Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

(Luận văn thạc sĩ) THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH bảo tồn DI sản văn HÓATẠI DI TÍCH KHẢO cổ cát TIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRIỆU VĂN KHOAY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, DI SẢN VĂN HĨA TẠI DI TÍCH
KHẢO CỔ CÁT TIÊN

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI VĂN LIÊM

LÂM ĐỒNG, 2021

ii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TCXD

Tiêu chuẩn xây dựng

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TT-BXD

Thơng tư Bộ Xây dựng



KCH

Khảo cổ học

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

Nxb

Nhà xuất bản

KHXH

Khoa học Xã hội

DSVH

Di sản văn hóa

Dl-Dv

Du lịch - dịch vụ

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sĩ

TK


Thế kỷ

QĐ-UB

Quyết định Ủy ban

vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lâm Đồng là vùng đất cổ ở Nam Tây Nguyên, nơi có nhiều di tích khảo cổ học
đã được phát hiện và nghiên cứu. Di tích Khảo cổ Cát Tiên (Lâm Đồng) được phát hiện
từ năm 1985, quá trình khai quật và nghiên cứu di tích đã mang lại những kết quả bất
ngờ, gây tác động lớn trong nghiên cứu văn hóa, lịch sử, khảo cổ của vùng đất này.
Đây là một quần thể di tích rộng lớn bao gồm nhiều kiến trúc gạch đá nằm rải rác bên
tả ngạn sông Đồng Nai với chiều dài hơn 18km từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và
Gia Viễn của huyện Cát Tiên, trong đó tập trung chủ yếu ở khu vực xã Quảng Ngãi.
Những giá trị khoa học về lịch sử, văn hóa, kiến trúc, tôn giáo, … thể hiện qua sự
phong phú, đặc sắc từ các di tích và di vật được phát hiện qua các đợt khai quật đã đặc
biệt tạo nên sự hấp dẫn và quan tâm đặc biệt trong giới khoa học trong và ngồi nước.
Khu di tích Cát Tiên có quy mơ lớn, ẩn chứa trong lịng đất nhiều tư liệu quý thể hiện
những nét độc đáo và mối quan hệ chặt chẽ với các văn hóa Champa, văn hóa Ĩc Eo và
văn hóa Ấn Độ. Với những giá trị đặc thù đó di tích khảo cổ Cát Tiên đã được Thủ
tướng Chính phủ quyết định cơng nhận di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2014.
Hơn 30 năm qua, kể từ khi được phát hiện 1985 cho đến nay, các hoạt động
nghiên cứu, khảo sát khảo cổ và bảo tồn hiện trạng di tích Cát Tiên vẫn đang tiếp diễn.
Những nghiên cứu về di tích khảo cổ học Cát Tiên của các học giả trong thời gian dài
vừa qua, tuy chưa thống nhất nhưng đã góp phần vào việc khẳng định giá trị của di

tích. Đồng thời, đây cũng là đánh giá mức độ bảo tồn di tích chưa thực sự được hệ
thống hóa, phân tích và tổng kết, giải đáp khoa học một cách trình tự có hệ thống đầy
đủ chính xác. Trong đó vấn đề niên đại, chủ nhân, chức năng của từng di tích, hệ thống
hóa tiến trình của di tích, mối quan hệ giữa các di tích khảo cổ Cát Tiên với văn hóa
Phù Nam – Ĩc Eo và văn hóa Chăm Pa? Đặc biệt hơn là cơng tác bảo tồn cịn tồn tại
nhiều hạn chế nhất định. Tình trạng gạch kiến trúc bị hồn thổ do q trình lịch sử các
đền, tháp, các cơng trình kiến trúc khác bị xơ lệch bợi nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ
1


quan, chưa xác định bản đồ phân bố, phân khu trong tổng thể của các di tích trong cả
quần thể, bản đồ các hạng mục di tích,…trụ sở làm việc, lẫn khu vực nghiên cứu
chuyên môn, xác lập các giá trị vốn có của quần thể di tích cũng như chưa định hướng
được nhiệm vụ công tác bảo tồn dù được các cấp các ngành quan tâm đặc biệt. Từ
những vấn đề cơ bản trên đây đã bộc lộ những hạn chế cơ bản hoạt động bảo tồn trong
suốt thời gian qua. Thiết nghĩ cần có một cơng trình nghiên cứu tổng qt về các chính
sách cơng liên quan đến hoạt động bảo tồn tại di tích khảo cổ Cát Tiên nhằm lựa chọn,
vận dụng những chính sách cần thiết, hữu dụng phù hợp với các điều cụ thể của địa
phương nhằm định hướng được mục tiêu cho các nhà hoạt động bảo tồn, tạo ra những
động lực để đạt được các mục tiêu, phát huy tốt những mặt tích cực, khắc phục những
hạn chế, tạo ra cân đối những nguồn lực, kiểm soát được mục tiêu và nguồn lục để xây
dựng định hướng thích ứng với mỗi thời kỳ của xã hội và tạo ra môi trường phù hợp,
hợp lý trong thời đại cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thể hiện rõ trong hệ thống
nghị quyết phát triển địa phương. Bảo tồn di tích khảo cổ học Cát Tiên sẽ là nhiệm vụ
chính trị trong q trình phát triển vùng tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nhiệm vụ khoa
học đầu ngành mang tính bước ngoặc trong quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế khu
vực và địa phương
Là cán bộ hiện công tác tại Bảo tàng Lâm Đồng, trực tiếp tham gia nhiều hoạt
động về nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích, được sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Bùi Văn Liêm tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực hiện

chính sách bảo tồn di sản văn hóa tại di tích khảo cổ Cát Tiên” cho luận văn Cao học
của mình. Với hy vọng góp phần hệ thống hóa tư liệu, tìm hiểu thực trạng di tích,
nghiên cứu mới và đề xuất các cơ chế, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
nhằm đưa được những giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tại di tích khảo cổ
Cát Tiên. Mong ước trong thời gian sớm nhất di tích khảo cổ Cát Tiên trở thành điểm
đến hấp dẫn, vừa là nơi trải nghiệm có hiệu quả về những giá trị văn hóa, lịch sử của
tỉnh Lâm Đồng, vừa là danh thắng thu hút du khách trong và ngồi nước, góp phần
2


phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng an ninh của tỉnh Lâm Đồng, Tây
Nguyên và vùng Đơng Nam Bộ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nhóm tài liệu liên quan đến thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa
ở Việt Nam.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong các nghị quyết và cương lĩnh
chính trị của Đảng đều nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến giữ gìn
di sản văn hóa dân tộc. Ngày 3/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và cơng bố Sắc
lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên tồn cõi Việt Nam.
Từ hệ thống đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và
thu hút nhiều nguồn lực hợp tác nghiên cứu với các cơ quan ban ngành trong và ngoài
nước. Hơn 60 năm qua, theo chức năng và nhiệm vụ ngành Khảo cổ học đã lần lượt
được giao thực hiện một hệ thống các đề tài và nhiệm vụ phong phú, đa dạng trong
việc nghiên cứu lịch sử - văn hóa - văn minh Việt Nam. Ngoài hệ thống đề tài cấp Viện
được thực hiện hàng năm, theo chủ trương phê duyệt từ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, từ năm 1968 đến năm 2012, ngành Khảo cổ học đã phối hợp với các cơ
quan nghiên cứu trong và ngồi nước, tích cực phối hợp liên ngành, liên cơ quan lần
lượt triển khai thực hiện trên 50 nhiệm vụ và đề tài do Nhà nước, Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam giao thực hiện, tiêu biểu là các chương trình, nhiệm vụ lớn như sau:

- Mở đầu là đề tài cấp Nhà nước Nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng dựng nước,
dưới sự lãnh đạo của Cố GS. VS. Nguyên viện trưởng Viện Khảo cổ học Phạm Huy
Thông nhằm chứng minh thời kỳ các vua Hùng dựng nước là có thật.
- Năm 1993 đến năm 1998, ngành Khảo cổ học đã thực hiện nhiệm vụ đặc biệt
cấp Nhà nước do Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trực tiếp giao: Nghiên cứu cơ bản khảo
cổ học Trường Sa - Tây Nguyên - Nam Bộ.

3


- Năm 2001, khai quật và di dời 11.000m2 di chỉ khảo cổ học Lung Leng
(Kon Tum).
- Năm 2005-2006, khai quật và di dời 8.000m2 di chỉ Khảo cổ học PleiKrong
(Kon Tum).
- Năm 2002-2008, khai quật, di dời và bảo tồn cấp thiết 33.000m2 khu di tích
Trung tâm Hồng thành Thăng Long (Hà Nội).
- Năm 2008-2010, khai quật, di dời 31 di tích Khảo cổ học tại khu vực lịng hồ
thủy điện Sơn La.
- Khai quật, di dời 15 di tích ở lịng hồ thủy điện Tun Quang.
- Năm 2011-2012, khai quật, di dời 12 di tích khảo cổ Huội Quảng - Bản Chát
(Sơn La).
Ngành Khảo cổ học được Nhà nước giao nhiều nhiệm vụ nghiên cứu và khai
quật các địa điểm khảo cổ học có diện tích lớn với kết quả tốt được công luận đánh giá
cao như khai quật khu di tích Hồng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu, nhà nghiên
cứu trứ danh Trần Bạch Đằng khẳng định: “Phát hiện Hồng thành Thăng Long dưới
lịng đất- Thành tựu số 1 của khoa học lịch sử Việt Nam” (Khảo cổ học số 1/2006: 68).
- Nghiên cứu, lần tìm những trang sử xa xưa nhất của Tổ quốc - “thời kỳ tổ tiên
của tổ tiên ta” (Phạm Huy Thông); “Đối với lịch sử Việt Nam, khảo cổ học gần như
giữ vai trị thống sối trong nghiên cứu thời Tiền sử, thời Sơ sử” (Phan Huy Lê 2004:
23). Các nhà tiền sử học của Viện đã bền bỉ vượt mọi khó khăn nguy hiểm, tiến hành

khảo sát, thám sát và khai quật ở khắp các vùng núi cao, rừng rậm, lần lượt xác định
bước đầu các dấu mốc của những trang sử tối cổ của Tổ quốc. GS. NGDN. Phan Huy
Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khẳng định: “Khảo cổ học là người bạn
đồng hành với sử học trong nghiên cứu thời Cổ - Trung đại cho đến thời Cận - Hiện
đại. Nhiều phát hiện của các nhà khảo cổ học với giá trị chân thực của các di tích, di vật
đã buộc các nhà sử học phải xem xét lại nhận thức của mình và cùng nhau nâng cao trình
độ của khoa học lịch sử cho phù hợp hơn với đối tượng là lịch sử khách quan luôn tồn tại
4


- Giá trị thứ hai: Khẳng định và chứng minh trong giao lưu phong phú và rộng
mở với các nước trong khu vực Đơng Á, Đơng Nam Á, văn hóa và văn minh Việt Nam
đã thể hiện được sự hội tụ và kết tinh các tinh hoa văn hóa của khu vực và văn hóa bản
địa để sáng tạo nên một nền văn minh Đại Việt phong phú mang đậm sắc thái Việt
Nam (trích ý của Quyết định số 34 COM8B.22 năm 2010 của Ủy ban Di sản Thế giới
đánh giá giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long).
Trước năm 1975, khảo cổ học Champa được các học giả phương Tây đặc biệt
chú ý đến các đền tháp. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, ngành Khảo cổ học đã
chú ý nghiên cứu các tịa thành Chăm, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự
của Champa qua các khu vực khác nhau như thành Thi Nại, An Thành, Chà Bàn, Châu
Sa, Trà Kiệu... hợp tác nhiều năm với các nhà khảo cổ học Nhật Bản, Bỉ trong nhiều
năm trong việc làm rõ trung tâm sản xuất gốm Gò Sành, Trương Cửu, góp phần làm
sáng tỏ diễn biến của văn hóa Chăm, q trình giao lưu hịa hợp văn hóa Việt - Chăm.
Nghiên cứu nguồn gốc, nội dung và diễn biến của văn hóa Ĩc Eo. Văn hóa Ĩc
Eo đã được nghiên cứu và định danh từ thời Pháp thuộc. Sau năm 1975, bộ phận khảo
cổ học phía Nam đã tiếp tục nghiên cứu nhiều di tích kiến trúc Ĩc Eo. Theo chương
trình của Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nghành Khảo cổ học chủ trương đẩy mạnh việc
nghiên cứu văn hóa Ĩc Eo với mục tiêu chủ đạo là cùng với việc tiếp tục nghiên cứu
các di tích kiến trúc, nguồn gốc văn hóa Ĩc Eo, diễn biến của văn hóa Ĩc Eo nhằm
cung cấp nguồn sử liệu có giá trị khoa học cao góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh lãnh

