Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

BÀI THUYẾT MINH ĐẠI NỘI HUẾ DÀNH CHO HDV TẠI ĐIỂM (rất sát với thực tế)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.69 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA DU LỊCH

BÀI ĐIỀU KIỆN
HỌC PHẦN: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

SINH VIÊN

: LÊ THANH TÙNG

MÃ SINH VIÊN : 173122114597
LỚP

: ĐH VHDL.K18

GIẢNG VIÊN

: TS. VÕ THỊ THU HÀ

Hải Phòng, tháng 12 năm 2021



TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG
KHOA DU LỊCH

BÀI ĐIỀU KIỆN
TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
BÀI THUYẾT MINH VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ ĐẠI NỘI HUẾ

Hải Phòng, tháng 12 năm 2021




LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ giáo trường Đại học Hải
Phịng nói chung và các thầy cô trong khoa Du lịch nói riêng, những người đã tận
tình hướng dẫn, kiểm tra và chỉ bảo phương pháp học tập, nghiên cứu, các ky
năng cần thiết giúp em hoàn thành bài điều kiện này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến giảng viên hướng dẫn bộ môn
là cô Võ Thị Thu Hà vì trong suốt quá trình học tập em đã gặp rất nhiều khó
khăn và trăn trở nhưng thầy luôn đồng hành và sát cánh bên sinh viên chúng em,
luôn giải đáp thắc mắc một cách nhiệt tình. Cơ chính là người thầy đã nâng đỡ
chúng em khi mới chập chững bước vào bộ môn Tiến Trình Lịch Sử Việt Nam.
Dưới sự hướng dẫn tận tình của Cô, em càng có thêm bản lĩnh, quyết tâm bước
vào nghề để thực hiện ước mơ của mình.
Nội dung bài thuyết minh là những kiến thức em đã đúc rút trong những
năm học trên ghế nhà trường, đây cũng là bài thuyết minh mà em viết để sử dụng
trong một số chuyến tour du lịch tới di tích lịch sử Đại Nội thuộc kinh thành Huế.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Thanh Tùng


MỤC LỤC


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

CHƯƠNG I: NỘI DUNG BÀI THUYẾT MINH ĐẠI NỘI HUẾ



Bài thuyết minh đầy đủ về Đại Nội Huế

Lời đầu tiên em xin thay mặt cho ban quản lí Q̀n thể di tích cố đơ H́ xin
gửi lời chúc sức khoẻ và lời chào trận trọng nhất đến cả đoàn mình ngày hôm
nay. Chúc cho đoàn ta có một chuyến tham quan thành công và thật ý nghĩa.
Em xin tự giới thiệu, em tên là Tùng, sẽ là người đưa chúng ta tìm hiểu về di
tích lịch sử Đại Nội Huế trong buổi chiều ngày hôm nay.
Thưa quý khách, trải qua nhiều biến động của lịch sử, 143 năm triều đại nhà
Nguyễn (1802 - 1945) đã để lại cho Huế một hệ thống kiến trúc cung đình đa
dạng và mang tính hệ thống cao gồm thành hào, cung điện, đền đài, lăng tẩm
tráng lệ. Tiêu biểu trong q̀n thể di tích Cố Đơ H́ là Kinh thành cổ kính.
Bảo vệ Kinh đơ, bảo vệ ngơi báu và đức Vua, hoàng gia và triều đình trước
những hiểm họa tấn công từ bên ngoài là việc làm đầu tiên của vương triều mới.
Do đó, sau khi chiếm lại Phú Xuân, thống nhất đất nước, năm 1802 Gia Long lên
ngôi và sau đó Vua cho xây dựng Kinh thành Huế.
Theo nguyên tắc kiến trúc truyền thống dựa vào Dịch học, phong thủy học,
vũ trụ quan phương Đông, các nhà kiến trúc đầu thế kỉ XIX đã quy hoạch, bố trí
hệ thống thành quách, cung điện quay về hướng Nam:
“Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ”
(Vua quay mặt về hướng Nam để nghe thiên hạ nói)
Ý nói Vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ.
- Núi Ngự Bình dùng làm tiền án để che chắn Kinh thành tránh những luồng
khí độc từ bên ngoài vào.
- Sơng Hương là yếu tố minh đường thủy tụ tích đức cho con cháu.
- Cồn Hến và Cồn Dã Viên trên sông Hương làm Tả Thanh Long và Hữu
Bạch Hổ theo thế rồng chầu hổ phục. Kinh thành Huế gồm có 3 vòng thành:
- Vòng ngoài cùng gọi là Kinh thành.
- Vòng thành thứ 2 gọi là Hoàng thành.
- Vòng thành thứ 3 gọi là Tử Cấm Thành.
6



Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Kinh thành Huế được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu thành Vauban (tên
một ky sư công binh người Pháp sống vào thế kỷ XVII). Kiểu kiến trúc Vauban
này tạo cho Kinh thành Huế hình sao (1 trong 10 thành phố trên thế giới có thành
xây theo hình ngôi sao). Thành có chu vi 11km với diện tích mặt bằng là 520 ha,
mặt thành dày 21m và cao 6m06 gồm có 10 cửa đường bộ và 2 cửa đường thủy
thông Kinh thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan
và Tây Thành Thủy Quan. Ngoài ra, Kinh thành còn có 1 cửa thống với Trấn
Bình Đài (thành phụ ở góc Đông Bắc của Kinh thành, còn gọi là thành Mang
Cá), có tên gọi là Trấn Bình Mơn.
Với mục đích phịng thủ là chính, mặt bằng của thành có dạng hình vng
hơi khum ở phía trước theo địa hình dải đất dọc bờ sông Hương, mỗi mặt có các
cổng thành, trên có vọng lâu dùng để quan sát.
Các mặt thành lại được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách
đều nhau, kèm theo các pháo nhãn, đại bác, kho đạn… Thêm vào đó, hệ thống
hào bao bọc ngay bên ngoài được đào gần 10km chiều dài. Riêng hệ thống sông
đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông
đường thủy có chiều dài hơn 7km (đoạn ở phía Tây là sơng Kẻ Vạn, đoạn phía
Bắc là sơng An Hịa, đoạn phía Đơng là sơng Đơng Ba, riêng đoạn phía Nam dựa
vào sơng Hương).
“Thành cao hào sâu”. Tổng thể kiến trúc Kinh thành Huế cho thấy đây là 1
pháo đài phòng thủ đồ sộ, kiên cố, đồng thời lại có tính nghệ thuật cao.
Quý khách hãy phóng tầm mắt ra xa phía trước mặt và quan sát. Chính giữa
mặt Nam kinh thành là Kỳ Đài dùng để treo cờ hay còn gọi là Cột cờ Huế. Đây là
cột cờ cao nhất Việt Nam, được xây dựng vào năm 1807 dưới triều Vua Gia
Long. Kỳ Đài có tổng chiều cao là 54m05 được chia làm 2 phần: Đài cờ và Cột
cờ.

