Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Lịch sử hình thành cộng đồng người hoa ở đông nam á cho đến nửa đầu thế kỷ xx khóa luận tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.17 MB, 89 trang )

Te GY

A

RE Ry

~

>0đf..-.4
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC MỞ BÁN CƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA ĐƠNG NAM Á HỌC
œ8

LƯU NGUYÊN THỊ LIÊN PHƯƠNG

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở ĐÔNG NAMÁ
(CHO ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX)

_ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH VĂN HĨA ĐƠNG NAM A

(KHOA 1994 - 1998)
10348 E1 t6 trổ 1P,

THU WIEN

HUGNG DAN KHOA HOC


TS. HUYNH VAN TONG

TP. HỒ CHÍ MINH
1998 =


_ MỤC LỤC.
ROMO

_ Trang

PHAN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. BUỔI ĐẦU DI DÂN CỦA NGƯỜI HOA ĐẾN

4

CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

L1. Quá trình hình thành ban đầu của các cộng đồng người Hoa

12. Các hình thức tổ chức của đi dân người Hoa

4

Xx

6

a
8


13. Tình hình khái quát các khu đi trú của người Hoa `

trong những thế kỷ XV - XVIM '

CHƯƠNG IH. SỰ HÌNH THÀNH CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA._.
TRONG THỜI KỲ TƯ BẢN THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY
XÂM LĂNG ĐÔNG NAM Á ( Thế kỷ XVI-XIX )

17
19
21

I. 1. Mối quan hệ kinh tế giữa người Hoa và tư bản thực dân châu Âu
I. 2. Những va chạm ban đầu giữa người Hoa và thực dân Châu Âu

I. 3. Chế độ trưng thuế và người Hoa

|

X

II. 4. Tình hình của cộng đồng người Hoa trong nửa sau thế kỷ XX

17

CHUONG I. QUA TRINH PHAT TRIEN XÃ HỘI - KINH TE CUA
+

`


,

a

~

^

an’

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG BỔI CẢNH
KHUNG HOANG

CUA CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA

Il. !. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Đông Dương
II. 2. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Philippines

II. 3. Sinh hoạt kinh tế của người Noa ở Indonesia
II. 4. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Miến Điện

|

II 5. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở:Malaya
II. 6. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Xiêm

>

28


28
29
30
30
31

31


. Ở CÁC NƯỚC
CHƯƠNG IV. QUICHE PHAP LY CUA NGƯỜI HOA KỶ XX
ĐƠNG NAM Á TRONG NỬA ĐẦU THẾ
TV.I.
TV.2.
IV.3.
TV.4.
IV.5.

Tình
Tình
Tinh
Tình
Tình

trạng
trạng
trang
trạng
trạng


CHƯƠNG v.

pháp
pháp
pháp
pháp
pháp







của
của
của
của
của

người
người
người
người
người

Hoa
Hoa
Hoa

Hoa
Hoa







Indonesia
Malaya
Xiêm
Đơng Dương
Philippines

CAC NHOM SAC TOC NGƯỜI HOA
DẪN
VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC
CỦA NHÂN DÂN ĐÔNG NAM Á

V. 1. Thế kỷ XVI - nửa sau thế kỷ XIX

V.2. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
tranh thế giới (1918-1939)
V.3. Trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến
(1942- 1945)
V.4. Trong những năm chiếm đóng của Nhật

33
33

34
34
35
35

37

37
37
45
57

KẾT LUẬN
PHỤ LỤC



_ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Lud van tét ughltfe —

:

Trang

Ì

PHAN MO DAU
CRED GD


1. Lý do chon dé tai :
Trong nền kinh tế các nước Đông Nam A (mà hầu hết hiện nay đều là thành

viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN -), người địa phương gốc
Hoa đóng một vai trị cực kỳ quan trọng, thậm chí ở một vài nước (Indonesia,

Singapore) cịn mang tính quyết định. Khơng có họ, nền kinh tế các nước trong
vùng chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn.

Trong vịng trên dưới hai thập
kinh tếở các nước Đơng Nam Á lại
quan hệ rất khắngkhít với các: lãnh
triển thịnh đạt về kinh tế, như Trung

niên trở lại đây, vị thế của họ trong sinh hoạt
có chiều hướng tăng lên, do ho có những mối
thổ Trung Hoa, vốn đang trải qua thời kỳ phát
Quốc, Đài Loan và Hongkong...

Tuy nhiên, quan hệ giữa người gốc Hoa và người bản địa không phải lúc nào
cũng êm đẹp. Ở những nước Đơng Nam Á nào có tỷ lệ người Hoa cao (như Thái
Lan, Malaysia, Indonesia và Việt Nam), người bản địa thường nhìn sự giàu có, mà

sinh hoạt kinh tế đã mang lại cho người gốc Hoa, bằng con mắt đố ky và thèm
_ muốn. Mỗi khi xẩy ra những biến động chính trị, người gốc Hoa dễ trở thành vật
bung xung cho những tình cẩm bực doc bị đồn nén lâu nay trong nhân dân. Biến cố
tháng 5-1998 vừa qua ở Indonesia là một ví dụ điển hình.
Tai sao di đã có mặt ở các nước Đơng Nam Á, phổ biến từ trên dưới 100
năm nay, cá biệt có trường hợp từ vài ba thế kỷ, giữa các cộng đồng sắc tộc người

Hoa và người bản địa vẫn tổn tại một hố ngăn cách khơng thể vượt qua được; vì sao

người Hoa dễ trở thành đối tượng của những cơn biến động chính trị và kinh tế ở

các nước trong vùng ?

\

Đó là những câu hỏi khiến tơi chú tâm đến vấn để người Hoa ở các nước
Đông Nam A.
Được

sự động viên và giúp đỡ nhiệt tình của thầy Huỳnh

Văn Tịng, tơi đã

chọn để tài “Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á cho đến nửa
đầu thế kỷ XX” và ly vọng tìm được câu trả lời cho những câu hỏi nêu trên.


é


“đâu viw tit ughtéfe





Trang


2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đềa :
Lịch sử hình thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa chỉ được trình bày rải

rác và vắn tắt trong các giáo trình viết về lịch sử Đơng

Nam A, của các tác giả như:

Huỳnh Văn Tòng, Lương Ninh, Đinh Kim Phúc... Bên cạnh đó, cịn có một số
cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác như : Hoàng Kim, có viết một bài nêu.
lên một số vấn đề đặt ra trong khi nghiên cứu cộng đồng người Hoa ở Đông Nam
Á" Đào Hùng trong “Người Trung Hoa lưu lạc” (NXB Đà Nẵng, 1983) có để cập
đến nhiều mặt sinh hoạt khác nhau trong cộng đồng người Hoa ở khắp nơi trên thế ˆ
giới. Cơng trình viết về người Hoa xuất bản gần đây nhất là của Trần Khanh *
Riêng vấn để người Hoa ở Việt Nam đã được trình bày khá chỉ tiết trong một
số cơng trình của các tác giả như Đào Trinh Nhất, Fujiwara Ruchiro, Tan Việt
Diêu!. Nhưng người nghiên cứu kỹ nhất vấn để này có lẽ là Chau Thi Hai|.
Nhưng cho đến nay có thể nói chưa có một cơng trình nào nghiên cứu riêng
về lịch sử hình thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á được xuất
bản bằng tiếng Việt.

Bằng bản luận văn tốt nghiệp này, tôi hy vọng sẽ bổ khuyết phần nào cho
chỗ trống nêu trên.

3. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu :
^

Đây là để tài được viết theo phương pháp biên niên: các sự kiện được trình

bày theo trình tự thời gian. tuy nhiên, như phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử
đã chỉ rõ không một sự kiện lịch sử nào hiện ra một cách đơn độc mà ln gắn với
bơí cảnh thời đại và địa điểm vây quanh nó. Do đó, trong khi nghiên cứu, tơi có
trình bày thêm hồn cảnh lịch sử của những sự kiện lớn.