thổ và lãnh hải Việt Nam và nhận thức vai trò to lớn của khảo cổ học trong việc nghiên
cứu lịch sử dân tộc. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã giao ngành Khảo cổ học tiến hành
chương trình đặc biệt Điều tra, nghiên cứu cơ bản khảo cổ học Trường Sa - Tây
Nguyên - Nam Bộ. Đề tài đã được Viện Khoa học xã hội Việt Nam chỉ đạo tiếp nối
trong các năm 1996, 1997, 1998 và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Quần đảo Trường Sa đã phát hiện các dấu tích của người Việt liên tục có mặt ở đây từ
khoảng thế kỷ X đến thế kỷ XIX-XX, chứng minh rất rõ chủ quyền của Việt Nam từ
6


rất sớm tại quần đảo Trường Sa. Khu vực Tây Nguyên, 150 di tích tiền, sơ sử và lịch
sử cũng đã được phát hiện và nghiên cứu. Đã làm rõ và phân lập được một hệ thống
các Văn hóa Tiền sử ở Tây Nguyên trong mối quan hệ giao lưu rộng mở để tiến tới hòa
hợp dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nam Bộ, Chương trình đã tập
trung nghiên cứu gợi mở các con đường tiến lên văn hóa Ĩc Eo và đặc trưng văn hóa
Ĩc Eo... Tổng kết chương trình, GS. NGND Hà Văn Tấn, nguyên Viện trưởng Viện
Khảo cổ học khẳng định hai thành tựu chính: Thứ nhất: “Chúng ta đang có cơ may tìm
được nguồn gốc một nền văn minh: Văn hóa Ĩc Eo”; Thứ hai: “Các văn hóa tiền Ĩc
Eo, và do đó cả văn hóa Ĩc Eo là của những người nói tiếng Nam Đảo chứ khơng phải
là người Khơme… Đây là giả thuyết khoa học nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa chính
trị” (Khảo cổ học Trường Sơn - Tây Nguyên - Nam Bộ 1996, Tư liệu Viện Khảo cổ
học: 6-7). Các kết luận này hiển nhiên cịn mang tính giả thuyết, nhưng là những giả
thiết có cơ sở khoa học bước đầu đáng tin cậy. Nó giúp chúng ta các chứng lý khoa học
lịch sử vững chắc khẳng định chủ quyền dân tộc ở khu vực Nam Bộ.
Các chương trình nghiên cứu trên đây vẫn đã và đang được tiếp tục nghiên cứu
lâu dài. Các di sản khảo cổ học là một bộ phận quan trọng mật thiết trong hệ thống các
di sản văn hóa dân tộc. Nét đặc biệt của loại hình di sản này là cực kỳ dễ bị phá hủy và
thực tế nhiều di tích khảo cổ học ở Việt Nam đã bị hủy hoại rất nghiêm trọng. Công
ước Quốc tế khảo cổ học Lausanne của UNESCO nhấn mạnh: Di sản khảo cổ học là
một loại hình cực kỳ mong manh và khơng thể tái sinh. Mong manh nghĩa là di sản rất

khó bảo tồn; Khơng thể tái sinh nghĩa là một khi di tích đã mất đi là mất đi vĩnh viễn.
Từ 45 năm trước, khi động viên các nhà khảo cổ học tập trung nghiên cứu thời
các vua Hùng, vua Thục, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ điều này và căn dặn:
“Đất nước ta có thể tàng trữ những di vật q báu khơng những đối với ta mà cịn đối
với nhiều nước trên thế giới. Những di vật ở dưới lịng đất là một kho tàng rất q báu
vơ giá. Nếu để mất đi thì khơng có cách gì lấy lại được. Nếu khơng giữ gìn, có thể nó

7


mất đi, mất thì hết…Phải tìm cách giữ gìn cho được, bảo tồn cho được” (Khảo cổ học
số 1/ 1969: 9-10).
Như vậy, khảo cổ học dưới góc độ của mình nhất thiết phải tham gia mạnh mẽ
vào công tác bảo tồn Di sản văn hóa dân tộc. Thực tế, trong những năm qua, Viện
Khảo cổ học đã góp phần bảo tồn di sản dân tộc trên các phương diện: Phát hiện,
nghiên cứu, đánh giá giá trị di tích, đề xuất, kiến nghị các cấp độ bảo tồn di tích; Xử lý
bảo tồn cấp thiết tại chỗ ngay khi di tích được xuất lộ, hoặc di dời, bảo quản cấp thiết
di tích khi được các cấp có thẩm quyền u cầu; Cung cấp các dữ liệu di tích để các
nhà Bảo tồn học xử lý bảo tồn, xây dựng các kế hoạch, nhiệm vụ tơn tạo di tích.
Xây dựng các hồ sơ khoa học chính là một cấp độ bảo tồn di tích. Theo đó,
ngành Khảo cổ học có trên 670 bộ hồ sơ bao gồm báo cáo khoa học, bản vẽ, bản ảnh,
bản dập, nhật ký khai quật đang được lưu trữ cẩn thận. Hàng loạt hồ sơ đã được các
nhà Bảo tồn học tham khảo phục vụ việc bảo vệ, bảo tồn và trùng tu.
Hiện nay, công tác xây dựng quy hoạch khảo cổ học nhằm bảo vệ tốt các di sản
khảo cổ học trong mối quan hệ hài hịa với cơng tác xây dựng đang được một số địa
phương quan tâm. Với các thành tựu bảo tồn tiêu biểu nói trên, PGS. TS. Nguyễn Quốc
Hùng, Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa đánh giá: “… Với những hoạt động có hiệu
quả thiết thực, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Viện Khảo cổ học đã và đang đóng vai trị
tích cực trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc” (Khảo cổ
học số 5/2004: 36).

Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa 10, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 14-62001, có hiệu lực từ ngày 1-1-2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, phạm vi điều
chỉnh của bộ luật bao gồm cả văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể, quy định cụ thể
việc kiểm kê, sưu tầm vốn văn hóa truyền thống về quản lý bảo vệ và phát huy giá trị
của các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cùng việc xây dựng các bộ sưu tập và tổ chức
các bảo tàng; việc mở hệ thống các cửa hàng mua bán cổ vật, lập các bảo tàng và sưu
8


tập tư nhân; thống nhất việc sử dụng các nguồn thu và trách nhiệm của Nhà nước trong
việc cung cấp ngân sách cho hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa; cho phép tổ
chức trưng bày cổ vật ở nước ngoài, việc người nước ngoài nghiên cứu, sưu tầm các di
sản văn hóa ở Việt Nam và đặc biệt là việc hợp tác quốc tế để bảo hộ những di sản văn
hóa Việt Nam ở nước ngồi.
Tóm lại, từ những góc nhìn lý luận và thực tiễn, có thể thấy thành tựu của cơng
tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vừa qua được thể hiện qua một số mặt
sau đây:
Bằng chính sách xếp hạng của Nhà nước, nhiều di tích có giá trị tiêu biểu về lịch
sử, văn hóa và khoa học đã được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật. Tổng mức vốn đầu
tư hàng năm cho hoạt động tu bổ, tơn tạo di tích liên tục được tăng lên. Như thế,
chương trình mục tiêu quốc gia tu bổ tơn tạo di tích ngày càng có hiệu quả, góp phần
thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa các hoạt động bảo tồn bảo tàng. Nhờ có nguồn
ngân sách đầu tư kịp thời của Nhà nước và cộng đồng xã hội mà nhiều di tích lịch sử
cách mạng đã được cứu thốt khỏi tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, tạo ra những sản
phẩm văn hóa đặc thù, có sức hút mới làm tăng đáng kể số lượng khách du lịch trong
nước và quốc tế đến thăm.
2.2. Các nghiên cứu bảo tồn di sản văn hóa tại di tích khảo cổ Cát Tiên
Sau khi được những người dân địa phương phát hiện, báo cáo với các cơ quan
chức năng và các nhà chun mơn xác định là “di tích khảo cổ” vào năm 1985 thì di
tích được giao cho địa phương quản lý.

* Các cuộc khai quật
- Các cuộc khai quật 1994, 1995, 1996, 1998
Với quy mô mô lớn đã phát hiện nhiều di tích khác thu được nhiều hiện vật
quan trọng, các báo cáo đã ghi nhận chi tiết quá trình hoạt động nghiên cứu các di tích
1A, 2A, 4, 5 các hiện vật thu đượclà cơ sở quan trọng để “tìm hiểu tính chất, loại hình,
niên đại, chủ nhân cũng như những hoạt động tơn giáo kinh tế góp phần quan trọng vào
9


phục dựng tiến trình lịch sử của vùng đất phương nam (báo cáo khai quật di tích trang
87). Đã gợi ra nhiều vấn đề trong xác định chủ nhân của khu di tích – “cùng với di tích
Cát Tiên trên địa bàn phụ cẩn đã phát hiện được nhiều di tích có cùng loại hình văn hóa
như di tích Đạ lak của huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai, di tích Đăng Hà của huyện Bù
Dăng tỉnh Bình Phước. Đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu khi tiến hành di
tích khảo cổ học Cát Tiên và các di tích phụ cận. Phần phụ lục, bản vẽ, của các bản báo
cáo đã thể hiện các chi tiết về bình đồ kiến trúc cũng như hiện vật là cứ liệu quan trọng
mô tả bố cục, quy mô, không gian kiến trúc.
- Các cuộc khai quật 2001
Là tư liệu đặc biệt quan trọng là báo cáo khoa học khai quật di tích cát tiên (Lâm
Đơng năm 2002 do PGS TS Bùi Chí Hồng, TS Đào Linh Cơn (trung tâm nghiên cứu
khảo cổ - Viện khoa học xã hội tại tp HCM ) thực hiện. tiếp nối thành công các đợt
khai quật những năm trước, lần này diện mạo lộ kiến trúc của các di tích ỏ gị 2C, 2D,
3 với số lượng lớn về hiện vật có có giá trị đặc biệt, là cứ liệu khoa học “la2anh1 sáng
dọi vào một cơng trình khoa học hồnh tráng đã từng rực rỡ trong quá khứ ở vùng dất
bày” (báo cáo khoa học khai quật trang 109).
- Các cuộc khai quật 2003
Báo cáo khai quật khảo cổ học tại di tích Đức Phổ Cát Tiên – Lâm Đồng) năm
2003 do PGS TS Bùi Chí Hồng, TS Đào Linh Cơn (trung tâm nghiên cứu khảo cổ Viện khoa học xã hội tại tp HCM ) thực hiện. “Việc khai quật khu di tích Đức Phổ một
lần nữa khẳng định khơng gian văn hóa của thánh địa Cát Tiên cũng như mở ra một
nhận thức mới về sự đa dạng trong mơ hình kiến trúc tháp – đền tháp .. có tầm vóc

khơng kém những trung tâm kiến trúc có ảnh hưởng Ấn – Phật giáo vùng Đông Nam Á
….” (trang 24 báo cáo).
- Cuộc khai quật 2006 do PGS. TS Bùi Chí Hồng, Trung tâm Nghiên cứu khảo
cổ thuộc Viện Khoa học xã hội Tp. HCM thực hiện. Lần khai quật này đã làm rõ diện
mạo kiến trúc di tích IIc, IIc, III, làm rõ quy mơ, bình diện tổng thể của cụm di tích.
10


Kết quả đã cho thấy đây là một quần thể kiến trúc vô cùng độc đáo, thu nhận được
nhiều hiện vật có giá trị khoa học cả về văn hóa lẫn lịch sử.
* Hội thảo khoa học
- Hội thảo khoa học về di tích khảo cổ Cát Tiên lần 1 năm 2001:
Nhằm làm rõ hơn các giá trị văn hóa, lịch sử của di tích, tháng 3/2001 UBND
tỉnh Lâm Đồng, Ngành văn hóa thơng tin Lâm Đồng đã tổ chức hội thảo khoa học về di
tích khảo cổ Cát Tiên năm 2001. Hội thảo có sự tham gia nhiều nhà khoa học nổi tiếng
như GS Trần Quốc Vượng, PGS Hoàng Xn Chinh, TS Lê Đình Phụng, Cao Xn
Phổ, PGS Ngơ Văn Doanh, GS.TS.KTS Hồng Đạo Kính…nhiều phát biểu đã làm rõ
thêm giá trị của quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên (kể cả những giả thiết và so sánh…)
về chủ nhân và niên đại bước đầu đã được giải luận.
Hai bài tham luận ( Vấn đề trùng tu di tích cát Tiên- Lâm Đơng của tác giả
Nguyễn Hồng Kiên, Một vài gợi ý cho việc định hướng ứng xử với khu di tích khảo cổ
cát Tiên của GS.TS. KTS Hồng Đạo Kính) đều cho rằng việc trùng tu cần được tiến
hành ngay.
- Hội thảo khoa học về di tích khảo cổ Cát Tiên lần 2 năm 2008
Nhằm làm rõ hơn các giá trị văn hóa, lịch sử của di tích, tháng 12/2008 Sở Văn
Hóa Thể Thao và Du Lịch Lâm Đồng, đã tổ chức hội thảo khoa học về di tích khảo cổ
Cát Tiên lần. Hội thảo có sự tham gia nhiều nhà khoa học nổi tiếng như TS Lê Đình
Phụng, Cao Xn Phổ, PGS Ngơ Văn Doanh…nhiều phát biểu đã làm rõ thêm giá trị
của quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên như “ tư liễu thu được khẳng định giá trị vô cùng
to lớn trong lịch sử phương Nam, văn hóa dân tộc nói chung, là trung tâm tôn giáo