- Đài cờ cao 17m05 gồm 3 tầng tượng trưng cho Thiên thời – Địa lợi – Nhân
hịa theo thút Tam tài của phương Đơng. Trong dân gian xứ Huế có câu ca dao:
“Ngọ Môn năm cửa chín lầu
7


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Cột cờ ba bậc, Phu Văn Lâu hai tầng”
- Cột cờ cao gần 37m trước đây làm bằng gỗ. Năm 1904 sau trận bão lịch sử
năm Thìn, cột cờ bị gãy, Vua Thành Thái cho đúc lại bằng gang. Năm 1947, cột
cờ bị chiến tranh phá hủy và được đúc lại bằng xi măng cốt thép như hiện nay.
Trước năm 1945, vào những dịp đại lễ của triều đình, người ta treo lên cột
cờ lá cờ màu vàng dài 4m, rộng 3m06 . Ở giữa lá cờ thêu hình con rồng khá lớn.
Sau đó được thay bằng cờ tổ quốc như hiện nay.
Phía trước Đại Nội là khoảng sân rộng thường diễn ra các đại lễ của triều
đình như:
- Lễ Truyền lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa).
- Lễ Ban sóc (ban lịch năm mới).
- Lễ Duyệt binh.
Trong lòng Kinh thành là Hoàng thành và Tử Cấm Thành, còn gọi chung là
Đại Nội, nơi mà đoàn chúng ta đang đứng đây. Đây là trung tâm chính trị và hành
chính của triều Nguyễn và là nơi ăn ở, sinh hoạt của Hoàng gia. Hoàng thành là
vòng thành thứ hai trong Kinh Thành, được xây dựng bằng gạch, cao hơn 4m,
dày hơn 1m, tổng diện tích gần 38 ha, với hơn 147 công trình lớn nhỏ. Bên ngoài
có hệ thống hồ bao bọc gọi là Kim Thủy hồ. Thành gồm 4 cửa ra vào theo 4
hướng Đông – Tây – Nam – Bắc, đối xứng nhau và được bố trí rất chặt chẽ:
- Cửa Hiển Nhơn nằm ở phía Đơng là cửa dành cho nam giới và quan lại ra
vào.
- Cửa Chương Đức ở phía Tây dành cho nữ giới từ Hoàng Quý Phi cho đến

nữ tỳ ra vào.
- Cửa Hịa Bình ở phía Bắc và Ngọ Mơn ở phía Nam dành cho Vua đi và
đoàn ngự đạo theo hầu.
Hoàng thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong là khu vực cực kỳ
trọng yếu, được xây dựng theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối, nghiêm
minh, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”,
“tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian). Tất cả
8


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

các công trình trong Hoàng thành đều được bố trí đối xứng nhau qua đường Dũng
đạo. Gồm các khu vực chính:
• Khu vực phịng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các
hồ (hào), cầu và đài quan sát.
• Khu vực cử hành đại lễ: gồm từ Ngọ Mơn đến Điện Thái Hịa.
• Khu vực miếu thờ: được bố trí ở phía trước hai bên trục dọc của Hoàng
thành theo thứ tự từ trong ra gồm:
* Bên trái có:
- Triệu Tổ Miếu: thờ Nguyễn Kim.
- Thái Tổ Miếu: thờ các chúa Nguyễn.
* Bên phải có:
- Hưng Tổ Miếu: thờ Nguyễn Phúc Luân (cha Gia Long).
- Thế Tổ Miếu: thờ Vua Nguyễn.
* Ngoài ra còn có Điện Phụng Tiên: nơi thờ các vị vua và Hoàng hậu nhà
Nguyễn (dành cho các bà mẹ và vợ Vua đến cúng lễ).
• Khu vực dành cho bà nội và mẹ Vua: phía sau bên phải, gồm hệ thống:
- Cung Trường Sanh: dành cho Thái Hoàng Thái Hậu (bà nội của Vua).
- Cung Diên Thọ: dành cho Hoàng Thái Hậu (mẹ của Vua).

• Khu vực dành cho các Hoàng tử học tập, giải trí (phía sau bên trái) như
Vườn Cơ Hạ, Điện Khâm Văn,…
• Ngoài ra cịn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho
Hoàng gia (phía trước Vườn Cơ Hạ).
• Khu vực Tử Cấm Thành (nằm trên cùng một trục Bắc – Nam với Hoàng
Thành và Kinh Thành).
Ở đây thể hiện rõ nét ý thức tập trung quân chủ, mọi quyền lực thuộc về tay
nhà Vua, tất cả đều nhất nhất chiếu theo quy định mà thực hiện, “tả nam hữu nữ”,
“tả văn hữu võ”,… (nam có lối đi riêng, nữ có lối đi riêng; quan văn một bên,
quan võ một bên,…)

9


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Nơi mà đoàn chúng ta đang đứng đây là Ngọ Mơn, là cổng chính của Hoàng
thành nhìn về hướng Nam, được xây dựng vào năm 1833 dưới thời Vua Minh
Mạng thay cho Nam Khuyết Đài dưới thời Vua Gia Long.
“Ngọ” có nhiều nghĩa:
- Ngọ là giờ Ngọ, là lúc mặt trời lên cao nhất trên thiên đỉnh, Vua là bậc chí
tơn nên ví với mặt trời khi đúng Ngọ.
- Hướng Nam thuộc hướng Ngọ trên trục Tý – Ngọ là trục Bắc – Nam.
Vì vậy, Ngọ Mơn là cổng phía Nam, nên hiểu theo nghĩa khơng gian chứ
không phải theo nghĩa thời gian. Trong dân gian có câu: “Lấy vợ hiền hòa mà xây
nhà hướng Nam”. Như vậy hướng Nam được xem là hướng tốt, hướng của sinh
khí.
Ngày xưa, cửa Ngọ Mơn này thường đóng chặt quanh năm, chỉ được mở khi
Vua ra vào Hoàng thành có đoàn ngự đạo theo cùng và trong những dịp đại lễ
Vua ra thành đi tế lễ ở Đàn Nam Giao hoặc những dịp tiếp đón các sứ thần ngoại

quốc quan trọng trong Hoàng Cung. Còn nếu Vua ra khỏi Hoàng thành vì các
mục đích khác (đi săn bắn, du thuyền,…) thì phải đi qua cửa Hịa Bình ở phía
Bắc.
Nhưng Ngọ Môn không chỉ đơn thuần là một cái cổng mà nó là một tổng thể
kiến trúc khá phức tạp. Có hai phần gồm phần nền đài phía dưới và phần lầu bên
trên.
* Nền đài Ngọ Môn được xây bằng đá thanh, đá quảng, gạch vồ, vôi vữa và
đồng thau gồm có 5 cửa ra vào: 3 cửa chính diện thì cửa giữa dành cho Vua đi, 2
cửa 2 bên gọi là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp
Môn dành cho bá quan văn võ theo hầu trong đoàn ngự đạo. Ở trong lòng
mỗi cánh chữ U còn trổ một lối đi như đường hầm xuyên suốt từ trong ra ngoài
gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn dành cho lính tráng và voi ngựa theo hầu.
Trước đây, ở phía trước đường đi vào Ngọ Môn có dựng 2 tấm bia trên có
khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa) có nghĩa là những ai
đi ngang qua đây đều phải xuống ngựa và nghiêng nón cúi đầu để tỏ lòng thành
10