Do dé tai nay để cập đến những diễn biến diễn ra cách đây đã lâu và bao

quát một khoảng thời gian khá dài, tôi đã tập trung thu thập tư liệu từ các cơng trình
nghiên cứu của những tác giả trong và ngoài nước. Trong lúc tìm đọc, tơi ghi lại
những sự kiện quan trọng và tiêu biểu nhất, đáp ứng day đủ nhất yêu cầu của để
tài. Sau đó, tơi sắp xếp chúng theo trình tự thời gian và theo địa lý. Tơi cịn cố gắng
tìm ra mối dây liên kết các sự kiện lại với nhau, vì như đã để cập ở trên, các sự

kiện diễn ra trong cùng một bơí cảnh thời đại và trong một khung cảnh địa lý giống

nhau, tất phải có những mối quan hệ gắn bó với nhau. Phương pháp nghiên cứu này
đã giúp tôi rất nhiều khi biên soạn luận văn, đù đây không phải là công việc dễ
dàng đối với một sinh viên có trình độ chun r mơn cịn hạn chế như tơi.

' Xem thêm trong phần Tài liệu tham khảo
ˆ ” Trần Khánh. Vai trò của người Hỏa trong nền kinh tế các.nước Dong Nam A, NXB
ba Nang. 1995


Lehn udu tét ughtop

Trang

3


4, Giới hạn để tài :
Do để tài bao quát một khoảng thời gian dài và một khoảng không gian rộng,

luận văn không thể giới thiệu mọi diễn biến liên quan, mà chỉ có thể tập trung vào

một số sự kiện chính. Hơn nữa, đó chủ yếu là những sự kiện chính tri. Dé tai dừng
;lại ở mốc thời gian sau cuộc chiến tranh Thái Bình Dương (1942-1945), vì những

sự kiện diễn ra sau đó rất phức tạp và khơng được trình bày đầy đủ trong các ấn
phẩm đã được xuất bản. Do đó, tơi tự xét thấy việc nghiên cứu chúng vìvượt quá
năng của mình.

khả

Luận văn này gồm năm chương :
- Chương I:

Buổi đầu di dân của người Hoa đến các nước Đông Nam A

(Cho đến thế kỷ XVI, khi người Âu xuất hiện ở Đông Nam A)

- Chương II: Sự hình thành các cộng đồng người Hoa trong thời kỉ tư bản
thực dân phương Tây xâm lăng Đông Nam Á.
-

(Thé ky XVI- Thé ky XIX)

- Chương I:

Quá trình phát triển xã hội - kinh tế của cộng đồng người Hoa


trong bối cảnh khủng hoảng của chế độ thuộc địa.
- Chương IV : Qui chế pháp lí của người Hoa ở các nước Đơng Nam Á

_

nửa đầu thế kỷ XIX

trong

- Chương V : Các nhóm sắc tộc người Hoa va cuộc đấu tranh chống thực dân
của nhân đân Đông Nam Á

Nội dung năm chương

trên tập trung trình bày và phân tích q trình hình

'thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa ở các nước Đông Nam A.

Tác giả hy vọng rằng luận văn nay sẽ giúp ích cho các ban sinh viên khóa
sau cùng những ai quan tâm đến vấn dé người Hoa ở Đông Nam Á..
Trong suốt quá trình chuẩn bị tư liệu và biên soạn luận văn này, tôi đã nhận

được sự hướng dẫn tận tình của thầy Huỳnh Văn Tịng, Tiến
Tơi xin trân trọng cảm ơn Giáo

sư.Nguyễn

Quốc


sĩ Khoa học Lịch sử.

Lộc

, Trưởng

Khoa Đông

Nam Á học , Đại học Mở-bán cơng TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi
trong suốt 4 năm tôi theo học trong trường .

Tôi cũng xin chân thành cẩm ơn tồn thể q thây cơ trong khoa Đơng Nam
A hoc, Dai hoc Mở-bán cơng TP. Hồ Chí Minh đã tận tình giảng đạy trong suốt thời
gian tơi theo học trong trường

và các ban dong

học đã động

viên và giúp đỡ tơi

hồn thành luận văn này.
Tuy được

biên soạn

với rất nhiều cố gắng,

cịn thấp, luận văn chắc chắn sẽ khơng
cơ nhận xét và chỉ bảo thêm.


|

nhưng

do

trình độ

chun

mơn

tránh khỏi nhiều sai sót. Kính mong qui thay
.

a

'

‘Tran trong

TP. Hồ Chí Minh, tháng 9-1998

~. Tác giả

,


“đuậu căn tất ughtije


7
CHUONG

Trang

4

I

BUỔI ĐẦU DI DÂN CỦA NGƯỜI HOA
ĐẾN

CÁC

NƯỚC ĐÔNG NAM

A

(CHO DEN THE KY XVI, KHI NGUOI AU XUAT HIỆN Ở ĐƠNG NAM

Á)

I. 1. Q TRÌNH HÌNH THÀNH BAN ĐẦU CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA..
Giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau ở Đông Nam Á và tổ tiên người Hoa
đã diễn ra các cuộc tiếp xúc cách đây nhiều ngần năm, vào khoảng thiên niên kỷ
VI-VI tr. CN (theo ý kiến của nhà khảo cổ học người Mỹ W. Solheim)'. Khu vực diễn ra đặc biệt sôi động các cuộc tiếp xúc sắc tộc là vùng lưu vực sông Tây Giang,
và cả thượng và trung lưu sông Dương Tử, nơi cách đây vài ngàn năm có nhiều sắc
tộc sinh sống và hòa lẫn vào nhau. Theo cách phân loại dựa vào ngơn ngữ, đó là


các tộc Việt, Indonesia, Thái, Môn- Khơme

và Tây Tang- Mién.

Từ thế kỷ I Tr. CN dén thé ky X s. CN miền Bắc bán đảo Đông Dương bị rơi
vào ách thống trị của các triểu đại phong kiến Trung Quốc. Nơi đây trở thành chốn
cư trú tạm thời hay lâu đài của các binh lính, quan chức và có thể cả thương nhân và
thợ thủ cơng người Hoa. Tìm đến đây thỉnh thoảng có những làn sóng người chạy
nạn chiến tranh, chạy trốn sự truy bức mỗi khi có sự thay đổi triéu đại ở Trung
Quốc, hay chạy đói vì thiên tai. Bắc bán đảo Đơng Dương cịn là nơi dụng chứa

những kẻ tham gia các cuộc nổi dậy nông dân bị thất bại, chẳng hạn cuộc nổi day

Hoang Sào nổi tiếng trong thế kỷ X ?

:

Ngoài ra, ở một số tụ điểm dân cư trong một vùng đất rộng lớn trải đài từ
Thượng Miến đến phía bắc phần lãnh thổ của Campuchia hiện nay đã có mặt các
thương nhân Hoa ngay từ thế kỷ II s. CNŸ
Tuy nhiên, không thể cho rằng những cuộc dịch chuyển vừa kể trên như là
bước khởi đầu trực tiếp của quá trình hình thành các cộng đồng người Hoa ở Đơng

Nam Á, vì chúng diễn ra rời rạc, cách nhau từng khoảng thời gian khá đài và nhất là

vì chưa tạo được những cộng đồng dân cư đơng đảo, mà trong đó tộc người Hoa
chiếm đa số từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cộng đồng người Hoa di dan sang day
trong thién nién kỷ đầu sau Công nguyên không tổn tại lâu đài, lúc hiện, lức mất, vì
' Solheim W.G, New L ight on a Forgotten Past. - NationalGeographic. Wash . 197E, No 3, p. 339
” Purcell

V. The Chinese in Southeast Aisa. L. 1965, p. 182-183
Châu Thị Hải - Tìm hiểu sự hình thành các nhóm cộng dồng người loa ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử
_ Dong Nam A (Luan an phó tiến sĩ): Trường Đại học Tống hợp Hà Nội, 1990, tr. 15
Cady F, F, Southeast Aisa: its Historical Development. NLY., 1964, p.24


Trang

|

Ludu vin tét aghttpe

3

một số quay về tổ quốc, còn số ở lại đã lấy người bản xứ, học ngôn ngữ và tiếp thu