của cộng đồng cư dân vùng đất phía Nam, có triển vọng lớn trong phát triể du lịch về
cuội nguồn lịch sử.
* Luận án tiến sĩ “Khu di tích Cát Tiên (Lâm Đơng)” năm 2002 và một số bài
viết đăng trên hội thảo, tạp trí, TS Nguyễn Tiến Đơng cũng đã có nhận định “với mật
độ di tích …cùng với nhiều linh vật thờ tìm thấy ở khu di tích Cát Tiên có thể xác dịnh
11


đây một thánh địa của của một quốc gia Ấn Giáo thuộc về hệ thống sông Đồng Nai
…quốc gia này có thể được lập từ thời Phù Nam – Ĩc Eo. Sau khi Phù Nam tan rã
quốc gia này đứng độc lập giữa Chăm Pa và Chân Lạp.
* Pháp lý công nhận mức độ
Với những giá trị khoa học nổi bật về lịch sử văn hóa nghệ thuật của di tích
khảo cổ học Cát Tiên đã được Bộ Văn hóa Thơng tin (nay là bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch) cơng nhận di tích gia vào năm 1997 theo QĐ số 2890/ VH/QĐ ngày
27/9/1997 của Bộ Văn hóa Thơng tin và đến năm 2014 di tích khảo cổ học Cát Tiên đã
được thủ tướng chính phủ ký QĐ xếp hạng di tích quốc gia đăc biệt theo QĐ
2408/QĐ/QĐ-TTg ngày 31/12/2014
* Cơng trình sách: Cơng trình sách có tính độc lập “Di tích Cát Tiên Lâm Đồng
– Lịch sử và văn hóa” của tiến sĩ Lê Đình Phụng với 383 trang do nhà xuất bản Khoa
học xã hội in năm 2007 gồm 3 chương.
* Đề tài “Nghiên cứu giải pháp bảo tồn và phát huy di tích khảo cổ Cát Tiên Lâm Đồng” do Sở Khoa học và Công nghệ Lâm Đồng quản lý và cơ quan thực hiện là
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Tp. HCM.
Chương trình hoạt động cơng tác bảo tồn di tích khảo cổ Cát Tiên do Sở Văn
hóa Thể Thao và Du Lịch Lâm Đồng quản lý điều hành theo quy định của chính phủ về
quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơng trình và Nghị định số 83/2009/NĐ-CP và các
quy định hiện hành khác.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào hồn chỉnh
trong việc nghiên cứu về bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích Cát Tiên một cách
hiệu quả nhất. Tuy nhiên những tài liệu trên đây là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu

trước, kế thừa và nối tiếp các cơng trình nghiên cứu khoa học tiếp theo.
2.3 Rút ra những gì kế thừa và khơng kế thừa.
Cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào hoàn chỉnh trong việc
nghiên cứu về bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích Cát Tiên một cách hiểu quả
12


nhất. Tuy nhiên những tài liệu trên đây là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu trước, kế thừa
và nối tiếp các cơng trình nghiên cứu khoa học tiếp theo.
Chương trình hoạt động cơng tác tác bảo tồn di tích khảo cổ Cát Tiên do Sở Văn
hóa Thể Thao và Du Lịch Lâm Đồng quản lý điều hành theo quy định của chính phủ về
quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơng trình và Nghị định số 83/2009/NĐ-CP và các
quy định hiện hành khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách bảo tồn giá trị văn hóa
tại quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện các chính sách này nhằm bảo vệ di tích, chống lại những xâm phạm
từ các yếu tố khách quan, chủ quan đồng thời đưa quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên trở
thành một địa điểm tham quan du lịch, nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc,…
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng qt về các chính sách cơng liên quan đến hoạt động bảo tồn
tại di tích khảo cổ Cát Tiên nhằm lựa chọn, vận dụng những chính sách cần thiết, hữu
dụng phù hợp với các điều cụ thể của địa phương nhằm định hướng được mục tiêu cho
các nhà hoạt động bảo tồn, tạo ra những động lực để đạt được các mục tiêu, phát huy
tốt những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tạo ra cân đối những nguồn lực,
kiểm soát được mục tiêu và nguồn lục để xây dựng định hướng thích ứng với mỗi thời
kỳ của xã hội và tạo ra môi trường phù hợp, hợp lý
Hệ thống hóa, đánh giá các cơ chế chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
về bảo tồn quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Các chính sách bảo tồn di sản văn hóa tại khu di
tích Cát Tiên (Lâm Đồng).
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
13


Khơng gian: Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (Di tích khảo cổ Cát Tiên).
Thời gian: Thời gian nghiên cứu từ 1985 đến 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát, điền dã: Dựa trên những thông tin thu thập được trong
quá trình khảo sát thực tế tại khu di tích Cát Tiên, người nghiên cứu rút ra những nhận
định của mình về thực trạng cơng tác quản lý tại di tích, những yếu tố tác động đến vấn
đề bảo tồn di tích và những giải pháp về chính sách bảo tồn giá trị văn hóa cho khu di
tích này.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở những tài liệu, tư liệu và các cơng
trình nghiên cứu khoa học về khu di tích của những tác giả đi trước để lại, những chính
sách, chủ trương trong công tác quản lý của Nhà nước, người viết có cơ sở để nghiên
cứu và đi sâu vào nghiên cứu thực trạng quản lý Nhà nước đối với khu di tích, các quan
điểm nhận thức của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và đưa ra những kiến nghị nhằm
khắc phục những khó khăn cần tháo gỡ.
- Phương pháp phân tích: Dựa trên những thơng tin đã thu thập được qua công
tác khảo sát điền dã, trực tiếp phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu, người viết sẽ phân tích
được những điểm mạnh, yếu và những khó khăn cũng như hạn chế, thách thức trong
công tác quản lý đối với di tích. Từ đó, đưa ra những hướng khắc phục, phát huy tối đa
hiệu quả trong công tác quản lý.
- Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu di tích và cơng tác quản lý
di tích, người viết sẽ sử dụng phương pháp so sánh với một số di tích khác trong địa
bàn, để thấy được giá trị của di tích cũng như cách quản lý di tích.