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

kính. Nhưng đến thời Khải Định, nhà vua được Chính phủ bảo hộ Pháp tặng cho
1 chiếc xe ô tô và mỗi lần đi vào đây đều phải xuống xe nên rất bât tiện. Do đó,
nhà vua đã cho cất giữ 2 tấm bia này. Hiện nay 2 tấm bia đã được cất giữ tại bảo
tàng Cổ vật Huế - số 3 Lê Trực.
Hai bên Ngọ Mơn này ngày xưa cịn đặt 9 khẩu đại pháo gọi là “Cửu vị thần
công” đã được vua Gia Long sắc phong “Thần oai vô địch thượng tướng quân”
nhưng sau đó đã được chuyển ra 2 bên cửa Thể Nhơn (cửa Ngăn) và cửa Quảng
Đức để bảo quản và tránh mưa nắng.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long ra lệnh tập trung tất cả những
khí dụng bằng đồng tịch thu được để đúc thành 9 khẩu thần công này làm “kỷ

niệm muôn đời” về chiến thắng của mình và cũng là thể hiện uy quyền của nhà
Nguyễn.
- 4 khẩu ở cửa Ngăn tượng trưng cho tứ thời Xuân – Hạ - Thu – Đông.
- 5 khẩu ở cửa Quảng Đức tượng trưng cho Ngũ hành Kim – Thủy – Mộc –
Hỏa – Thổ.
Mỗi khẩu nặng khoảng 10 tấn và trên thân có những hình hoa văn trang trí
tinh xảo, có ghi rõ lai lịch, danh hiệu, sắc phong và cả cách sử dụng nữa. Tuy
nhiên, 9 khẩu đại pháo này chỉ có ý nghĩa tượng trưng cho vinh quang chiến
thắng và uy quyền của nhà Nguyễn chứ chúng chưa hề được đem ra sử dụng lần
nào.
Từ mặt đất thường, quý khách đi lên trên nền đài này bằng 2 hệ thống bậc
cấp xây bằng đá thanh ở 2 bên nằm lộ thiên nhưng rất kín đáo. Quanh trên nền
đài là hệ thống tường hoa lan can được trang trí bằng nhiều kiểu gạch hoa đúc
rỗng tráng men ngũ sắc.
* Phần lầu trên Ngọ Môn nơi mà đoàn chúng ta đang đứng đây có tên là Lầu
Ngũ Phụng có hai tầng, dưới lớn trên nhỏ, được làm bằng gỗ lim. Đây được xem
như một lễ đài dùng để tổ chức những nghi lễ quan trọng của triều đình: lễ duyệt
binh, lễ ban sóc, lễ truyền lô,… Và cũng chính nơi đây, ngày 30/8/1945, vị Vua
cuối cũng của triều Nguyễn là Bảo Đại đã thoái vị và trao chính quyền lại cho
11


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (đại diện là Trần Huy Liệu, Cù
Huy Cận, Nguyễn Lương Bằng) và ông đã nói rằng:
“Trẫm thà làm dân một nước tự do còn hơn làm Vua một nước nô lệ”
Lầu được gọi tên là Lầu Ngũ Phụng vì nhìn từ trên cao giống như hình 5 con
chim Phụng đang xòe cánh, chụm đầu lại với nhau. Lầu chính có 3 gian, 2 chái
được sơn son thếp vàng, 2 bên có 2 Dực Lâu “tả chuông hữu trống” chỉ được

dùng vào những dịp nghi lễ quan trọng của triều đình. Lầu Ngũ Phụng có tất cả
100 cây cột bằng gỗ Lim, tượng trưng cho trăm họ bách tính cùng hịa hợp. Trong
đó có 48 cây cột xuyên suốt cả 2 tầng. Lầu có 9 bộ mái lợp bằng ngói ống tráng
men, ở đầu có đắp nổi hình chữ “Thọ” tượng trưng cho sự vạn thọ, trường tồn của
triều đại nhà Nguyễn. Trong đó, có 1 bộ mái cao hơn ở giữa được lợp ngói màu
vàng là nơi dành cho Vua ngự tọa gọi là ngói Hoàng lưu ly và 8 bộ mái còn lại
lợp ngói màu xanh được gọi là ngói Thanh lưu ly. Dân gian Huế có mấy câu viết
về Ngọ Môn như sau:
“Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh
Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Sinh em ra phận gái, chớ hỏi chốn Kinh thành làm chi! ”
Như vậy, 3 câu đầu miêu tả Ngọ Môn nhưng ở câu cuối nói lên thân phận
người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Lúc bấy
giờ, cấm tuyệt đối phụ nữ bước lên lầu Ngũ Phụng này, phụ nữ cũng khơng được
tham gia việc triều chính. Tuy nhiên, duy nhất đến thời Bảo Đại, ông đã phá lệ
đưa bà Nam Phương Hoàng Hậu lên đây để xem các cuộc lễ quan trọng của triều
đình.
Xin mời quý khách vào bên trong ngay gian giữa của Lầu Ngũ Phụng để
đoàn chúng ta tham quan tiếp.
Ở đây có 1 bức tranh sơn dầu do họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàn vẽ vào năm 1992 tái
hiện lại 1 trong 3 nghi lễ lớn của triều đình là Lễ Truyền Lô (xứng danh các tiến
sĩ tân khoa). Ngoài ra ở đây còn tái hiện 1 tấm bia ghi danh các tiến sĩ triều
12


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Nguyễn từ khoa Nhâm Ngọ thời Minh Mạng năm thứ 3 (1822) đến khoa Kỷ Mùi
thời Khải Định năm thứ 4 (1919). Trên bia có ghi rõ họ tên và quê quán của 293