- cả phong tục, tập
cộng đổng người
_ mình. Tính khơng
đến nửa đầu thiên

qn địa phương để rồi sau vài thế hệ hồn tồn bị hịa tan vào
bản xứ; quên đi tiếng mẹ đẻ và thậm chí cả nguồn gốc tổ tiên
ổn định của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á kéo đài cho
niên kỷ I s. CN:

Tuy nhiên, tình hình bắt đầu thay đổi từ thế kỷ XI, đặc biệt rõ rệt từ thế kỷ
XIV-XV. Những hiện tượng như: một số quay về Trung Quốc, số khác bị đồng hóa
với người bản địa vẫn cịn nguyễn; nhưng lúc này số người di dân từ Trung Quốc
tăng lên đến mức chẳng những các cộng đồng người Hoa đông hơn, mà cả mức cố

kết về xã hội và sắc tộc của họ cũng trở nên chặt chế hơn. Có thể nói đây là thời
điểm bắt đầu hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa như là một bộ phận dân cư

riêng biệt ở các nước Đông Nam Á. Những thay đổi này gắn liển với sự kiện là ở

Trung Quốc đã xuất hiện một tình huống thúc đẩy khá nhiều người dân rời bỏ quê
hương để tìm đến những vùng đất lạ. Đó là: đất cày thiếu, số người khơng có đất
. canh tác tăng lên; nên kinh tế hàng hóa-tiển tệ ra đời đã thúc đẩy các thương nhân

đi tìm thêm thị trường tiêu thụ hàng Hóa. Đó là chưa kể chế độ phong kiến Trung

Quốc cịn để ra chính sách kiểm sốt ngặt nghèo ngoại thương và trưng dụng tùy
tiện các phương tiện sinh nhai của thương nhân. Hậu quả là khơng ít bần nơng và
thương nhân đã tìm đến sinh nhai ở vùng Đơng Nam Á, nơi có khí hậu ơn hịa và
nhiều đất hoang và cũng là nơi một nền kinh tế hàng hóa đang hình thành. Những
yếu tố này đã thu hút khơng ít người Hoa tìm đến định cư lâu đài ở Đông Nam Á.

Dù trong các thế kỷ XIV-XYV không phải nơi nào ở Đông Nam Á cũng đều

cần đến một khơí lượng đơng đảo lao động người Hoa, họ vẫn có thể tìm được một
chỗ làm cho mình, hoặc trong các ngành nghề thủ công, hoặc trong hoạt động

thương mại, hoặc khai phá đất hoang. Cân nhấn mạnh ở đây là thương mại, vốn bị

xem là một nghề phụ, hoặc thậm chí hạ đẳng ở Trung Quốc, thì ở Đông Nam Á lại

được coi là con đường tốt nhất để đưa đến cuộc sống sung túc, giàu có.
Sau khi nhà Nguyên bị lật đổ và được thay bằng

nhà Minh


(thế kỷ XIV-

XVI), các mối liên hệ ngoại giao và thương mại giữa Trung Quốc và các vương
quốc Đông Nam

Á được

đẩy mạnh.

Lần

sóng người từ Trung

Quốc

kéo

sang các

nước này diễn ra nhộn nhịp đến mức vào khoảng thế kỷ XVII trên khắp các miền ở
Đông Nam Á-từ Miến Điện và Lào đến những khu, vực hẻo lánh trên quân đảo
Maluku và Philippines- đều xuất hiện những nhóm người Hoa ít nhiều đơng đảo.
Cho đến lúc này, việc người Hoa đi cử sang và định cư ở Đông Nam

Á diễn

ra một cách êm ẩ, khơng gặp trở ngại nào đáng kể từ phía giới cầm quyền cũng như
người đân bản địa. Đó là vì ở Đơng Nam Á cịn nhiều đất hoang, nhưng chủ yếu là,
_Vì các hoạt động kinh tế cơ bản của di dân người Hoa - thương mại và thủ công



-%2õm uu tt ô246/4

7

Trang

â

nghip - khụng va chm trc tip đến quyền lợi của người bản xứ, thậm chí, chứng còn mang lại sự sung túc cho địa phương, nơi họ tìm đến cư trú. Do đó, khơng những

_ khơng cấm đốn, giới cầm quyển Đơng Nam Á cịn cố sức rút ra các lợi ích khơng

_ nhỏ từ hoạt động
| người Hoa khơng
khăn chính là họ
(ngoại trừ ở Việt

kinh tế của đi dân người Hoa. Nhưng như vậy không có nghĩa là
gặp trở ngại gì trên bước đường kiếm sống ở nơi định cư mới. Khó
phải sống trong một mơi trường xã hội và văn hóa hồn tồn xa lạ
Nam). Do đó, giữa dân địa phương và di dân người Hoa đã tổn tại

một sự xa cách, mà đôi khi đã đưa đến mối quan hệ thù địch, nhất là ở những nơi

thương nhân người Hoa nắm độc quyển cung cấp và thu gom hàng hóa, định đặt giá
cả và cho vay nặng lãi.

I.2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA DI DẦN NGƯỜI HOA

Sinh sống trong một môi trường hồn tồn xa lạ, khơng hiếm khi thù địch như
trên, người Hoa đã tìm kiếm những hình thức tự vệ về tâm lý và xã hội. Hoặc là họ
dấn sâu hơn nữa vào môi trường sống bằng cách lấy vợ người địa. phương (di dân
người Hoa hầu hết là đàn ông) và học ngôn ngữ địa phương. Nhưng đa số IgƯỜi
Hoa đi theo con đường khác - giữ gìn và thiết chế hóa các rào cẩn xã hội-tâm lý
giữa họ và các sắc dân địa phương, bằng cách sử dụng những hình thức tổ chức xã
hội riêng biệt đã hình thành từ lâu.

Hình thức tổ chức bền vững nhất cửa các đi dân người Hoa là hội đồng tộc,
mà trong thuật ngữ khoa học gọi là “hội téc” (“clan”)!. Xuất hiện từ thời rất Xa Xưa,

hội tộc ở Trung Quốc lan tràn rộng rãi trong các thế kỷ XVI-XVII và mở rộng chức
năng của nó ở ngay tại các lãnh thổ miền nam Trung Quốc, nơi phát xuất các đợt di
dân Đông Nam Á. Bản thân việc rời bỏ quê hương để tìm đến lập nghiệp ở những
vùng đất xa xôi phải được sự đồng ý của các thành viên lớn tuổi nhất trong tộc. Chi
phí đi đường khơng hiếm khi được quỹ cửa tộc đài thọ: Còn người ra đi nếu làm
ăn
khấm khá, phải đóng góp một phần tài sản cho tộc. Do vậy, dù việc bó Trung Quốc
ra đi trên thực tế có nghĩa là đã cắt đứt mọi quan hệ thân thuộc, những di
dan người

Hoa vẫn có một thói quen rất bển vững là tìm đến những người cùng họ ở vùng đất
mới để kết hợp thành một thứ na ná như hội tộc, bất chấp họ có phải là bà con thực

sự hay khơng (cần nhớ rằng ở Trung Quốc, số người cùng một họ rất đơng,
vì số họ
trong cả nước chỉ hơn trăm). Vai trị của hội tộc trong đời sống hàng
ngày của di

dan người Hoa rất đáng kể. Những nghĩa vụ tương trợ lâu đời đã đoàn kết những

thành viên của hội tộc ở vùng đất lập cư, tăng cường tính bển vững của cộng đồng,
nhưng đồng thời đòi hỏi mỗi người Hoa phải tuân phục triệt để giới trưởng hội
tộc

' X. thém Chan Thị Hải : “Vài nét về sự di dân của người Hoa xuống Đông
Nam Á và các tổ chức cộng
ding xã hội của họ”. - Về lịch sử Đông Nam Á Hiện đại. Viện Đông
Nam Á, Hà Nội, 1983

|


Trang

Auâu uău tất œ2/48/

7

Một hình thức tổ chức khác là “héi déng hương” !_ra đời từ một thực tế lịch

sử- sắc tộc là cư đân miền nam Trung Quốc, nơi phát xuất của tuyệt đại bộ phận di

dân người Hoa ở Đông Nam Á, đã sống phân tán thành nhiều nhóm trên các lãnh
thổ ít nhiều biệt lập với nhau. Mỗi nhóm có một thổ ngữ riêng. Tình hình đã khiến
_ họ khó hiểu nhau khi phải tiếp xúc với nhau bằng ngơn ngữ nói. Di dân người Hoa

ở Đơng Nam Á sử dụng rất nhiễu thổ ngữ, như tiếng Hẹ (gốc miền Đông Quang

Đông), Phúc Kiến, Quảng Châu, Triểu Châu, Hải Nam. Tại vùng định cư mới,
những người nói cùng thổ ngữ sống quần tụ trong một khu phố, làng hay cả vùng.