- Phương pháp nghiên cứu liên nghành: Trong nghiên cứu toàn diện về các giá
trị du lịch- dịch vụ, các biện pháp, phương pháp bảo tồn tổng thể về các giá trị của
quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên, dân tộc học, văn hóa học, du lịch – dịch vụ, khoa
học tự nhiên, kỹ thuật kinh tế… Xác định các giá trị tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng
14


du lịch và các biện pháp liên quan. Từ đó có giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội, du lịch và dịch vụ tại quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên, huyện Cát Tiên và các
vùng phụ cận.
- Phương pháp tổng hợp: Từ những thông tin cũng như tư liệu đã thu thập và
nghiên cứu, người viết sẽ tiến hành tổng hợp và đánh giá về thực trạng quản lý tại di
tích, đưa ra những giải pháp có thể khắc phục, tháo gỡ những khó khăn, hạn chế trong
cơng tác quản lý tại di tích. Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp liên nghành
nhằm làm nổi bật tính cấp thiết, ý nghĩa của cơ chế chủ trương, chính sách bảo tồn di
sản văn hóa nói chung và bảo tồn và phát huy giá trị của quần thể di tích khảo cổ Cát
Tiên nói riêng để làm rõ giá trị từng loại di sản văn hóa có mối quan hệ chức năng,
đồng thời bổ sung thêm nhiều luận cứ khoa học phù hợp với văn bản hành chính
Phương pháp luận: Hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là những
nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây
dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định
hướng cho việc nghiên cứu tìm tịi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp.
Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp, bao hàm hệ
thống các phương pháp, thế giới quan và nhân sinh quan của người sử dụng phương
pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra có hiệu quả cao nhất.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn có những ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sau:
- Khẳng định việc thực hiện chính sách bảo tồn giá trị văn hóa đối với các di tích
là cần thiết và khả thi.

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người làm việc, học
tập và nghiên cứu về vấn đề thực hiện chính sách đối với cơng tác bảo tồn giá trị văn
hóa di tích.

15


- Luận văn cũng có giá trị tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý trong việc
nâng cao chất lượng quản lý các di sản văn hóa.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm các phần sau:
+ Phần mở đầu
+ Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách bảo tồn phát huy
giá trị văn hóa tại di tích khảo cổ Cát Tiên
+ Chương 2. Thực trạng của việc thực hiện chính sách về bảo tồn phát huy giá
trị văn hóa tại di tích khảo cổ Cát Tiên
+ Chương 3. Các phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách về bảo tồn phát huy giá trị văn hóa tại di tích khảo cổ Cát Tiên
+ Phần kết luận.

16


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HĨA TẠI DI TÍCH KHẢO CỔ CÁT TIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Những khái niệm về bảo tồn, giá trị văn hóa, di sản văn hóa, di tích
khảo cổ Cát Tiên
Khái niệm về bảo tồn: Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về bảo tồn di

sản văn hóa, cụ thể như sau: Theo Từ điển Tiếng Việt “bảo tồn” là giữ lại không để cho
mất đi, bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó [34, tr28]. Bảo tồn là không để mai một, không để bị thay đổi, biến hóa
hay biến thái. Đối tượng “bảo tồn” phải được nhìn nhận là tinh hoa, đã khẳng định
được giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian dưới nhiều thể trạng và hình
thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn.
Đối tượng được bảo tồn (giá trị di sản văn hóa) cần thỏa mãn hai điều kiện sau:
- Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa nhận
minh bạch, khơng phải hồi nghi hay tranh cãi.
- Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, tiềm năng đứng vững lâu dài (tức là có
giá trị lâu dài trước những biến đổi tất yếu của đời sống vật chất và tinh thần của con
người nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập như
hiện nay).
Quan điểm của UNESCO về bảo tồn di sản văn hóa: Bảo tồn mang nghĩa rộng
hơn, là hoạt động giữ gìn một cách an tồn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá
hoại, bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và tránh sự xuống cấp của kết cấu đó.
Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa
của di sản văn hóa nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho di sản văn hóa và
khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai
thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội [35, tr16].
17


Cơng tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm các hoạt
động: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục hồi, tái tạo - làm lại, qui
hoạch bảo tồn. Vấn đề đặt ra là khi bảo tồn một di sản văn hóa cụ thể cần nghiên cứu,
chọn lựa phương án thích hợp với từng địa phương, từng đặc thù riêng để đảm bảo
rằng cái chúng ta đang trưng bày là xác thực chứ không phải đồ giả. Trên cơ sở tôn
trọng các điều khoản của Hiến chương Venice, UNESCO đã ban hành Công ước về
việc bảo tồn các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới vào năm 1972. Tiếp đến năm

2003, UNESCO ban hành Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, được sự đồng
thuận của trên 120 quốc gia thành viên mà Việt Nam là một trong số những thành viên
đó. Với mục tiêu tăng cường nhận thức về tầm quan trọng và thống nhất hoạt động bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể, Cơng ước u cầu các nước cam kết có những biện pháp
bảo đảm việc bảo vệ và duy trì sự tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, cùng với sự
phối hợp chặt chẽ ở cấp vùng và cấp quốc tế cho mục tiêu này [35, tr3]. Có thể thấy,
các biện pháp bảo vệ do Cơng ước đề ra, nhất là biện pháp kiểm kê (xác định giá trị di
sản), tư liệu hóa cho thấy quan điểm tơn trọng yếu tố gốc của loại hình di sản này. Bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hố có thể có 2 quan điểm như sau: Bảo tồn nguyên
vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng tĩnh): Bảo tồn nguyên vẹn văn hóa vật
thể ở dạng tĩnh là vận dụng thành quả khoa học kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại đảm
bảo giữ nguyên trạng hiện vật như vốn có về kích thước, vị trí, chất liệu, đường nét,
màu sắc, kiểu dáng
Bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh là điều tra sưu tầm, thu thập các dạng
thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm túc chặt chẽ,
giữ chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả bằng băng hình (video), băng tiếng
(audio), ảnh... Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có thể lưu giữ trong các
kho lưu trữ, các viện bảo tàng.