vị tiến sĩ. Danh sách các vị tiến sĩ này trước đây được khắc trên các bia đá ở Văn
Miếu.
Tôi xin mời đoàn chúng ta ra phía sau Ngọ Mơn. Trước mắt q khách là
cầu Trung Đạo, qua sân Đại triều là đến Điện Thái Hòa. Ở giữa có 1 con đường
lát đá thanh gọi là đường Dũng đạo chỉ dành riêng cho Vua đi. Quý khách có thể
dành chút thời gian để chụp ảnh lưu niệm ở đây, sau đó đoàn chúng ta sẽ tiếp tục.
Thưa quý khách, đây là cầu Trung Đạo, hai bên cầu là hồ Thái Dịch trồng
sen, thả cá, ven hồ trồng cây hoa sứ (cây đại) – loài cây tượng trưng cho sự tôn
nghiêm, cao sang, quý phái của chốn Hoàng Cung.
Ở mỗi đầu cầu Trung Đạo là 1 phượng mơn bằng đồng được trang trí tinh
xảo với hình rồng vờn mây quấn cột “Long vân đồng trụ”. Trên ngách mỗi
phượng môn được trang hoàng bằng pháp lam ngũ sắc rực rỡ. Phượng mơn ở
phía Nam mặt ngoài đề 4 chữ “Chính trực đăng bình”, mặt trong đề 4 chữ “Cư
nhân do nghĩa”. Phượng mơn ở phía Bắc mặt ngoài ghi 4 chữ “Cao minh du cửu”
và mặt trong là “Trung hòa vị dục”.
Cầu Trung Đạo dẫn đến sân chầu trước Điện Thái Hòa là sân Đại Triều, còn
được gọi là Bái Đình hay Long Trì (sân rồng). Trước sân chầu là 2 con Nghê lớn
bằng đồng đặt ở 2 bên góc sân (con Kì Lân biến thể) có ý nghĩa là biểu tượng
nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi, là con dân quy phục trước triều
đình, và cũng mang ý nghĩa là để giám sát lòng trung thành của các quan đối với
nhà Vua khi làm lễ thiết triều. Sân Đại Triều được chia làm 3 tầng:
- Tầng cao nhất gọi là “Đệ nhất bái đình” dành cho các quan từ Nhất phẩm
đến Tam phẩm đứng chầu.
- Tầng thứ nhì gọi là “Đệ nhị bái đình” dành cho các quan từ Tứ phẩm đến
Cửu phẩm đứng chầu.
- Tầng thứ 3 gọi là “Đệ tam bái đình” dành cho các hương hào kỳ lão và bà
con bên họ ngoại của vua đứng chầu.
13



Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Dọc theo các tầng sân chầu này có các tấm bia gọi là bia “Phẩm sơn”. Các
quan phải đứng chầu theo phẩm trật của mình tương ứng với các tấm bia này và
phải tuân theo nguyên tắc “Tả văn hữu võ” (bên trái quan văn, bên phải quan võ).
Qua khỏi sân Đại Triều là đến Điện Thái Hòa. Xin mời cả đoàn chúng ta vào
bên trong ngôi Điện.
Thưa quý khách, so với nhiều cung điện khác trong Hoàng Cung nhà
Nguyễn, Điện Thái Hịa là cơng trình kiến trúc nổi bật nhất về chức năng, ý nghĩa
lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật,… Cung điện này được bố trí ngay tại vị trí
trang trọng nhất của Hoàng thành, bởi đó là nơi đặt ngai vàng của nhà vua – một
biểu tượng thiêng liêng nhất dưới chế độ phong kiến. Tại đây, các vua triều
Nguyễn tổ chức lễ Đại thiết triều vào ngày mùng 1 và 15 Âm lịch hàng tháng gọi
là ngày Sóc và ngày Vọng. Và đây cũng là nơi diễn ra các đại lễ của triều đình
như: lễ Đăng quang (Vua lên ngôi), lễ Vạn thọ, lễ Tứ Tuần Đại Khánh
Tiết, Ngũ Tuần Đại Khánh Tiết, lễ tiếp kiến các sứ thần nước ngoài, lễ Hưng
quốc Khánh niệm (lễ Quốc
Khánh – mùng 2 tháng 5),… Trong tất cả những buổi lễ ấy, vua ngự trên
ngai vàng, trong Điện Thái Hòa chỉ có “Tứ trụ triều đình” (tức là 4 vị đại thần
quan trọng nhất của triều đình) và Hoàng thân bên họ nội của vua mới được
“thượng điện” để đứng chầu 2 bên. Còn tất cả các quan thuộc bách tính đều sắp
hàng ngoài sân chầu.
Điện Thái Hịa bắt đầu được khởi cơng xây dựng vào ngày 21/02/1805 và
hoàn thành vào tháng 10/1805 dưới thời vua Gia Long nhưng được dịch chuyển
đến vị trí hiện nay vào năm 1833 dưới triều vua Minh Mạng (Cách vị trí cũ là
30m về phía Bắc). Ngơi Điện này là công trình kiến trúc tiêu biểu của lối kiến
trúc cung đình Huế, điện được xây dựng theo kiểu nhà kép, còn gọi là “trùng
thiềm điệp ốc” (nhà nối liền nhau, mái chồng lên nhau). Nhìn từ bên ngoài thì
thấy điện nhỏ bé nhưng khi vào bên trong mới thấy khơng gian điện rất rộng
chính là nhờ lối kiến trúc này. Mái sau của nhà trước nối với mái trước của nhà

sau bằng mái vỏ cua hay gọi là “trần thừa lưu” có máng xối bằng đồng hứng nước
14


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

của 2 mái nhà này rồi chảy xuống mái hạ 2 bên có 2 miệng rồng đắp nổi phun
nước ra bên ngoài trông rất đẹp mắt. Mái điện được lợp ngói Hoàng lưu ly. Trên
các bờ nóc, bờ quyết có trang trí các hình rồng uốn lượn được thiết kế tỉ mỉ và
tinh xảo càng làm tăng thêm giá trị về mặt kiến trúc cho ngôi điện này.
Trong nội thất Điện Thái Hòa, trên các dải cổ diêm chạy quanh 4 mặt toà
nhà được trang trí theo lối “nhất thi – nhất họa” (tức là 1 bài thơ đi kèm với 1 bức
tranh) đề tài ca ngợi cảnh đẹp quê hương đất nước, ca ngợi vương triều. Điện
gồm 80 cây cột gỗ lim sơn son thếp vàng lộng lẫy. Mỗi cây cột phải được sơn 12
lớp sơn gồm: 8 lớp sơn đen, 3 lớp sơn đỏ và lớp sơn ngoài cùng trang trí hình
rồng vờn mây trên sóng nước gọi là “Long vân thủy ba” tượng trưng cho sự hòa
hợp giữa vua với quần thần trong triều. Ở đây, có 2 cây cột gỗ lim bị bệnh tiêu
tâm (rỗng ruột) đã được Trung tâm Bảo tồn di tích Cố Đơ H́ tu bổ và thay thế.
Trên nền điện lát bằng gạch hoa càng làm cho ngôi điện thêm nguy nga tráng lệ.
Chính giữa điện, dưới bức hoành phi đề 3 chữ Hán “Thái Hòa Điện” có bài
thơ khẳng định lịch sử, truyền thống, chủ quyền của đất nước:
“Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu”
Tên gọi “Điện Thái Hòa” lấy gốc từ Kinh Dịch. Chữ “Hòa” có ý nghĩa là
hòa hợp, hài hòa. “Thái Hòa” là cái khí âm dương hội hợp mà dung hịa với nhau.
Ơng vua trị vì thiên hạ cần phải giữ cho được sự hòa hợp tốt đẹp giữa dương và
âm, cương và nhu thì mới hữu ích cho vạn vật.
Trung tâm điện ở gian giữa là nơi đặt ngai vàng của nhà vua, ngai vàng được

