Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

QUAN điểm BIỆN CHỨNG DUY vật về mối QUAN hệ LƯỢNG – CHẤT và ý NGHĨA đối với VIỆC học tập, NGHIÊN cứu của học SINH, SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.66 KB, 14 trang )

Fs

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MARX-LENIN
Đề tài:

QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT
VỀ MỐI QUAN HỆ LƯỢNG – CHẤT
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC
HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN

GVHD: PGS. TS. Đoàn Văn Khái
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Ly
Mã sinh viên: 1913380015
Niên khóa: 58 (2019 – 2023)
Mã lớp hành chính: Anh 01 – CTTT TCNH
Mã lớp tín chỉ: TRI114E.1
Số thứ tự bộ môn: 34


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 3

NỘI DUNG ............................................................................................................................ 5
I. QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH
NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.................................................... 5
1. Khái niệm về chất và lượng ............................................................................................ 5


2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại ......... 6
II. Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHẤT VÀ LƯỢNG ĐỐI
VỚI VIỆC HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN ................... 9
1. Vận dụng mối quan hệ giữa chất và lượng vào việc tích lũy kiến thức của học sinh,
sinh viên .............................................................................................................................. 9
2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất vào tìm hiểu về cách
thức vận động của q trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải pháp nhằm
khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng. ............................................ 10
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 14


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thế giới tồn tại nhiều dạng quy luật, chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm
vi bao quát, về tính chất, về vai trị của chúng đối với q trình vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng trong giới hạn tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, việc phân loại quy luật là cần
thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người.
Trong số đó, quy luật về sự chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản phổ biến về phương thức chung của các quá trình
vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư suy. Theo quy luật này, phương thức chung
của các quá trình vận động, phát triển là những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng, và
ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi mới về
lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách
quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chính vì vậy, hoạt động học tập và nghiên cứu của học sinh sinh viên cũng khơng nằm ngồi
phạm vi ảnh hưởng của quy luật lượng – chất. Trong thời kỳ hiểu biết của con người ngày một
gia tăng kéo theo khối lượng kiến thức mà học sinh, sinh viên cần học tập và đào sâu nghiên
cứu cũng ngày một nhiều, việc hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng và chi phối đến quá trình tiếp

nhận tri thức nhân loại trở nên vơ cùng quan trọng.
Bởi lý do đó, em chọn đề tài “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ lượng – chất
và ý nghĩa đối với việc học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên” làm đề tài cho tiểu luận
này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu một cách hệ thống, đưa ra và làm rõ quan điểm biện chứng duy vật về
quy luật của mối quan hệ lượng – chất, chỉ ra sự ảnh hưởng của nó tới việc học tập và nghiên
cứu của học sinh, sinh viên.
Từ đó, tiểu luận đưa ra ý nghĩa và kết luận nhằm cải thiện vấn đề tiếp nhận tri thức của học
sinh, sinh viên trong thời kỳ khối lượng kiến thức gia tăng ngày một nhanh chóng, với mục đích
góp phần giúp cho nguồn nhân lực của xã hội trong thời kỳ mới có đủ “chất” và “lượng”.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận cần phải:
+ Đưa ra và giải thích mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất.
+ Rút ra ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất đối với việc học tập, nghiên
cứu của học sinh, sinh viên.


NỘI DUNG
I. QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH
NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
1. Khái niệm về chất và lượng
1.1. Khái niệm chất
- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ một tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật hiện
tượng khác.

Ví dụ: Sự thống nhất về các thuộc tính khách qua vốn có của “nước”: khơng màu, khơng
mùi, khơng vị, hòa tan được các loại muối,…
- Đặc điểm:
+ Chất có tính khách quan.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những chất vốn có làm nên chính chúng. Vì nhờ đó, chúng
mới khác các sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy, con người mới có thể phân biệt được sự vật này
với sự vật khác. Chất có tính ổn định, nói lên mặt đứng im tương đối của sự vật.
+ Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính mà các thuộc tính là những hợp chất,
những trạng thái, yếu tố cấu thành sự vật. Tuy nhiên, những thuộc tính vốn có của sự vật chỉ
được bộc lộ thơng qua sự tác động qua lại của nó với sự vật, hiện tượng khác.
+ Chất của sự vật không những quy định bởi chất của yếu tố tạo thành mà còn bởi phương
thức liên kết giữa các yếu tố đó. Nghĩa là kết cấu của sự vật, trong hiện thực, các sự vật được
tạo thành bởi các yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau.