18


Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng động): Bảo tồn động, tức là bảo
tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các di sản văn hóa vật thể sẽ được bảo
tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di tích, cố gắng phục chế lại nguyên
trạng bằng nhiều kỹ thuật cơng nghệ hiện đại.
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn động là bảo tồn các hiện tượng
văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng không những là
môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà cịn là nơi tốt nhất để giữ

gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy chúng trong đời sống xã hội. Các hiện tượng văn hóa
phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói, hình thức diễn
xướng, nghi lễ, nghi thức, quy ước dân gian. Văn hóa phi vật thể ln tiềm ẩn trong
tâm thức và trí nhớ của những con người đặc biệt mà chúng ta thường mệnh danh là
những nghệ nhân hay là những báu vật nhân văn sống. Cần phải phục hồi các giá trị
một cách khách quan, sáng suốt, tin cậy, khoa học chứ không thể chủ quan, tùy tiện.
Tất cả những giá trị phải được kiểm chứng qua nhiều phương pháp nghiên cứu có tính
chất chun mơn cao, có giá trị thực chứng thuyết phục thông qua các dự án điều tra,
sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản các dấu tích di sản văn hóa phi vật thể.
Bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng chính là phương thức lý tưởng
nhất. Nếu không thể bảo tồn ngun dạng thì có thể bảo tồn theo hiện dạng đang có.
Bởi theo quy luật của thời gian thì các di sản văn hóa phi vật thể ngày càng có xu
hướng xa dần nguyên gốc. Nếu không thể khôi phục được nguyên gốc thì bảo tồn hiện
dạng là điều khả thi nhất. Tuy nhiên, hiện dạng phải có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên
dạng. Theo đó, cần xác định rõ thời điểm bảo tồn để sau này khi có thêm tư liệu tin cậy
thì sẽ tiếp tục phục nguyên ở dạng gốc di sản văn hóa.
Bảo tồn các di sản, di tích là việc làm quan trọng và vơ cùng cần thiết trong
công cuộc kiến thiết nước nhà. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, hệ
thống pháp luật qua các thời kỳ đều đề cập đến yêu cầu bảo vệ, giữ gìn, phát huy giá trị
của các di tích lịch sử, di sản văn hóa, nghệ thuật, danh lam thắng cảnh đất nước.
19


Ngày 23/11/1945, chỉ hơn 2 tháng sau khi nước nhà giành được độc lập, dù cịn
bộn bề các cơng việc cấp bách cần giải quyết, nhưng với tầm nhìn minh triết của một vĩ
nhân - danh nhân văn hóa kiệt suất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SLvề
bảo tồn cổ tích trong tồn cõi Việt Nam. Sắc lệnh xác định việc bảo tồn cổ tích là việc
rất cần cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam.
Điều 4 của Sắc lệnh nêu rõ: Cấm phá hủy đình chùa, đền miếu, hoặc những nơi
thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy

những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tơn giáo
nhưng có ích cho lịch sử [25].
Với ý nghĩa lịch sử to lớn của Sắc lệnh này, ngày 24/2/2005, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định số 36/QĐ-TTg lấy ngày 23/11 hàng năm là Ngày Di sản văn hóa
Việt Nam nhằm phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt
động trên lĩnh vực di sản văn hóa, động viên và thu hút mọi tầng lớp xã hội tham gia
tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Khái niệm về giá trị văn hóa: Con người có khí, có sinh, có tri, có lễ nghĩa, đó là
lồi quý giá nhất. Cho nên có thể biểu hiện qua giá trị văn hóa: về thực chất là sự
khẳng đỉnh của con người đối với sự tồn tại của vật chất lẫn tinh thần của bản thân
mình, quan hệ trật tự của mình, hành vi thái độ của mình, khích lệ con người sống và
phát triển theo giá trị của mình.
Giá trị văn hóa: là hệ giá trị văn hóa nói chung và văn hóa con người nói riêng
chính là hệ giá trị của con người tức là phát triển nhân cách, đạo đức tâm hồn lối sống,
trí tuệ, năng lực sáng tạo, tuân thủ các chuẩn mực đạo đức chung của cộng đồng.
Giá trị là phạm trù riêng của con người liên quan đến lợi ích vật chất lẫn tinh
thần của con người đó chính là tính nhân văn của xã hội, có giá trị định hướng, đánh
giá và điều chỉnh các hoạt động của con người trong cộng đồng xã hội. Giá trị ấy gắn
liền với nhu cầu của con người, chính nhu cầu ấy đã thúc đẩy động lực của con người,
giúp con người tạo ra các giá trị văn hóa tạo ra các giá trị văn hóa sản sinh ra những ý
20


tượng, trí tuệ, năng lực, sức sáng tạo, khát vọng nhân văn của con người được được
biểu hiện qua đạo đức lối sống trong xã hội, tạo nên nét độc đáo, đậm đà bản sắc truyền
thống của dân tộc.
Mỗi dân tộc dều có lịch sử hình thành và phát triển, trải qua quá trình lịch sử lâu
dài sáng tạo nên một nền văn hóa của riêng mình. Đó chính là giá trị văn hóa
Khái niệm di sản văn hóa: Di sản: di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại;
sản là tài sản, là những gì q giá, có giá trị là tài sản, là báu vật của thế hệ trước để lại

cho thế hệ sau, gồm các tác phẩm nghệ thuật dân gian, cơng trình kiến trúc, tác phẩm
điêu khắc, tác phẩm văn học...
Di sản là sản phẩm của quá khứ nhưng đó là quá khứ đã được lựa chọn theo nhu
cầu của xã hội hiện đại. Di sản là sự lựa chọn từ quá khứ lịch sử, ký ức và báu vật của
cộng đồng thể hiện nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của xã hội hiện tại.
Nhà nghiên cứu Lưu Trần Tiêu cho rằng: Di sản văn hóa là tồn bộ những sản
phẩm vật chất (hay cịn gọi là vật thể) và tinh thần (hay còn gọi là phi vật thể), có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học, do con người sáng tạo và tiếp nhận trong điều kiện lịch
sử, văn hóa, kinh tế - xã hội của mình, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
[28, tr.2].
Năm 2001, Việt Nam ban hành Luật Di sản văn hóa (sửa đổi năm 2009) trong
đó khẳng định: Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của nhân dân ta. Tại Điều 1, Luật Di sản văn hóa ghi rõ: “Di sản văn hóa
bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác” [20, tr.12]. Cùng với đó Việt Nam đã phê chuẩn Cơng ước bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể của UNESCO. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc,
là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở sáng tạo giá trị mới và giao lưu văn hóa” [4].
21