đặt trên 3 tầng bệ gỗ tượng trưng cho thuyết Tam tài: Thiên – Địa – Nhân tức là
trời, đất và con người cùng hòa hợp với nhau.
Chiếc ngai vàng bằng gỗ được thếp vàng bên ngoài là ngai vàng nguyên bản
trải qua 13 đời vua nhà Nguyễn, là chứng nhân trước những bước thịnh suy của
triều đại cũng như sự tranh giành quyền lực trong Hoàng gia. Lúc Gia Long lên
15


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

ngôi năm 1802, vừa mới thống nhất đất nước, nền kinh tế sau chiến tranh còn gặp
nhiều khó khăn. Do vậy, ngai vàng chỉ được làm bằng gỗ rồi thếp vàng bên ngoài
mà thôi. Song qua các triều đại, ngai vàng vẫn được giữ nguyên mặc dù vẫn có
các đời vua nền kinh tế khơng cịn khó khăn, đặc biệt là dưới thời vua Minh
Mạng nền kinh tế ổn định, đất nước thịnh trị nhưng vẫn giữ nguyên ngai vàng vì
quan niệm rằng thay đổi ngai vàng là thay đổi triều đại.
Bên trên ngai vàng là chiếc Bửu tán thếp vàng chạm lộng hình 9 con rồng
uốn lượn rất tinh xảo tượng trưng cho uy quyền nhà Vua - uy quyền của đấng chí
tơn, Thiên Tử cai trị thiên hạ.
- “Bửu” có nghĩa là “Quý”.
- “Tán” là cái lọng, tàn che chở, bảo vệ.
Dưới thời Khải Định, vào năm 1923, Vua cho đại tu Điện Thái Hòa để chuẩn
bị cho lễ Tứ tuần Đại Khánh tiết (mừng Vua tròn 40 tuổi) vào năm sau 1924.
Trong đợt tu sửa lớn này có một số bộ phận của ngôi điện được thay đổi và làm
mới.
- Một là, lắp ráp thêm 2 hệ thống cửa kính ở mặt trước và mặt sau ngôi điện.
Nguyên từ thời Gia Long, Minh Mạng, 2 mặt này bỏ trống, chỉ treo sáo để che
mà thôi. Khi nào diễn ra cuộc lễ Đại triều thì sáo được kéo lên để vua quan nhìn
thấy nhau.
- Hai là, trổ cửa sổ hình tròn lớn, giữa gắn chữ “Thọ” ở 2 mảng tường gạch

chịu lực ở 2 mặt tiền 2 chái của ngôi điện.
- Ba là, làm mới cái Bửu tán bằng pháp lam và các lớp diềm bằng gỗ chạm
lộng thếp vàng, thay cho cái Bửu tán cũ bằng nỉ thêu. Và tất cả các bộ phận bằng
gỗ ở nội thất Điện Thái Hòa đều được sơn son thếp vàng lại. Bửu tán này được tu
sửa vào thời Khải Định bởi bàn tay người thợ tài hoa bậc thầy Nguyễn Văn Khả.
Thoạt nhìn, chiếc Bửu tán trông mềm mại, uyển chuyển tưởng chừng như một
cơn gió nhẹ cũng có thể làm nó rung động nhưng thật ra nó được làm bằng gỗ
thếp vàng. Dưới bàn tay tài hoa của Nguyễn Văn Khả, chiếc Bửu tán trở nên lộng
lẫy và rực rỡ, cực kỳ tinh xảo. Người ta có câu: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
16


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Chính nhờ bàn tay tài hoa của mình mà sau đó Nguyễn Văn Khả được phong hàm
Bát phẩm. Vì sự kiện này mà trong dân gian đã có những lời đàm tiếu, mỉa mai
ông, vì để được phong hàm
Bát phẩm thì phải qua 3 kỳ thi mà Nguyễn Văn Khả chỉ giỏi tay nghề lại
được phong hàm:
“Chẳng phải ông Nghè chẳng phải quan
Làm thợ như mày kể cũng sang
Xuất thân chui đục thời Khải Định
Làm quan Bát phẩm chiếu Vua ban”.
Phía trước ngai vàng là bàn Hoàng án dùng để đựng các tấu trình, sớ và giấy
tờ thiết triều. Hai con Kim Nghê chầu ở 2 bên bằng đồng như để nhắc nhở sự
nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi. Ở giữa đặt một lư trầm lớn bằng đồng, cứ 1
tháng 2 lần thiết triều, ở đây được xông trầm hương nghi ngút. Làn khói hương
trầm này vừa làm tăng vẻ uy nghi, thâm nghiêm cho ngôi điện, lại vừa là một bức
màn để khi thiết triều hạn chế các quan đứng chầu nhìn thấy mặt Vua.
Trước khi lễ Đại thiết triều diễn ra, Vua và các quan đại thần đã họp bàn

trước ở trong điện Cần Chánh và bây giờ chỉ đưa ra những quyết định cuối cùng
chứ khơng cịn họp bàn tranh cãi gì nữa, các quan cứ như thế mà thực hiện lệnh
Vua ban ra.Triều đình chọn một ông quan Truyền lô có chất giọng to, rõ ràng và
phải thông minh để truyền đạt tất cả những thông tin và mệnh lệnh Vua ban ra
cho các quan đứng chầu trước sân Đại triều. Tùy theo điều kiện thời tiết mà lễ
thiết Đại triều được tổ chức cho phù hợp. Ví dụ: vào mùa hè, thiết triều từ rất sớm
và hoàn thành trước khi mặt trời lên.
Đặc biệt ngày xưa cấm tuyệt đối Thái giám khơng được tham gia vào việc
triều chính và cũng cấm phụ nữ khơng được bước chân vào Điện Thái Hịa này.
Phần chái sau của Điện Thái Hòa này là nơi Vua chuẩn bị lại trang phục
chỉnh tề và mở cửa bước lên ngai vàng.

17


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Điện Thái Hòa tuy đã được nhiều lần trùng tu nhưng nhìn chung so với hình
dạng và giá trị ban đầu vẫn còn được bảo tồn. Ngôi điện này xứng đáng là bộ mặt
quốc gia dưới thời nhà Nguyễn.
Trong Hoàng Thành, phía sau Điện Thái Hịa có một vòng thành thấp hơn
gọi là Tử Cấm Thành, tôi xin mời đoàn chúng ta tiếp tục tham quan.
Thưa quý khách, đoàn chúng ta đứng ở đây có thể thấy một loại cây rất đặc
biệt được gọi là cây Ngô đồng. Tôi xin phép được giới thiệu đôi nét về loài cây
này và tại sao nó lại được trồng trong Đại Nội này?
Cây Ngô đồng được đưa từ Quảng đông – Trung Quốc về dưới thời vua
Minh Mạng (1821). Hoa Ngơ đồng nở có sắc hoa tím H́ rất thi vị và chỉ nở
đúng 20 ngày vào dịp Tết. Khi cây trổ hoa thì tất cả lá đều rụng xuống nhường
chỗ cho sắc tím ngự trị. Hình ảnh “chim Phượng Hoàng đậu cây Ngô đồng” là
tượng trưng cho “thái bình thịnh trị”. Do đó, hình ảnh này đã trở thành một trong