Giữa họ nảy sinh tình cảm của những người cùng một q hương gốc tích và nói
cùng một ngơn ngữ. “Hội đồng hương” ra đời chính trên cơ sở tình cảm q hươngngơn ngữ này. Với thời gian, mối quan hệ này trở nên bển vững đến mức cho đến
tận thế kỷ XIX dù sinh sống ở những miễn rất cách xa nhau tại xứ sở mới, những
người cùng q hương và ngơn ngữ vẫn tìm đến nhau để lập “Hội đồng hương”.

Hình thức tổ chức này bắt đầu mang tính chất của một thiết chế; nó trở thành một

hiệp hội có cấu trúc tổ chức rõ ràng, có lễ thói xử sự được qui chế hóa, có chế độ tự
_ quan theo Iuật định. “Hội đồng hương” đã giúp đỡ các di dân trong cuộc đấu tranh

để sinh tôn, nhưng đồng thời lại khiến những di đân người Hoa thêm xa lạ với nhau:

những người không nói cùng thổ ngữ chẳng những khơng hiểu nhau, mà đơi lúc cịn

thù địch nhau. Sự việc khơng ít lần đưa đến những cuộc ẩu đả đổ máu.

Một hình thức tổ chức khác là hội cùng nghế”, theo kiểu các phường hội.
Thông thường việc cùng ở chung một hội đồng hương đã định trước việc chọn nghề:

những người cùng hội đồng hương đều chọn

nghề giống nhau.

Cả ba loại hiệp hội trên, ngoài chức năng tương trợ vật chất và
các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trên cơ sở đảm bảo quyền
của giới lãnh đạo đối với các thành viên của hội, còn thủ giữ vai trò
trong việc giữ gìn các nghỉ thức tỉnh thần và tâm lý biểu trưng cho tộc

điều chỉnh
kiểm sốt

quan trọng
của mình,

chẳng hạn như tuân thủ các chuẩn mực đạo đức lâu đời trong sinh hoạt gia đình, tiến

hành các lễ nghi thờ cúng, các ngày lễ tôn giáo, nghỉ thức cưới hỏi và ma chay, tài
trợ các đền chùa, nghĩa địa và sau này cả bệnh viện của hội.
Dù đã được thu hút vào các hình thức tổ chức khác nhau, cộng đồng
Hoa ở các nước Đông Nam

Á vẫn chưa thể được xem là một hiện tượng én

ngudi

cố hồn:

tồn. Có những bằng chứng cho thấy những người mới đến vẫn luôn muôi hi vọng
quay về cố quốc, sau khi đã trở nên khá giả (nếu ra đi vì lí do kinh tế) hoặc sau khi:
tình hình đã trở nên ổn định (ra đi vì lí đo chính trị).

'_X, thêm, Châu Thị Hải , "Vài nét.....”, Sdd..

> Nt

oo

* Willmot D.E. The Chinese of Semarang. N.Y. 1960; p4,


- Trang


|

Lud vin tét ughti~e

8

Mot diéu ciing can luu ¥ là giữa các cộng đồng người Hoa di dân ở Đơng

Nam Á với nhau và với chính quyển phong kiến Trung Quốc lúc đó là nhà Minh

khơng tổn tại một mối quan hệ nào, dù Bắc Kinh đang tiến hành một chính sách

ngoại giao tích cực trong vùng. Có thể giải
nhân sau. Thứ nhất là chịu ảnh hưởng của
phong kiến Trung Quốc lên án bất kỳ hành
cha ông để đến lập nghiệp ở những vùng
Quốc. Sự ra đi của người Hoa hồn tồn là
đó. Nhà Minh

thích hiện tượng này bằng các nguyên
học thuyết Khổng Tử, giới cầm quyền
động rời bỏ quê hương xứ sở, mổ mã
đất xa lạ nằm ngoài cương thổ Trung
việc của cá nhân và họ tộc của người

và cả nhà Thanh sau này không bao giờ để ra chủ trương xây dựng

những khu di trú (colony) ở
của các trung tâm chống đối

họ ở trong nước. Cuối cùng
mắt hổ nghi các hoạt động
vùng bờ biển Trung Quốc, vì

hải ngoại. Thứ hai, là họ lo sợ sự ra đời ở nước ngoài
ách thống trị nặng nề và chế độ kiểm soat ti tiện của
là chính quyền phong kiến Trung Quốc nhìn bằng con
thương mại của các thương nhân- di đân người Hoa ở
chúng khơng chịu sự kiểm sốt của họ.

Vì những nguyên nhân nêu trên, đù các khu đi trú của di dân người Hoa ở

Đông Nam Á trong các thế kỷ XV-XVI đã xuất hiện nhiều và với số dân khơng

nhỏ, người ta hồn tồn khơng thể gọi chúng là hệ thống các khu di trú. Chính đây
sẽ là sự khác biệt cơ bản giữa các khu di trú người Hoa và khu di trú người Âu, vốn
sẽ ra đời khơng lâu sau đó ở Đơng Nam Á.

1L 3. TÌNH HÌNH KHÁI QUÁT CÁC KHU ĐI TRÚ CỦA NGƯỜI HOA TRONG

NHỮNG THỂ KỶ XV-XVII

Một trong những nơi người Hoa có mặt sớm nhất và đơng nhất là vương quốc

Dai Việt, nằm ở khu vực đuyên hải miền Bắc và miễn Trung bán đảo Đông Dương,

ngay từ thế kỷ X, sau khi nhân đân vương quốc này bằng cuộc đấu tranh kiên cường
đã thoát khỏi ách thống trị kéo đài cả ngàn năm của phong kiến Trung Quốc. Sau
khi những kẻ xâm lược bị đánh đuổi, khoảng 87.000 quan chức người Hoa và gia
đình đã bị trục xuất, nhưng vẫn còn một số đáng kể đã ở lại và đăng ký vào số bộ

như người Việt Nam'.

Trong các thế kỷ XI-XTIV, tức thời kỳ tổn tại của Đế chế Angkor trên lãnh

thổ Campuchia, trong nước này đã xuất hiện các khu di trú cố định của người Hoa.

Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề buôn bán”. Họ chở đến đây kim loại mầu, vải lụa
và vải bông, đồ gốm và giấy. Luân chuyển qua tay họ một khối lượng đáng kể hàng

hóa bản địa-ngà voi, gia vị và đầu ăn. Thương nhân Campuchia thường chỉ đóng vai

trị người trung gian giữa dân địa phương và thương nhân Trung Quốc. Người Hoa ở
-

!_Fujiwara Ruchiro. Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều dại Việt Nam

- Khảo cổ, Sai Gon, 1974, N° VIL tr. 14300

> Cady FF. Sdd, p. 24

_—

-

,


Ludu vdw tét ughli~e

|


- Trang

3

Campuchia cũng dự phần vào hoạt động thương mại quốc tế: vào thời đó Angkor là
trung tâm thương mại quan trọng trên các ngã giao đường giữa Đông và Tây.

Trong vùng lưu vực sông Mênam thuộc miền trung Thái Lan hiện nay và cả

dọc theo bờ duyên hải vịnh Thái Lan, từ thế kỷ XIII-XTIV, người Hoa đã xuất hiện

và sống lẫn với người địa phương. Hoạt động kinh tế của họ là buôn bán và khai
thác thiếc!. Trong lãnh thổ vương quốc Sukhothay (thế kỷ XI) có một cơng xưởng
sản xuất đơ gốm sử dụng lao động từ Trung Quốc sang. Dưới thời vương quốc

Ayuthay (thế kỷ XTV-XYVIT, số người Hoa sinh sống ở Xiêm đã tăng lên đáng kể.