2.2. Khái niệm lượng
- Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định, khách quan của vốn có của sự
vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc
độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Mỗi phân tử nước được cấu thành từ 2 nguyên tử hydro và 1 nguyên tử oxy.
- Đặc điểm:
+ Lượng có tính khách quan.
+ Lượng được biểu thị bằng kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mơ lớn hay
nhỏ, nhịp điệu nhanh hay chậm. Trong thự tế, lượng của sự vật thường được xác định bởi những
đơn vị đo lường cụ thể.


+ Đối với những sự vật có liên quan như ý thức, tình cảm, trách nhiệm,… nhận thức khơng
thể xác định bằng đại lượng con số mà chỉ có thể nhận thức bằng con đường trừu tượng hóa,
khái quát hóa.
+ Có những lượng biểu thị yếu tố, quyết định, kết cấu bên trong của sự vật nhưng cũng có

những lượng vạch ra những yếu tố quyết định bên ngoài của sự vật.
+ Lượng nói lên mặt thường xuyên biến đổi của sự vât, hiện tượng.
+ Sự phân biệt giữa lượng và chất có tính tương đối. Trong mối quan hệ này, một tính quyết
định là lượng, nhưng trong mối quan hệ khác, tính quyết định đó lại đóng vai trị là chất.

2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
2.1. Mối quan hệ giữa chất và lượng
- Lượng và chất tồn tại trong mối quan hệ biện chứng tạo thành phương thức vận động và
phát triển.
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và lượng. Hai mặt đó
khơng tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng làm cho lượng của sự vật biến
đổi trước theo cách thức tăng dần hoặc giảm dần.

2.2. Những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
- Sự biến đổi về lượng tất yếu vì dẫn đến sự biến đổi của chất. Tuy nhiên, không phải sự thay
đổi bất kỳ nào của lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở trong một giới hạn nhất định, biến
đổi về lượng chưa làm biến đổi về chất. Giới hạn đó được gọi là độ của sự vật.
- Độ chỉ tính quy định, mối liên kết thống nhất giữa chất và lượng là khoảng giới hạn mà
trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy
trong giới hạn đó sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành cái khác.
- Khi lượng biến đổi đến một giới hạn của độ làm cho chất của sự vật biến đổi
Ví dụ:


Trạng thái rắn, lỏng, hơi của nước - nước thay đổi các trạng thái khác nhau tùy thuộc
vào sự thay đổi nhiệt độ.



Bóng bay nổ khi bị thổi quá nhiều hơi vào.


- Điểm giới hạn mà tại đó xảy ra sự biến đổi về chất gọi là điểm nút với những điều kiện
nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.


+ Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá
trình vận động liên tục của một sự vật. Ở mỗi sự vật, bước nhảy được diễn ra dưới các hình
thức khác nhau.
+ Có thể có các hình thức bước nhảy cơ bản sau: dài, ngắn, chậm, nhanh, cục bộ, tồn bộ,…
dựa trên quy mơ của bước nhảy
+ Phân biệt bước nhảy, tiến hóa và cách mạng:
Bước nhảy

Tiến hóa

Cách mạng

Là mọi sự thay đổi về căn bản Là sự thay đổi về lượng và Là sự thay đổi mà trong đó
vật chất của sự vật do sự thay những biến đổi nhất định về diễn ra sự cải tạo căn bản về
đổi về lượng của sự vật chất không căn bản của sự chất của sự vật theo xu hướng
trướng đó gây ra.

vật.

tiến bộ đi lên.

- Thơng qua bước nhảy, chất cũ của sự vật mất đi, và chất mới ra đời. Tương ứng với điều
đó thì sự vật cũ chuyển sang sự vật mới, trong sự vật mới lại có chất mới và lượng mới, với độ
mới và điểm nút mới.