những mơ-tip trang trí thường gặp trong các cung điện, lăng tẩm triều Nguyễn và
cũng chính vì thế mà nó được trồng trong khu vực Đại Nội này.
Trước mắt chúng ta là khu vực Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành có mặt bằng
hình gần vuông, chiếm chu vi khá rộng khoảng 1200m, la thành cao 3m72, dày
0m72, mỗi mặt trên dưới 300m được xây bằng gạch. Tử Cấm Thành được xây
dựng vào năm Gia Long thứ 3 (1804) gọi là Cung Thành đến năm Minh Mạng
thứ 3 (1822) vua đổi tên là Tử Cấm Thành. Đây là nơi ăn ở sinh hoạt của Vua và
Hoàng Gia. Tại sao lại gọi là “Tử Cấm Thành”? Đây có phải là ngôi thành chết
không? “Tử” có nhiều nghĩa:
- “Tử” là “con”
- “Tử” là “chết”
- “Tử” là màu “tía”
 “Tử Cấm Thành” phải được hiểu là ngơi thành cấm màu tía tức “lầu son
gác tía” chứ khơng phải là ngơi thành chết như người ta vẫn nghĩ.
Tử Cấm Thành có 7 cửa, mặt Nam có 1 cửa duy nhất thông với Điện Thái
Hịa là Đại Cung Mơn được xây dựng năm Minh Mạng thứ 14 (1833), là lối dành
18


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

riêng cho Vua đi vào Tử Cấm Thành. Cửa này đã bị phá hủy hoàn toàn qua 2
cuộc chiến tranh. Trong khu vực Tử Cấm Thành có gần 50 công trình kiến trúc
các loại, bao gồm nhiều cung điện vàng son lộng lẫy, gồm 2 khu vực chính là:
* Khu vực thứ nhất từ Đại Cung Môn đến Điện Cần Chánh: nơi dành cho
Vua và các quan làm việc.
+ Sau Đại Cung Môn là một cái sân rộng, rồi đến Điện Cần Chánh - nơi vua
làm việc và thiết thường triều vào các ngày mùng 5, 10, 20, 25 hàng tháng, nay
đã bị hư hỏng hoàn toàn, chỉ còn lại nền móng của Điện.
+ Hai bên Điện Cần Chánh có hai nhà Tả Vu và Hữu Vu là nơi các quan

ngồi chờ và sửa sang, chỉnh đốn lại phẩm phục trước khi vua thiết thường triều
vào buổi sáng.
- Tả Vu hiện trưng bày đồ lưu niệm.
- Hữu Vu được dùng làm nơi cho du khách đến đây được mặc trang phục
Hoàng gia để chụp ảnh kỷ niệm.
+ Ngay tại sân Điện Cần Chánh có đặt 2 vạc đồng lớn được đúc vào những
năm 1660, 1662 dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đây là 2 vạc đồng đẹp và lớn
nhất trong số 10 vạc được đúc thời bấy giờ: “Chúa đúc vạc – Vua đúc đỉnh”.
Nhiều du khách đến đây vẫn lầm tưởng 2 cái vạc này là vạc dầu sôi.
Thật ra thì không phải như vậy, ngày xưa nếu ai có trọng tội thì bị xử chém
đầu hoặc “voi giày ngựa xéo” chứ hoàn toàn không có hình phạt cho vào vạc dầu
sôi. Hai vạc này đã được đúc cách đây gần 4 thế kỷ, mỗi vạc nặng gần 2.5 tấn là
kỷ niệm của vinh quang và chiến thắng của các Chúa Nguyễn, đồng thời là sự thể
hiện uy quyền của nhà chúa và sự bền vững của chế độ. Hai vạc đồng này còn
được dùng để chứa nước phòng khi hỏa hoạn xảy ra ở khu vực này.
+ Ở đây còn đặt một con dấu ấn triện có khắc 4 chữ Hán “Hoàng Đế chi
bảo” làm bằng gỗ mít mơ phỏng lại con dấu ngày xưa vốn là bằng vàng ròng
nặng 11kg, mỗi mặt dài khoảng 13cm, bên trên đắp nổi hình 2 con rồng uốn lượn.
* Khu vực thứ hai trong Tử Cấm Thành là từ sau Điện Cần Chánh đến Lầu
Kiến Trung: đây là nơi ăn ở, sinh hoạt của Vua và Hoàng gia. Theo nguyên tắc
19


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

ngày xưa khu vực này chỉ có Vua, Thái giám và cung nữ mới được ra vào. Bởi
vậy, đây được xem là chốn “Thâm cung bí sử”, “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”.
Khu vực này gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau như:
- Điện Càn Thành (dành cho Vua ăn ở, sinh hoạt).
- Cung Khôn Thái (dành cho Hoàng Quý Phi).

- Lầu Kiến trung (từng là nơi ở của Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương).
- Lục viện (dành cho cung nữ).
- Thái Bình Lâu (nơi Vua đọc sách).
- Vườn Ngự Uyển (nơi Vua giải trí).
- Thượng Điện Đường (nơi phục vụ ăn uống).
- Duyệt Thị Đường (nhà hát Hoàng cung).
Sau khi vua Bảo Đại thoái vị vào ngày 30/8/1945, toàn bộ khu vực Tử Cấm
Thành đã bị bỏ hoang từ năm 1947 đến năm 1975. Trải qua 2 cuộc chiến tranh
cùng với sự tàn phá của khí hậu, thời tiết khắc nghiệt ở Huế, hầu hết các công
trình trong Tử Cấm Thành đều đã bị hư hại gần như hoàn toàn. Có đến hơn 80%
công trình kiến trúc bị phá hủy, hiện nay chỉ cịn lại một số cơng trình như: Tả vu,
Hữu vu, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đơ H́
đang thực hiện cơng tác khơi phục lại hệ thống các công trình kiến trúc trong khu
vực này và khoảng đến năm 2010 thì hoàn tất để tiếp tục đón khách du lịch đến
tham quan, nghiên cứu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa lịch sử
truyền thống của một di tích nằm trong quần thể kiến trúc đã được cả nhân loại
công nhận là Di sản Thế giới.
Bây giờ đoàn chúng ta sẽ tiếp tục tham quan một khu vực nữa còn tương đối
nguyên vẹn trong Đại Nội này đó là khu vực Thế Miếu – nơi thờ các vị Vua nhà
Nguyễn.
Việc triều Nguyễn cho xây dựng các miếu thờ (Hưng Miếu, Thế Miếu, Triệu
Miếu, Thái Miếu, Điện Phụng Tiên) chứng tỏ nhà Nguyễn rất trọng vọng tổ tiên
của mình. Thế Miếu là một khu vực nằm ở góc Tây Nam của Hoàng thành gồm