Theo lời một trong các quan chức phụ trách ngoại thương cửa Ayuthay, vào những

năm 60 của thế kỷ XVII trên toàn lãnh thổ vương quốc có “nhiều ngàn người Hoa”.

Họ đã sốngở đây từ thời xa xưa, lap gia đình và sống lẫn với dân bản địa. Tích cực
tự đồng hóa với dân bản địa là nét nổi bật trong khoảng thời gian đài trong sinh hoật
của đi đân người Hoa ở Xiêm.

Các vùng. bình nguyên Xiêm thường là nơi tìm đến bằng đường biển của
những người dân các tỉnh đơng nam Trung Quốc, cịn các miễn núi là nơi định cư
của những người phát xuất từ tỉnh Vân Nam. Người ta gọi họ là người “Hồ”. Họ
khác về nhiễu mặt so với các cộng đồng người Hoa cịn lại: tơn giáo (chủ yếu theo

đạo Hồi), về tiếng nói và cả lối sống. Họ sống thành từng làng, trồng cây thuốc
phiện và buôn bán đường đài (theo thương đội).

Người Hoa ở Xiêm đa số sống bằng bn bán, số cịn lại sống bằng các nghề
thủ cơng, canh tác đất đai. Một số ít hơn làm nghề thuốc và ca hát.
Theo lời nhà truyền giáo người Pháp G. Tachar, phần lớn hoạt động thương
mại ở Xiêm vào cuối thế kỷ XVII nằm trong tay thương nhân người Hoa. Họ cạnh
tranh với các thương nhân đến từ Nhật, Ấn, Ba Tư và các nước Châu Âu. Các hội

đồn thương mại của người Hoa ở kinh đơ Ayuthay và các đô thị cẳng bên bờ biển
Xiêm đã làm những người đương thời phải sững sờ vì sự đồn kết chặt chế và thế
lực của chúng. Chẳng hạn ở Pattaya, chính quyền địa phương thậm chí khơng dám
đánh thuế thương nhân người Hoa ở đây. Các thuyển buôn của Anh đến cảng
Nakhon Sithammarat da tìm đến khơng phải giới chức địa phương, mà hội đoàn
thương mại người Hoa để xin phép được buôn bán tại cảng này . Trong cuộc cạnh
tranh gay gắt với giới thương nhân Châu Âu, các nhà buôn người Hoa không ngần
ngại sử dụng cả võ lực. Năm

1663, một số người Hoa có vũ trang đã bao vây tiệm

buôn của người Hà Lan và tống xuất.-họ khỏi Xiêm.

Trong thé ky XVII ở Xiêm có thơng lệ là bán các chức tước cấp tỉnh ở miền

Nam. Khơng ít thương nhân người Hoa đã trở thanh

quan chức bằng con đường này.

' Purcell V. Sdd, p. 85-86
> Skinner G.W. Chinese Society in Thailand. An Analitical History. N.Y.


1962, p..7-8

* Anderson J. English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century. L. £890, p. 80


Aud vin 06 ughti~e

,

Trang

10

Trong bộ máy cơng quyển đã hình thành một tầng lớp ổn định quan lại gốc
người
Hoa.
_ Sau khi quân Miến trần vào lãnh thổ Xiêm và vương quốc Ayuthay
bị sụp đổ
năm I767, một quan chức cấp tỉnh gốc lukchin (tức có cha người Hoa
và mẹ người
Thái) tên P°ya Taksin đã cầm đầu một đạo quân. Ông tỏ ra là một
người cầm quân
xuất chúng khi chỉ trong vòng một năm đã đánh đuổi quân xâm lược
Miến và sau
đó lên ngôi vua!. Dưới thời P'ya Taksin, kinh đô chuyển về Thonbu
rin và sau đó

đến Bangkok, gần với các con đường thương mại của thế giới. Lúc này,
vốn liếng


của thương nhân người Hoa chuyển mạnh hơn sang ngành thủ công-c
ơ xưởng và

nông nghiệp; nhiễu đồn điển trồng tiêu mọc lên. Họ cũng thu mua lúa và
chở sang
Trung Quốc bán.

Với những tiểu quốc nằm trên quân đảo Mã Lai, Trung Quốc đã lập
quan hệ
ngoai giao từ thế kỷ V, và những đi dân người Hoa đã có mặt ở
bờ biển bắc Java
vào thế kỷ X, nhưng phải đến thế kỷ XI số người Hoa ở đây mới
tăng lên đáng kể.
Sau khi hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt thất bại trong mưu
toan đánh chiếm
Java (cuối thế kỷ XI, hơn 100 chiến binh Trung Quốc nằm trong
đạo qn xâm
lược đã khơng thích quay về cố quốc. Họ tìm đến định cư trên
đảo Billinton. Nơi

đây
Hoa
của
đầu
khu

đã trở thành khu di trú lâu đài cửa người Hoa. Sự ra đời của
cộng đồng người
ở bờ biển phía bắc Java, trong vùng Semarang hiện nay,

gắn liễn với chuyến đi
Trịnh Hòa, một quan chức nhà Minh đến vùng biển phía nam
Trung Quốc vào
thế kỷ XV. Các thủy thủ Trung Quốc đặt chân lên đây đã
tạo ra trong những
di trú người Hoa đông đảo nhất trên quan dao ”,

Trong các thế kỷ XIH-XV có những nhóm khá đơng người Hoa
sinh sống

thường xuyên trên đảo Java-ở Tuban, Surabaya, trong lãnh
thổ các tiểu vương quốc
Bantam và Jakarta. Đây là trung tâm hoạt động thương mại
chính của họ. Ít lâu sau,

các hiêu buôn cửa người Hoa

xuất hiện ở bờ biển Bắc và Tây Kalimantan-ở

Bunkomi (Brunei hiện nay), Sambas, Pontianaka và Sucadan,
và trên đảo Tamasin
(Singapor hiện nay) và ở đô thi-cang Malacca ?.

Không phải là hiếm chuyện giới thống trị các tiểu vương quốc lấy
người Hoa

nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các độ tàu buôn từ Trung Quốc
thỉnh thoảng kéo sang
đây, hay nhận những điều kiện cộng tác ưu đãi với các thương
nhân người Hoa định


cu tại chỗ. Về phần mình, các đại diện cộng đồng người Hoa
cũng không bỏ lỡ cơ

hội lập mối quan hệ thông gia với các quan chức địa phương
để được hưởng các chế
độ ưu đãi, hoặc được phân chia ruộng đất cùng với các
nông dân sống trên đó và
thậm chí được tưởng thưởng cả một số chức tước:
Rong Syamananda . A history of Thailand . Bangkok , 1981 , p.93

” Willmott D. E. Sdd. p. 1-3
* Purcell V. Sdd , p. 235, 239

~


Ludu udu tét ughtife

:

|

Trang 11

Hoạt động thương mại ở các thị trấn Java điễn ra nhộn nhịp. Người ta bán các

mặt hàng chở từ Trung Quốc sang, như để lụa, đổ vải, chén dĩa bằng sứ, thuốc súng,

đổ trang sức. Thương nhân người Hoa thu mua của người bản xứ đồ gia vị và thiếc

để chở sang Trung Quốc hay bán lại cho thương nhân người Âu'

Thương mại là hoạt động kinh tế chính, nhưng khơng phải là duy nhất của
người Hoa. Ở Tây bộ Kalimantan chẳng hạn, họ còn làm ruộng. Một số người đã
làm chủ các đồn điền trồng tiêu hay nhiều thửa ruộng ở tiểu quốc Bantan. Ở Java,
người Hoa xây dựng các nhà máy luyện đường. Các xưởng thủ cơng có trong các đơ
thị thời đó phần lớn là của người HoaŸ.