- Trong giới hạn đo mới, sự tác động giữa chất và lượng mới lại diễn ra, lượng mới lại biến
đổi thành mức phá vỡ giới hạn độ tại điểm nút. Thông qua bước nhảy, chất của sự vật lại chuyển
sang chất mới khác. Q trình đó được diễn ra không ngừng làm cho sự vật vận động và biến
đổi.

2.3. Sự thay đổi chất dẫn đến sự thay đổi về lượng
- Chất tác động đến lượng thể hiện ở chỗ: Chất tạo điều kiện cho lượng biến đổi. Khi chất
mới ra đời làm cho lượng của sự vật thay đổi cới quy mô, tốc độ, nhịp điệu khác trước
- Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng
vượt quá giới hạn của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông
qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Q trình tác
động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động và phát triển.

2.4. Ý nghĩa của phương pháp luận
- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau, do đó, trịn nhận thức và thực tiễn phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương
diện chất và lượng tạo nên nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.


- Vì những sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành
những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi
chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật,
hiện tượng.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn đến những biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng
với điều kiện lượng phải tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong cơng tác thực tiễn cần phải
khắc phục tư tưởng nơn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã
được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật,
hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực
tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, khơng tích lũy về

lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bowcs nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu
diễn tư tưởng bảo thủ, trì trệ, khơng dám thực hiện bước nhảy mặc du lượng đã tích lũy tới điểm
nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
-Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức
và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với
từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, q trình phát triển khơng
chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy q trình chuyển hóa
từ lượng thành chất một các hiệu quả nhất.
- Khi đã tích lũy đủ về lượng, phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, chống tư tưởng bảo
thủ, trì trệ.
- Biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy.


II. Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHẤT VÀ LƯỢNG ĐỐI VỚI
VIỆC HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN
1. Vận dụng mối quan hệ giữa chất và lượng vào việc tích lũy kiến thức của học sinh,
sinh viên
- Kiến thức là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật cùng với xu hướng tự do hóa về tư duy và sáng tạo, mỗi ngày có thêm vô số những
nguồn tri thức mới, những đột phá mới, thậm chí là cả những ngành nghề mới. Điều đó tạo ra
một môi trường phát triển tự do, năng động, sáng tạo cho thế hệ trẻ, song cũng đồng thời đặt
lên họ những áp lực về việc chọn lọc và trang bị kiến thức để có thể tạo cho bản thân lợi thế
riêng biệt trong cuộc cạnh tranh chất xám.
- Quá trình trang bị kiến thức này bắt đầu từ khi chúng ta được sinh ra. Do nhận thức sự thay
đổi của thế giới, các bậc phụ huynh cũng như giáo viên cũng đã thay đổi tư tưởng về việc giáo
dục thế hệ trẻ. Bởi vậy, thay vì việc học tứ thư ngũ kinh, sớm thi khoa cử như thời phong kiến,
ngày nay, chúng ta đã tiếp cận kiến thức theo từng giai đoạn phát triển:



Trong 12 năm học trung học và phổ thơng, chúng ta trang bị cho mình những kiến
thức cơ bản nhất mà mỗi người đều phải biết trong xã hội ngày nay.



Sau khi hoàn thành 12 năm học, chúng ta lựa chọn giữa việc học lên đại học, cao
đẳng để tiếp thu thêm những kiến thức chuyên sâu hơn về ngành nghề, hoặc bắt tay
vào việc học nghề, đi làm để rèn luyện tay nghề kĩ năng từ sớm.



Thậm chí, sau khi hồn thành bậc đại học, cao đẳng, nhiều sinh viên tiếp tục lựa chọn
học lên cao hơn, nghiên cứu chuyên sâu hơn về chuyên ngành và chuyên môn, hoặc
học thêm một vài kĩ năng, ngành nghề khác.

- Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất được thể hiện ở chỗ: Học sinh, sinh viên tích
lũy kiến thức qua thầy cơ, giáo trình, sách tham khảo, các trang thông tin trên mạng xã hội,…
và kết quả đạt được là điểm của các bài kiểm tra cũng như các kỳ thi học kỳ. Qua đây ta thấy
được: q trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc
sinh viên được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy.
- Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác
động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của
mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn. Ngoài ra, bên cạnh những kiến thức trong
sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm, thực tập, hoạt động xã hội,... hoặc
hoạt động trong những tổ chức, câu lạc bộ,...


- Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới,
bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm
bằng cử nhân và tìm được một cơng việc.

- Cứ như vậy, q trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động
không ngừng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng
đạt đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.

2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất vào tìm hiểu về cách
thức vận động của q trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải pháp nhằm
khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng.
2.1. Khuynh hướng tả khuynh – Tích lũy chưa đủ về lượng đã muốn hướng tới bước nhảy
thay đổi về chất
- Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong
sự phát triển của xã hội, của đất nước. Bởi chính q trình này tạo ra những con người có đủ
năng lực để tiếp quản đất nước, đưa đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu.
Vì vậy, mỗi học sinh, sinh viên cần phải có nhận thức rõ ràng, đúng đắn về vấn đề này - phải
tích đủ lượng tới giới hạn điểm nút thì mới được thực hiện bước nhảy, khơng được nơn nóng,
đốt cháy giai đoạn.
- Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực
có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Về mặt tích cực, kiểu học này giúp cho sinh viên
được tự do trong việc lựa chọn mơn học, tập trung tích lũy kiến thức về những mơn học có liên
quan đến ngành nghề hướng đến thay vì việc học đại trà. Tuy nhiên, kiểu học này khiến cho
khơng ít sinh viên đăng kí học vượ,t nhưng lại không đủ khả năng để theo, dẫn đến hậu quả là
phải thi lại chính những mơn đã đăng kí học vượt. Điều này cũng có nghĩa là các sinh viên đó
chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi ngược lại với
quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại.
- Bên cạnh đó, thực trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn cịn tồn tại căn bệnh thành
tích, đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học. Tức là học sinh chưa tích lũy đủ lượng cần thiết đã
được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước nhảy nhằm ghi điểm thành tích cho lớp, cho
trường, điều này lâu dần đã khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người khơng có cả
“chất” và “lượng”. Như vậy, có thể khẳng định việc đốt cháy giai đoạn theo khuynh hướng tả
khuynh là một hành động sai lầm.



2.2. Khuynh hướng hữu khuynh – Tích lũy đủ về lượng song không tiến tới bước nhảy
thay đổi về chất
- Việc đốt cháy giai đoạn, tích lũy chưa đủ về lượng đã tiến tới bước nhảy thay đổi về chất
đã khiến cho xã hội rơi vào tình trạng có những người khơng có cả “chất” và “lượng”, song ở
hướng ngược lại, sự bảo thủ, trì trệ theo khuynh hướng hữu khuynh cũng như vậy. Nếu lượng
đã tích đủ, đạt đến điểm nút mà vẫn khơng thực hiện bước nhảy thì quan niệm phát triển cũng
chỉ là sự tiến hóa đơn thuần về lượng, khơng phải về chất, như thế thì sự vật sẽ không phát triển
được.
- Đối với học sinh, sinh viên, khi đã tiếp thu đầy đủ kiến thức cần có (đủ về lượng), thì cần
được tạo điều kiện để tiến tới bước nhảy trong việc tiếp thu kiến thức, từ đó mới có thể tạo ra
những con người có đủ cả “lượng” và “chất” cho xã hội.
- Tuy nhiên, có thể nói đây là một thách thức khơng nhỏ. Bởi để tạo điều kiện cho những
học sinh, sinh viên có đủ kiến thức có thể tiếp tục theo đuổi việc học hành hoặc làm việc, nhiều
khi sẽ đặt gánh nặng tài chính lên học sinh, sinh viên và cả gia đình của học sinh, sinh viên đó.
Điều này xảy ra với những học sinh, sinh viên có hồn cảnh khó khăn, khi mà gánh nặng tài
chính, và đơi khi là tư tưởng của bậc cha mẹ người thân, khiến họ đi đến quyết định dừng việc
tiếp thu kiến thức khi vừa đủ “lượng”, vì vậy mà khơng thể bước đến sự thay đổi về “chất”.
Như vậy, việc chặn ngang giai đoạn phát triển theo khuynh hướng hữu khuynh cũng là một
hành động sai lầm cho bản thân và xã hội.