20


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

nhiều công trình kiến trúc giá trị và có ý nghĩa trong Đại Nội, tiêu biểu là Thế

Miếu, Hiển Lâm Các và Cửu Đỉnh.
Trước khi vào Thế Miếu, đoàn chúng ta có thể thấy ở đây có một cây thông
rất đẹp và lạ. Cây thông này do vua Minh Mạng trồng vào năm 1822 gọi là “Cây
tùng Thế Miếu”. Đây là cây thông cổ thụ đã hơn 180 năm tuổi, có dáng “Long
thăng phượng vũ”. Vua Minh Mạng cho uốn thân cây thành hình rồng bay, tán
hình phượng múa, thân cũng xù xì như vảy rồng càng tôn thêm vẻ uy nghi, thâm
nghiêm cho chốn thờ tự này.
Năm 1804, vua Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế
Miếu ngày nay để thờ cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Sau khi vua Gia Long
mất, Minh Mạng lên nối ngôi, năm 1821 ông đã cho dời miếu Hoàng Khảo lui về
phía sau vài chục mét, đổi tên thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu lên vị trí ấy
vào năm 1821 – 1822 để thờ vua Gia Long và các vua Nguyễn kế vị. Vì vậy, nhà
Vua đã chọn mặt bằng kiến trúc rất rộng với diện tích là 1500m2.
Thế Miếu cũng được xây theo kiểu nhà kép truyền thống “Trùng thiềm điệp
ốc”, mái lợp ngói Hoàng lưu ly, trên bờ nóc, bờ quyết có trang trí các hình rồng
uốn lượn. Nội thất Thế Miếu ở gian giữa bên trên có treo bức Hoành phi đề ba
chữ “Thế Tổ Miếu” lấy từ miếu hiệu Thế Tổ Cao Hoàng Đế của Vua Gia Long –
vị Vua đầu triều có công lập nên vương triều Nguyễn. Để tưởng nhớ công lao to
lớn của Vua cha nên vua Minh Mạng mới cho đặt tên miếu này là Thế Tổ Miếu.
Trong Thế Miếu có tất cả là 10 gian thờ các vị Vua triều Nguyễn. Mỗi gian
thờ gồm 4 phần:
- Án thờ: đặt di ảnh Vua.
- Bàn thờ: đặt hương án thờ Vua.
- Sập thờ: đặt đồ cúng lễ.
- Khám thờ: đặt bài vị Vua và Hoàng Hậu (Vua có một Hoàng hậu thì thờ
hai bài vị, Vua có hai Hoàng hậu thì thờ ba bài vị,…). Kể từ khi Gia Long khai
sáng triều Nguyễn cho đến các vị Vua về sau, chưa bao giờ có sắc dụ nào tấn tôn
ngôi Hoàng hậu. Theo nguyên tắc (lệ “Tứ bất lập”: không lập Hoàng hậu, không
21



Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

lập Thái tử, không lập Tể tướng, không lập Trạng Nguyên), triều Nguyễn chỉ lập
Hoàng Quý Phi khi Vua còn tại vị, chỉ khi Vua băng hà mới phong Hoàng Quý
Phi lên làm Hoàng hậu. Nhưng đến thời Bảo Đại, vị Vua cuối cùng của triều
Nguyễn lại bỏ luật lệ có từ xưa mà tấn tôn bà Nguyễn Hữu Thị Lan làm Nam
Phương Hoàng Hậu, vị Hoàng hậu duy nhất khi Vua còn tại vị. Sự sắp xếp các án
thờ trong Thế Tổ Miếu được bố trí theo tơn ti trật tự truyền thống phương Đơng
với nguyên tắc “tả chiêu hữu mục”. Gian chính giữa là vị trí quan trọng nhất thờ
vị Vua đầu triều Gia Long, gian tả thứ nhất thờ Vua Minh Mạng, gian hữu thứ
nhất thờ Vua Thiệu Trị, gian tả thứ hai thờ Vua Tự Đức,…
Án thờ Vua Gia Long được đặt ngay gian chính giữa của Thế Miếu để ghi
nhớ cơng lao của vị Vua có công thống nhất đất nước và lập nên vương triều
Nguyễn. Sau khi chiếm lại Phú Xuân, năm 1802 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy
niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Vua Gia Long
lên ngôi vào ngày mùng 02 tháng 5 năm Nhâm Tuất (01/06/1802) nên sau đó
ngày này được triều Nguyễn chọn làm ngày lễ “Hưng quốc Khánh niệm” hàng
năm. Niên hiệu “Gia Long” là lấy từ tên của 2 thành phố lớn thời bấy giờ đó là
Gia Định và Thăng Long.
- Gia Định: là vùng đất chúa Nguyễn khai hoang lập ấp, đất dấy nghiệp của
vương triều Nguyễn.
- Thành Thăng Long.
Tháng 03/1804, Vua Gia Long cho đổi Quốc hiệu của nước ta là Việt Nam.
Vua Gia Long là vị Vua đã từng bị lịch sử đánh giá là “cõng rắn cắn gà nhà”
nhưng rồi sau này cũng chính lịch sử đã ghi nhận ông là vị Vua có công “thống
nhất đất nước, mở mang bờ cõi về phương Nam, thu phục giang san về một mối”.
Vua Gia Long ở ngôi được 18 năm thì mất vào ngày 03/02/1820, thọ 58 tuổi,
có 31 người con (13 con trai, 18 con gái).
Triều Nguyễn có tất cả là 13 đời Vua nhưng trong Thế Miếu chỉ có 10 vị

Vua được thờ là: Vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm

22


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định. Có 3 Vua không được thờ
là Vua Dục Đức, Vua Hiệp Hòa và Vua Bảo Đại vì đây là ba vị Vua “phế đế”:
* Vua Dục Đức lên ngôi vào năm 1883, làm Vua được 3 ngày thì bị “phế
đế”. Ông bị kết 3 tội: muốn sửa di chiếu, có đại tang cha mà mặc áo màu và tội
hư hỏng chơi bời. Khi Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Nguyễn Phúc
Ưng Chân (Vua Dục Đức) nhưng trong di chiếu có đoạn viết: “…Vì có tật ở mắt
nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều
chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có Vua lớn tuổi là điều
may cho xã tắc. Nếu bỏ đi thì biết làm sao đây”.
Vua Tự Đức còn dặn các quan rằng cứ đọc vậy để răn Vua mới sửa đổi tính
nết mà tu tỉnh lấy bản thân. Nhưng lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt
đoạn này nên 3 ngày sau bị triều đình truất phế theo lệnh của Từ Dũ Hoàng Thái
Hậu (mẹ Vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu (vợ Vua Tự Đức). Sau đó,
Vua Dục Đức bị giam vào ngục rồi bị bỏ đói cho đến khi mất.
Sau khi Vua Dục Đức mất, người ta không cho gia đình biết mà lấy chiếc
chiếu quấn thi hài nhà Vua và sai lính gánh đi chơn. Khi gánh đến đồi Phước
Quả, làng An Cựu thì cỗ quan tài bằng chiếu bị đứt dây rơi xuống một vũng nước.
Đêm ấy trời mưa gió lạnh lẽo, ướt át vì đang ở vào mùa Đơng, những người lính
nghĩ rằng có lẽ Vua muốn được yên nghỉ ở đây cho nên họ mới đào huyệt và chôn
Vua tại chỗ một cách qua loa cho xong việc. Sau này, Vua Thành Thái cho xây
lăng Vua cha ngay khu vực nấm mồ đã được chôn và đặt tên là An Lăng. Vua
Dục Đức mất năm Giáp Thân (1884) thọ 32 tuổi, có 19 con (11 con trai và 8 con
gái). Vì là vị Vua “phế đế” nên Vua Dục Đức không được thờ trong Thế Miếu.