Lịch sử Trung Quốc của người Hoa trên lãnh thổ tiểu quốc Palembang (đảo'

Sumatra) có nội dung khá lý thú. Vào khoảng năm 1380, vài ngàn người Hoa sinh
sống ở đây bằng nghề thương mại hàng hải đã bẫu một trong số các thương nhân
giàu có lên làm thủ lĩnh của họ. Lợi dụng vị trí địa lý thuận lợi của Palembang nằm

trên các tuyến đường nhộn nhịp giữa Ấn Độ

Dương

và biển Đông,

các tiểu Vương

cai trị Palembang khơng chỉ tìm cách bn bán kiếm lời, mà còn hành nghề thủy
tặc, cướp đoạt ngay cả các con tàu của hoàng đế Trung Quốc chở các cống vật từ
các nước phương Nam về Trung Quốc. Một trong các tiểu vương Palembang trong
một lần tổ chức đánh cướp như vậy đã bị bắt và bị gia hình, nhưng tiểu quốc này
vẫn được hoàng đế Trung Quốc cho phép hưởng chế độ tự trị, mà không bị thiên
triểu hỏi tội. Diễn biến vừa kể là một ví dụ hùng hồn cho ảnh hưởng rất có giới
hạn


của nhà Minh đối với các cộng đồng cư dân người Hoa ở Đông Nam Á,
ngay cả đối

với vùng quần đảo Malaya-Indonesia, nơi không tổn tại một nhà nước phong
kiến
tập trung nào đủ sức chống chọi với áp lực quân sự của Trung Quốc.

x Quần đảo Philippines từ cuối thế kỷ X thỉnh thoảng tiếp đón các đồn thương
thuyển Trung Quốc lui tới. Chúng chở hàng hóa, và đơi khi cả người đến sống
một
thời gian. Người Hoa thường tìm đến sống trong các khu dân cư đông đúc ven
bờ

biển, chủ yếu ở Manila

trên đảo Luzon.

Trong các thế kỷ

XU

va XUI,

trung tâm

hoạt động thương mại nhộn nhịp với Trung Quốc là quần đảo Sulu. Trong
số
hàng hóa phát xuất từ đây có ngọc trai.
Đầu thế kỷ XV giữa các tiểu vương quốc trên đảo Luzon và Trung Quốc
đẫu tiên có sự trao đổi sứ bộ. Diễn biến này cho thấy có lẽ trên đảo đã tổn tại

khu cư trú ổn định của người Hoa, nhưng qui mô cửa chúng ra sao, các tài

các
lần
các
liệu

không đưa ra những số liệu thống nhất. Một tài liệu biên niên của Trung
Quốc viết

rằng trên đảo có khoảng vài chục ngàn thương nhân giầu có gốc Phúc Kiến.'Họ
đã
sinh sống ở đây từ lâu và khơng cịn tính đến chuyện trở về Trung Quốc. Thậm
chí
họ đã ở đây đến đời con hoặc chau. Con số người Hoa chắc chắn đã bị phóng đại

Purcell V., Sđd, p.390

> Willmott D.E. , Sdd, p.3


udu viu tit ughtife —

Trang 12

lên nhiễu, vì những người Tây Ban Nha đầu tiên đặt
chân đến Manila năm 1570
cho biết rằng trong số cư dân trên đảo Luzon, họ chỉ
đếm được gần 150 người Hoa),
Thế kỷ XVIH đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử

các nước Đông Nam Á,

_ Và tất nhiên cả số phận của những nhóm người
Hoa sinh sống trên lãnh thổ các.
quốc gia này. Từ đầu thế kỷ, nhân dân các nước
Đông Nam Á-đảo lần lượt rơi vào

ách thống trị của các thực đân phương Tây xâm nhập
vào trong vùng, đầu tiên là
người Tây Ban Nha và Bổ Đào Nha, sau đó là người
Hà Lan và Anh. Số phận của

cư dân người Hoa trong các thuộc địa của người
Âu ở Đông Nam Á-đảo sẽ được

xem Xét trong chương kế tiếp, ở đây chúng tôi xin
đẻ cập tiếp đến cuộc sống của
các

cộng đồng người Hoa trong các thế kỷ XVH-XIX
ở những vùng lãnh thổ của
Đông Nam Á-lục địa, vốn sẽ duy trì được độc
lập của mình thêm được khoảng 200
năm nữa.

Có tác động đến tình hình của di dân người Hoa
ở các nước Đông Nam Á-lục
địa không chỉ là bước đầu bành trướng của
thực đân Châu Âu ở trong vùng, mà cịn


có cả một biến chuyển hết sức sâu xa diễn ra ở
Trung Quốc vào giữa thế kỷ XVI,
sau

khi nước này bị rơi vào ách thống trị của nhữn
g kẻ xâm lược từ bên ngoai-nguGi
Man Châu. Một triểu đại phong kiến mới được
dựng lên-triểu Thanh, thay cho triều
Minh cũ.

Vào những năm 80 cửa thế kỷ XVIH, quân lính
Mãn Châu đã trấn áp thẳng
tay những ổ kháng cự cuối cùng của người Trun
g Quốc ở phần lãnh thổ Đông Nam
_cửa đất
nước-ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến
Nam. Bộ phận quân lính Trung Quốc trung
thành
bỏ chạy sang lãnh thổ Miến Điện, Việt Nam
và xa
nhiều cộng đồng đi dân người Hoa ở Đông
Nam

và đảo Đài Loan - và tỉnh Vân
với nhà Minh cịn sống sót đã kịp
hơn nữa về phía nam. Kết quả là
Á trở thành trung tâm hoạt động

của những kẻ chống đối kiên định chính quyền
Mãn Châu đã được xác định ở Bắc

Kinh. Với

thời gian, ở những nơi này đã xuất hiện các
hội kín, tương tự như các hội
yêu nước bí mật kháng Thanh được thành lập
ở miễn Nam Trung Quốc. Trong hoàn
cảnh ở các khu di trú, các hội kín đã mang một
số nét đặc thù sau: cơ sở xã hội của
chứng là đân nghèo thành thị (thay vì bần cố
nơng như ở Trung Quốc); chúng khơng
chỉ kháng Thanh, mà còn bảo vỆ, trong trườn
g hợp cần thiết, những đồng hương của
mình chống lại những kẻ áp bức người bản
địa. Vũ khí của chúng chủ yếu là khủng
bố, cịn những nguồn cung cấp tài chính cho
chúng là các sịng bạc, nhà chứa, tiệm

hút, hoạt động bn lậu. Giới cầm đầu các hội
tộc người Hoa ra sức nắm lấy các
hội kín.

Chính vũ khí khủng bố và những nguồn cung
cấp tài chính kiểu như Vậy sẽ
tạo nên tính chất hai mặt của chúng.

Triểu Thanh gắng hết sức hạn chế mọi nưu toan
thiết lập các mối liên lạc giữa các di dân người Hoa ở Đơng Nam Á

Trung Quốc. Chính quyển


' Purcell V. , Sđd , p. 500

~

mới dồn


Ldn

de

Cất “2420

-

Trang

13

_ đuổi mọi người đân sống ở ven biển vào
sâu trong đất liễn, nhằm cắt đứt liên lạc
với phía nam theo

đường biển; việc ra nước ngo bị cấm
đốn bằng hình phạt tử
hình; ngoại thương bị ` coi ° là1x độcA quyềxn ”
.3
,
của Nhà ` nước4 và` bị . giảm
mạnh!,1

`

.

Tất cả những biện pháp trên không chỉ khiế
n các cộng đồng di dân người
Hoa trở nên ngày càng xa lạ với cố quốc
, mà

cịn góp phần đáng kể vào việc củng
cố và ổn định chúng, vì nguồn bổ sung
di dân mới bị đình tré trong một thời
gian
đài, mọi hy vọng

quay về cố quốc đù là đo tuổi già xem
ra khó lòng trở thành hiện
thực. Trong những điều kiện như vậy, di
dân đành bằng lòng với cuộc sống ổn cố
lâu đàiở nơi cư ngụ mới và đi tìm những
phương cách sống chung tốt nhất với dân
ban dia.