Di sản văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, tiềm ẩn bản sắc văn hóa của cộng
đồng xã hội. Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản văn hóa quý giá của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam và cũng là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to
lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, đồng thời là giao diện
quan trọng của văn hóa nhân loại. Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là hoạt
động thiết thực nhằm hướng tới xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc và đóng góp vào việc giữ gìn và làm phong phú cho kho tàng di sản văn

hóa nhân loại.
Di sản văn hóa là những giá trị văn hóa tích lũy trong suốt q trình hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc được lưu giữ lại. Những di sản này rất phong
phú, đa dạng tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau. Những cổ vật, những cơng trình
kiến trúc hoặc cịn ẩn trong lòng đất hoặc đang được lưu giữ trong các bảo tàng, các
công cụ sản xuất, đồ dùng bằng sành sứ, những thành quách, chùa tháp, đình làng, phố
cổ, lăng tẩm, cung điện,…
• Di tích khảo cổ Cát Tiên là quần thể kiến trúc di tích đặc biệt quan trọng đã tồn
tại trong lòng đất hơn 10 thế kỷ về trước, qua nhiều thăng trầm về thời gian đã trở
thành những phế tích và ngày càng xuống cấp nghiêm trọng; cơng tác khai quật nghiên
cứu, bảo tồn, trùng tu, tôn tạo cần có sự thống nhất, đồng bộ, có định hướng kế hoạch
cụ thể, rõ ràng. Việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ di tích khảo cổ Cát Tiên sẽ góp
phần quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa khoa học vùng đất phía Nam.
Đồng thời việc phát huy giá trị di tích khảo cổ Cát Tiên trong quy hoạch phát triển
tuyến du lịch văn hóa sẽ góp phần quan trọng vào sự phát kinh tế xã hội của địa
phương trong tương lai
1.1.2 Chính sách và chính sách bảo tồn di sản văn hóa tại di tích lịch khảo cổ
Cát Tiên

22


1.1.2.1 Chính sách: Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong
các tài liệu, trên các phương tiện truyền thông và trong đời sông xã hội. Tuy nhiên, đây
cũng là thuật ngữ khó có thể định nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng.
Theo từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary) “chính sách” là “một
đường lối hành động được thơng qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị,
chính khách...”. Theo sự giải thích này, chính sách khơng đơn thuần chỉ là một quyết
định để giải quyết một vấn đề cụ thể, mà nó là một đường lối hay phương hướng hành
động [30, tr.64].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để
thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của
chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa...” [31].
Như vậy, chính sách là một hệ thống ngun tắc có chủ ý hướng dẫn các quyết
định và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên bố về ý định, và
được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính sách thường được cơ quan
quản trị thông qua trong một tổ chức.
Một chính sách là một tuyên bố về ý định, và được thực hiện như một thủ tục
hoặc giao thức. Các chính sách thường được cơ quan quản trị thơng qua trong một tổ
chức. Chính sách có thể hỗ trợ cả việc đưa ra quyết định chủ quan và khách quan. Các
chính sách hỗ trợ trong việc ra quyết định chủ quan thường hỗ trợ quản lý cấp cao với
các quyết định phải dựa trên thành tích tương đối của một số yếu tố và do đó thường
khó kiểm tra khách quan.
Chính sách có bản chất thuộc về chính trị. Chính sách là sản phẩm của quá trình
ra quyết định lựa chọn các vấn đề, mục tiêu và giải pháp để giải quyết . Q trình ra
quyết định chính sách là một q trình chính trị. Nhưng sản phẩm của q trình hoạch
định chính sách thì dễ nhận thấy hơn.
23


Chính sách cơng (public policy) là hệ thống những hành động có chủ đích, mang
tính quyền lực nhà nước, được ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định, nhằm
mục tiêu giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, hay thúc đẩy các giá trị ưu tiên.
Theo định nghĩa này thì mục đích của chính sách cơng là thúc đẩy xã hội phát
triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề cơng.
Nói cách khác, chính sách cơng là cơng cụ để thực hiện mục tiêu chính trị của nhà nước.
Từ nghiên cứu những cách tiếp cận trên đây về chính sách cơng của các tác giả, có thể
đưa ra khái niệm về chính sách cơng như sau: Chính sách cơng là kết quả ý chí chính trị

của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao
hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã
hội. Khái niệm trên vừa thể hiện đặc trưng của chính sách cơng là do nhà nước chủ động
xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng quản lý một cách tương đối ổn định,
cho thấy bản chất của chính sách cơng là cơng cụ định hướng cho hành vi của các cá
nhân, tổ chức phù hợp với thái độ chính trị của nhà nước trong việc giải quyết những vấn
đề phát sinh trong đời sống xã hội. Để đạt được mục tiêu đề ra, trước hết chính sách phải
tồn tại trong thực tế, nghĩa là chính sách phải thể hiện được vai trị định hướng hành
động theo những mục tiêu nhất định. Điều kiện tồn tại của một chính sách cơng là tổng
hồ những tác động tích cực của hệ thống thể chế do nhà nước thiết lập và tinh thần
nghiêm túc thực hiện, tự chủ, sáng tạo của các chủ thể tham gia giải quyết vấn đề chính
sách trong một phạm vi khơng gian và thời gian nhất định. Điều kiện bảo đảm cho sự tồn
tại được thể hiện bằng các nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, mơi trường chính
trị, pháp lý, văn hóa xã hội và cả sự bảo đảm bằng nhà nước.
1.1.2.2. Những chính sách bảo tồn di sản văn hóa tại di tích khảo cổ Cát Tiên.
Hợp tác xây dựng quần thể kiến trúc di tích khảo cổ Cát Tiên - Vườn quốc
gia Cát Tiên từ một nguồn tài nguyên sẵn có trở thành trọng điểm du lịch của vùng
Tây Nguyên.

24


×