việc chạy theo “phơ trương hình thức” gây tớn kém thì giờ, sức lực và tiền bạc của
nhà nước và nhân dân, là những cơng trình xây dựng, những cơng trình nghiên cứu kinh
phí cao nhưng kém hiệu quả, là những tiền bạc và tài sản bị thất thốt do thiếu trách
nhiệm, vơ đạo đức, là những khoản cơng quỹ sử dụng vào việc riêng trái với chính sách,
pháp luật...Ngày nay nhân dân ta đang rất quan tâm, lo lắng đến tình hình tham nhũng và
cuộc đấu tranh chớng tham nhũng. Hồ Chủ tịch đã chỉ ra “vì những người và những cơ



quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà khơng thấy śt, có tai mà khơng
nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ vững, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là
những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ơ, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp
ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ơ, lãng phí”. Hồ Chủ tịch nói “Nhiệm vụ của quần
chúng là phải hăng hái tham gia phong trào chớng tham ơ, lãng phí, quan liêu... Tham ô,
lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lịng. Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chớng
giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm trịn nhiệm vụ của
mình. Vì vậy, chiến sĩ và nhân dân phải hăng hái tham gia phong trào ấy”. Ở thời điểm
hiện nay chúng ta càng có thực tiễn đầy đủ để thấm sâu lời dạy của Bác Hồ: “Nếu không
kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ơ, thì nó sẽ cản trở, phá hoại
ta tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Mục tiêu “vì con người, vì nhân dân” bao trùm tồn bộ tư tưởng cách mạng nói
chung và tư tưởng kinh tế nói riêng của Hồ Chủ tịch. Tư tưởng đó thật bình dị nhưng
cũng thật vĩ đại và ngày nay đã trở thành mục tiêu của các chiến lược kinh tế - xã hội
nước ta. Những câu nói nổi tiếng của Bác Hồ còn âm vang mãi với Đảng ta, với non sông
đất nước ta: “Chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do
độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân ăn no,
mặc đủ”. Chỉ vài tháng sau Cách mạng tháng Tám, tại cuộc họp đầu tiên ngày 10 tháng 1
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
Về sau, khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ rằng
“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”, và rằng “chủ nghĩa xã hội trước


hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn
việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”.
Quan tâm mục tiêu kinh tế “vì con người, vì nhân dân” là thể hiện sự quan tâm,

chăm lo đến yếu tố động nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất. Trong thư gửi các
UBND và các Bộ tháng 10 năm 1945, Bác Hồ đã cho chúng ta một phương châm hành
động cách mạng nói chung và hành động kinh tế nói riêng: “Việc gì có lợi cho dân ta phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc Bác Hồ đã căn dặn: “Nhân dân lao động ta ở miền
xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân
áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng,
dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất
trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tớt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Đời đời biết ơn Hồ Chủ tịch, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết giữ trọn lời
thề khi vĩnh biệt Người: “Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và
nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”.


×