Tình hình của các nhóm sắc tộc người
Hoa ở Đông Nam Á

mãi đến cuối thế
ky XVII va trong thé ky XIX mới thay
đổi ít nhiều, khi nhà Thanh, dưới sức
ép của

những đòi hỏi kinh tế trong nước, đặc
biệt của tiến trình bành trướng tích cực
ở biển
Đơng của các Cường quốc phương
Tây, đã buộc lịng giảm bớt những
hạn chế đối
với ngoại thương, đối với VIỆC ra nước
ngồi, và cho phép cả việc tuyển
mộ cơng
nhân trong nước ra làm Việc ở ngoại
quốc.
Tất nhiên là tác động của những chu
yển biến trên, đối với các cộng đồng
người Hoa ở các nước Đông Nam
Á là không như nhau. Chịu ảnh hưở
ng rõ rệt nhất
là cộng đồng người Hoa ở Miến Điện
và Việt Nam.
_

Sau khi những tốn lính Trung Quốc
, cùng với một trong những hậu
duệ cuối
cùng của nhà Minh bị lật đổ, chạy

của quân Mãn

Châu

sang lánh nạn ở Miến Điện trước

sức ép nặng nề

thắng trận, quân Thanh

trong suốt thế ky XVII da nhié
u lần
xâm nhập vào lãnh thổ Miến Điện nhằ
m thanh tốn những ổ kháng Thanh
xuất hiện
Ở đó. Trong những năm

1765-1769 quân Thanh lại xâm nhập

lãnh thổ Miến Điện,
lần này với một mục đích rõ rang
hon-chinh phục xứ này, nhưng
đã bị người Miến
đánh lui. Cứ môi lần lui binh như
vậy, một số ít qn lính Trung
Quốc đã tìm cách ở
lại

và hịa nhập vào số người Hoa đã
có nặt sẵn. Đến đầu thế kỷ XIX,
theo lời
tường thuật của các nhà ]ữ hành
Châu Âu, người ta trơng thấy nhữ
ng nhóm người
Hoa không đông lắm sinh sống bằng
nghề buôn bán ở các đồ thị chính tron

g nước,
như Ava hay Amarapura.

Trong một thời gian dài, người
Hoa còn được các vua
Miến Điện cho phép khai thác các
mỏ bạc hay mồ đá quý Ÿ,
|

Việt Nam tiếp đón một khối lượng
người Hoa chạy nạn đơng đảo hơn
nhiều
so với Miến Điện. Năm 1679, một
đạo quân đông khoảng 7.000 Ig6Ư
Ời cùng với gia
đình họ chạy trốn quân Mãn Châu
trên 50 chiếc thuyền đã cập vào
bờ biển miễn
Trung Việt Nam. Họ đã xin chúa
Nguyễn cho phép được tị nạn. Lúc
bấy giờ chúa
Nguyễn đang cố gắng mở rộng bờ
cõi về phía Nam. Đám người Hoa
ti nan đã được
‘Purcell V., Sdd . p. 25
doy

Aves
Pd
ˆ X. thêm

Trần Độ A ,

ayes

tag
“Vài nét4, vềCA Hoa kiên
dG Myanma”

'

A

^
, Nghiên
cứu Đông
Nam Á.,{ số a 3, 199]


udu udu tée ughtéfe

Trang

l4.

hướng dẫn đến định cư ở vùng Đông Phố. Từ đây, họ phân tán xuống miễn Tây

Nam bộ (Mỹ Tho) hay miền Đông Nam bộ (Biên Hba)!.
Nam 1715, thêm một nhóm đơng đảo
Nam Việt Nam cũng bằng đường biển. Cầm
Mạc Cửu. Họ được phép đến định cư tại một

Hà Tiên, và được hưởng qui chế tự trị. Được

người Hoa tìm đến
đâu họ là một viên
vùng ở tận cùng đãi
sự khai phá của họ,

lánh nạn ở miền
quan đại thần tên
đất phía Nam tức
Hà Tiên dẫn dần

trở thành trung tâm thương mại, tiểu thủ cơng nghiệp và văn hóa. Con trai của Mạc
Cửu đã lập hội tao đàn, phổ biến học thuyết Khổng Tử. Tất cả những hoạt động này
đã nhận được sự khuyến khích của các chứa N guyén’.

|

Từ thế kỷ XVIH, người Hoa khi tìm sang Việt Nam thường đến miễn Nam

(tức Đằng trong). Lý do có thể là các chúa Nguyễn đã tạo cho họ nhiều điều kiện

thuận lợi hơn so với miễn Bắc (tức Dang ngoài). Chúa Nguyễn hi vọng họ sẽ trở
thành chỗ dựa xã hội và chính trị ở vùng đất mới, nơi số người Việt hãy còn it di so
với các dân tộc bản địa, vốn chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác.

Trong khi đó ở Đàng ngồi, vua Lê và sau đó Chúa Trịnh lại thi hanh chinh
sách chèn ép các di dân người Hoa. Họ không được phép tự do độ lại trong nước,
thương nhân người Hoa chỉ được buôn bán ở những địa điểm đã được qui định sẵn.
Người Hoa không những phải tuân theo các phong tục và tập quán của người Việt

Nam, mà họ còn bị buộc mặc quan áo và để đầu tóc như người bản xứ. Số thợ
người Hoa làm việc ở những nơi khai thác quặng mỏ, đặc biệt là quặng bạc bị giới
hạn. Tuy nhiên, như các nguồn sử liệu thời đó cho thấy lệnh này thường khơng
được tn thủ nghiêm ngặt. Dù bị cấm đoán, tại mỏ bạc Đồng Thịnh số công
nhân
người Hoa lên đến 10.000. Các di dan người Hoa sống lẫn lộn với người địa phương.
Họ mở các hiệu buôn và quán ăn. Du không được phép sống ở Thăng Long, họ
vẫn

tìm cách mở các quán hàng

ở đây Ÿ.

Trong khi đó, các c chứa. Nguyễn lại theo đuổi một chính sách khác hẳn. Họ
‘cho phép đi dân người Hoa được tự do ghé lại tất cả các cảng. Ở cảng Hội An
trên
sông Thu Bồn

xuất hiện các điểm cư trú của thương

nhân

và thợ thủ công

người

Hoa. Ở các thị trấn, di đân người Hoa được phép sống quần tụ thành từng khu riêng

biệt và được phép tự quản theo các truyền thống, lễ thói lâu nay của người
Trung

Quốc. Q trình xây dựng các thị trấn mới ở miễn Nam từ thế kỷ XVII đều
diễn ra

VỚI sự tiếp tay của người Hoa.

-

' Đào Trinh Nhất - Thế lực khách trú và vấn dễ di dân vào Nam Kỳ. Hà Nội, 1924,
tr. 14-16
? Boudet P. La conquéte de la Cochin-Chine Par les Nguyen et le role des
Emigres Chimois.

- Buletin de Ecole Fracaise d’Extréme Orient. HaNoi , 1943 ,N° 42 .p. 115 - 132

, Fujiwara Ruchiro. Chinh sach đối với dân ‘Trung Hoa di cw ciia các triển
dại Việt Nam
- Khảo cổ. 1974, số VIII - tr. 143-152

.


“đuậu uău tất ughtife



- Trang



Trong thời kỳ diễn ra cuộc nổi dậy của phong trào Tây Sơn chống chúa

Nguyễn, cư dân đô thị người Hoa do sợ mất đi sự đỡ đầu của chính quyền, đã khơng
ủng hộ phong trào. Vì lẽ này, họ đơi khi phải trả giá đắt. Nhiều nơi cư trú của họ đã
bị quân Tây Sơn đốt trụi, riêng ở Chợ Lớn không dưới một vạn người Hoa bị giết".

Năm 1802, triểu Tây Sơn bị diệt. Triểu đại mới lên cầm quyển là nhà Nguyễn. Một
trong những sắc chỉ đầu tiên của chính quyển mới là thu hút vào làm trong bộ máy

công quyển và quân độ..