2.3. Mở rộng
- Bên cạnh đó, do hình thức bước nhảy của sự vật rất đa dạng, phong phú nên trong nhận
thức và thực tiễn cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy trong những điều
kiện, lĩnh vực cụ thể. Trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh khơng thể áp dụng hình
thức bước nhảy đột biến, khơng thể có chuyện học sinh mới đi học đã có thể tham gia kì thi tốt
nghiệp, mà phải thực hiện bước nhảy dần dần: đó là vượt qua từng bài kiểm tra nhỏ, rồi đến bài
kiểm tra học kì và bài thi tốt nghiệp, có như vậy mới đúng với quy luật và đạt được hiệu quả.
- Như vậy, có thể thấy việc áp dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào các hoạt động trong đời sống là vơ

cùng quan trọng, đặc biệt trong hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên. Bởi có như
vậy hoạt động đó mới có hiệu quả, góp phần đào tạo ra những con người cú đủ cả chất và lượng
để đưa đất nước ngày một phát triển hơn.


- Nếu khuynh hướng tả khuynh khiến cho xã hội có những con người thiếu cả “lượng” và
“chất”, thì khuynh hướng hữu khuynh lại tạo ra những con người đã có đủ “lượng” nhưng lại
khơng đủ “chất”.
- Trên phương diện phát triển kinh tế, khuynh hướng tả khuynh đào tạo ra những sinh viên
tốt nghiệp với tấm bằng chuyên môn hồn chỉnh, được học về cả chun mơn và kĩ năng song
cả chuyên môn và kĩ năng đều chưa đáp ứng đủ nhu cầu tuyển dụng. Trong khi đó, khuynh
hướng hữu khuynh đào tạo ra những con người đã được trang bị nền tảng kiến thức cơ bản vững
chắc, song không được học về chuyên môn và kĩ năng phù hợp, khiến cho nền tảng kiến thức
tích lũy đầy đủ lại bị bỏ phí. Từ đó, dẫn đến vấn nạn thất nghiệp của những cử nhân, thạc sĩ,
trong khi những ngành nghề cần chuyên môn và kĩ năng vẫn luôn thiếu nguồn nhân lực chất
lượng cao.


KẾT LUẬN
Bằng việc nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Marx – Lenin cùng những quy luật cơ bản của
phép biện chứng đặc biệt là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất, chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn về chủ nghĩa Marx – Lenin cũng như các quy luật
khác.
Qua việc vận dụng quy luật lượng - chất đối với việc học tập và nghiên cứu của học sinh,
sinh viên, ta có thể thấy rằng việc tích lũy tri thức là phải có thời gian và theo từng giai đoạn,
khơng nên “nhảy cóc” hay đốt cháy giai đoạn mà phải tích lũy dần dần từ từ thì mới đạt được
kết quả như ý muốn.
Trong thời đại xã hội ngày càng phát triển, chúng ta luôn phải cố gắng học tập nghiên cứu
và có cái nhìn thật đúng đắn về chủ nghĩa Mác- Lênin, rèn luyện đạo đức và có hiểu biết về cả
tư tưởng chính trị lẫn hiểu biết về khoa học xã hội để hoàn thành được những gì Đảng và Nhà

nước gia cho.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Phạm Văn Sinh và GS. TS. Phạm Quang Phan (2018) Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Marx – Lenin”. Nơi xuất bản: Số 6/86 Duy Tân, Cầu Giấu, Hà Nội – Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia Sự thật.

Quy luật chuyển hóa sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
(19/07/2019) Báo Luật QNH Việt Nam [online]. Truy xuất tại: [Truy cập
ngày: 12/05/2020]



×