Ở Campuchia, người Hoa bắt đầu tìm đến định cư từ cuối thế kỷ XVH. Một
_ số người Hoa sau khi đến Mỹ Tho đã ngược đòng Cửu Long đi sâu vào bên trong

lãnh thổ Campuchia. Một vùng khác ở xứ này có số người Hoa đáng kể là tỉnh

Kampot nằm bên bờ vịnh Xiêm La. Cai quản họ không ai khác hơn chính là Mạc
Cửu, được vua Campuchia phong cho chức Tổng Đốc. Lãnh thổ thuộc quyền cai trị

của ông này trai đài từ Kampot đến Cà Mau. Người Hoa ở các miền này sống chủ
yếu trong các thị trấn và làm nghề bn bán. Họ kiểm sốt hầu hết các hoạt động
mậu dịch giữa Việt Nam và Campuchia. Năm

1859, Mouhot, một khách du hành

người Pháp, khi viếng Kampot đã ghi nhận rằng trong thị trấn có 3.000 cư dân này,
người buôn bán ở chợ chủ yếu là người Hoa và một.số ít người Âu, cịn trong số
10.000 cư dân Phnompenh, người Hoa chiếm đại bộ phận.
Thương nhân người Hoa sinh sống trên lãnh thổ Campuchia bị buộc phải cung
'cấp các khoản chi phí dùng vào việc tiếp rước các quan chức địa phương, đài thọ
việc tổ chức các lễ hội của người bản xứ... Ngồi ra, họ cịn phải đóng thuế tương


xứng với số tài sản của mình, thuế hành nghề ngoại thương, bn bán ngồi chợ...
Trong cộng đơng di đân người Hoa ở Campuchia, có một số không nhiều sinh sống
bằng nghề nông: họ trồng bông và tiêu. Sản phẩm của họ được mang ra bán ở chợ.

Như vậy, nơng đân người Hoa xét theo khía cạnh này vẫn rất khác nông đân bản
xứ, vốn vẫn canh tác trong khuôn khổ một nền kinh tế tự nhiên.
|

Theo luật lệ Khơmer, người Hoa sinh sống ở Campuchia được coi là thần dân
của nhà vua, nhưng họ được bầu người đứng đầu cộng đơng. Ơng này chịu trách
nhiệm thu thuế và giữ gìn trật tự. Họ được miễn các nghĩa vụ lao dịch và binh dịch,

đồng thời có thể giữ các chức vụ trong bộ máy công quyền bằng cách mua các chức

quan. Dù người Hoa ở Campuchia có các tổ chức cộng đồng riêng của mình, họ
khơng sống khép kín, mà thường xuyên quan hệ với người địa phương.

Cho đến nửa sau thế kỷ XIX, số người Hoa sinh sống ở Lào là rất ít. Họ chủ
yếu là con chấu của người Hoa đến đây định cư trong các thế kỷ XV-XVI. Cộng
đồng của họ sau này có phát triển lên ít nhiều là nhờ mở rộng các quan hệ mậu
dich với người láng giềng phía bắc...
=
' Fujiwara Ruchiro . Sdd , p. 156
” Fujiwara Ruchiro , Sdd , p. 170



+

* Coedes G. Les peuples de la peninsule Indochinoise . P. 1962, p. 198-199



“Trang \6

Ludn vin tt ughtif~e

đảo Đông Dương đã diễn
Như vậy, có thể nhận thấy rằng trên lãnh thổ bán
như là một bộ phận cấu
ra quá trình hình thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa
g gây ra
ra một cách tự nhiên, khôn
thành bền vững của xã hội đa sắc tộc. Nó diễn

từ cuối thế kỷ XIV, q trình
những chấn động xã hội hoặc chính trị lớn. Bắt đầu
i di dân từ Trung Quốc sang và
vừa kể kéo dài vài thế kỷ, trong đó các thế hệ ngườ
. Giữa họ khơng diễn ra các
dân bản địa sống hòa lẫn vào nhau một cách tự nhiên
cuộc va chạm đáng

kể nào, hay có những

xung khắc

về

văn hóa hoặc


tơn giáo

gắn kết với nhau bằng những
khơng thể hòa giải được. Hơn thế nữa, họ còn được
những nét đặc sắc xã hội-văn
quyển lợi chung nhất định, mặc dù họ vẫn giữ gìn

hoạt hàng ngày của mình. Chẳng
hóa, và bằng những nét đặc thù trong nếp sinh
sau thế kỷ XVII đã tích cực tham
hạn, như di dân người Hoa ở Xiêm La trong nửa

g đất nước khỏi ách thống trị
gia vào hoạt động đấu tranh quân sự nhằm giải phón
của Miến Điện.

này đã bị phá vỡ sau khi
Tuy nhiên, tiến trình hịa nhập một cách tự nhiên
vào Đơng Nam Á và biến các
chủ nghĩa tư bản thực đân phương Tây xâm nhập
thuộc. Số phận của các nhóm
quốc gia trong vùng thành các thuộc địa hay nước phụ

sắc tộc người Hoa cũng bị biến cố này tác động rất mạnh.

|


Ludu vã


Trang

cất v22,

17

CHƯƠNG H
SỰ HÌNH THÀNH

CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG THỜI KỲ:

TƯ BẢN THỰC DẦN PHƯƠNG TÂY XÂM

LANG ĐÔNG NAM Á

(THẾ KỲ XVI- THỂ KỸ XIX)



I 1. MOI QUAN HE KINH TẾ GIỮA NGƯỜI HOA VÀ TƯ BẢN THỰC DÂN
CHÂU ÂU.
đã
Sự xâm nhập của tư bản thực dân phương Tây vào các nước Đông Nam Á
trong
tác động mạnh đến tồn bộ tiến trình hình thành các cộng đồng người Hoa

thay đổi
vùng. Tất cả đều thay đổi: nhịp độ và động lực của các đợt di đân, nhưng

của

chính yếu nằm trong cấu trúc xã hội, địa hạt sinh sống, phong cách sinh hoạt
Di
các cộng đồng người Hoa và tính chất các mối quan hệ giữa họ với dân bản địa.
sản của một thời kỳ dài bị thực dân thống trị vẫn còn để lại những ảnh hưởng tiêu
cực đến diện mạo xã hội của các cộng đồng người Hoa, đến nhận thức xã hội của
hậu duệ của các di dân người Hoa đầu tiên và đến các môi quan hệ phức tạp hiện
nay giữa Hoa kiểu và dân bản địa Đông Nam A.

Khi những thực đân Chau Âu đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á trong thế kỷ
XVI, họ đã bị những thương nhân người Hoa định cư ở đây từ lâu tiếp đón với thái
độ thù địch. Trước đó, thương nhân người Hoa đã phải cạnh tranh với nhiều thương
nhân ngoại quốc khác- Ấn, A Rap, Nhat. Nhung cạnh tranh với người Bồ Đào Nha,
Hà Lan và những người Âu khác là chuyện khó khăn hơn nhiều. Vì những thương
nhân Âu này thường đi chung với những đạo quân được trang bị hùng hậu. Nhờ đó,
họ đễ đàng đánh chiếm các cứ điểm, để rồi biến chúng thành các thương điểm
riêng lẻ, và cuối cùng mở rộng ra thành các khu thuộc địa thị tứ rộng lớn. Họ cũng
khuất phục khơng ít các q tộc địa phương bằng nhiều cách khác nhau: mua chuộc
hay vũ lực. Và hoạt động kinh doanh của họ cứ thế phát triển mạnh

lên trước con

mắt ganh ty của thương nhân người Hoa.

Nhung dan đà với thời gian, hai bên phát hiện ra rằng có những lĩnh vực nhất
định mà sự cộng tác giữa hai bên sẽ mang lại nhiều ích lợi cho cả hai. Các thương
nhân Châu Âu cần có một số lượng ngày càng lớn những hàng hóa đã được họ
tuyển chọn, nhưng khơng thể thu mua đủ số vì vấp phải nhiều trở ngại- -bất đồng
ngôn ngữ, không thông hiểu tập quán địa phương hay 1é thoi mua bán. Trong khi đó,
cấu trúc xã hội các nước Đơng Nam Á chưa phân hóa:đủ sâu sắc để cho ra đời tầng
lớp thương nhân chuyên


nghiệp bản xứ. Vậy

lä vai trò của các thương

nhân

người

Hoa với kinh nghiệm mua bán nhiều năm với dân địa phương đã được xác lập như
là người trung gian giữa thương nhân Âu với nông dan, thợ thử công và đơi khi
phong kiến bản địa. Ngồi ra,|@pnbiiriiag]n nhân tương tự, khơng ít thương nhần



×