* Vua Hiệp Hòa cũng là vị Vua bị “phế đế” nên cũng khơng được thờ trong
Thế Miếu. Ơng lên ngơi ngày 30/07/1883, làm Vua được 4 tháng 10 ngày thì bị
kết tội “có ý thân Pháp” rồi bị triều đình Huế truất phế, ban cho một dải lụa, một
thanh kiếm và một chén thuốc độc buộc tự vẫn. Cuối cùng ông đã uống thuốc độc
tự vẫn vào ngày 30 tháng10 năm Quý Mùi tức ngày 29/11/1883. Vua Hiệp Hòa
có 17 người con (11 trai, 6 gái). Ông thọ 37 tuổi.
23


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

* Vua Bảo Đại là vị Vua thứ ba khơng được thờ trong Thế Miếu. Ơng ở ngôi
cho đến 30/08/1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Mơn, trao chính quyền lại cho
chính phủ Cách Mạng lâm thời, kết thúc chế độ quân chủ tại Việt Nam. Sau đó,
ông sang Pháp và sống hết cuộc đời cịn lại của vị Vua lưu vong ở đó. Ơng mất
ngày 31/07/1997 tại Pháp.
Trong 10 vị vua được thờ ở Thế Miếu, có 3 Vua là Hàm Nghi, Thành Thái
và Duy Tân là 3 vị Vua yêu nước chống Pháp, bị Pháp đưa đi đày biệt xứ, nhưng
là những vị Vua “xuất đế” nên trước đây cũng không được thờ trong Thế Miếu.
Mãi đến năm 1958, 3 án thờ của 3 vị Vua này mới được hội đồng Nguyễn Phước
Tộc làm lễ và đưa vào thờ ở Thế Miếu. Do vậy, án thờ của 3 vị Vua này trông
mới hơn so với những án thờ còn lại.
* Vua Hàm Nghi tại vị từ năm 1884 đến năm 1885. Lịch sử của vị Vua này
gắn với binh biến năm Ất Dậu (1885). Năm ấy quân Pháp nã đạn pháo vào thành
nội. Quân ta lúc đầu khág cự rất anh dũng nhưng sau đó vì khí giới quá yếu nên
rút lui và tan rã dần, dân chúng trong thành chạy loạn bị chúng tàn sát rất dã man,
tiếng la tiếng khóc vang trời dậy đất. Nhiều của cải trong cung bị chúng cướp đi.
Đó là ngày 23 tháng 05 năm Ất Dậu (05/07/1885) – ngày thất thủ Kinh đô. Từ đó
về sau ở Huế hàng năm vào ngày này người dân Huế tổ chức cúng lễ để cầu
nguyện cho các vong hồn được siêu thoát.

Sau đó, Vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở phát hịch Cần Vương,
phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi
nhà Vua quay về nhưng thất bại. Đến ngày 30/10/1888, tên Trương Quang Ngọc
(người hầu cận của Vua) bị Pháp mua chuộc nên đem người bắt Vua Hàm Nghi
dâng cho Pháp. Vua Hàm Nghi bị Pháp bắt đi đày ở đảo Angieri và nhà Vua sống
ở đó cho đến lúc mất, thọ 72 tuổi.
* Vua Thành Thái tại vị từ năm 1889 đến năm 1907, là con thứ 7 của Vua
Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng Thái Hậu. Vua Thành Thái là người có tư tưởng
tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Lúc lên
ngôi chỉ mới 10 tuổi nhưng Vua rất chững chạc. Ông thường vi hành ra ngoài
24


Lê Thanh Tùng – VHDL.K18

thành và hiểu được sự tình nên ngày càng tỏ ra căm ghét Pháp, ông âm thầm
chống đối. Ơng đã giả điên để che mắt Chính phủ bảo hộ Pháp.
Ngày xưa, tương truyền có hai câu thơ của Vua Thành Thái:
“Kim Long có gái mĩ miều,
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi”
Hai câu thơ này là cả một giai thoại về vị Vua yêu nước này. Đọc hai câu
thơ, phần lớn mọi người đều cho rằng Vua Thành Thái ham mê nữ sắc, tính khí
bất thường nhưng thực chất ông đã dùng hai câu thơ này để che mắt Chính phủ
bảo hộ Pháp. Ơng đã ngấm ngầm cùng các hầu cận thân tín tổ chức một đoàn nữ
binh ngay trong Tử Cấm Thành mà Cơ Mật Viện vẫn chẳng hay biết gì. Ơng bí
mật lập đoàn nữ binh này để chờ lúc hành sự. Ông cho lính cận vệ lên Kim Long
bàn kế hoạch với gia đình người con gái cần tuyển. Nếu gia đình và cơ gái đồng
ý, để tránh sự dịm ngó của mật thám, ông cho diễn một vở kịch “bắt cóc” đưa họ
vào cung. Mỗi lần tuyển độ 50 người, ban đêm bí mật rèn luyện võ nghệ. Sau khi
đã thuần thục rồi thì bí mật cho trở về gia đình rồitủn 50 cơ khác. Nhưng rồi bí

mật cũng bị bại lộ, mâu thuẫn giữa Vua với Pháp ngày càng gay gắt. Biết Vua có
ý chống đối nhưng không có chứng cớ gì chính đáng để truất phế, lại sợ để lâu e
bất lợi nên Pháp gán cho Vua bệnh “điên” rồi áp giải Vua vào Sài Gòn sau đó đưa
đi quản thúc tại Vũng Tàu.
Năm 1916, Vua Thành Thái bị Pháp đưa đi đày ở đảo Réunion (Phi Châu)
cùng với con trai là Vua Duy Tân. Sau 40 năm sống ở chốn lưu đày, tháng
05/1947 ông được đưa về sống ở Sài Gòn và mất ở đó, thọ 76 tuổi, linh cửu được
đưa về Huế an táng.
* Vua Duy Tân tại vị từ năm 1907 đến năm 1916, tên thật là Nguyễn Phúc
Vĩnh San, là con thứ 5 của Vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định.
Sau khi Vua Thành Thái bị đưa đi quản thúc ở Vũng Tàu, triều đình họp bàn
tìm người kế vị. Pháp có ý đồ muốn lập 1 ông Vua càng nhỏ tuổi càng hay, vì như
thế dễ thao túng hơn và không có ý chống Pháp như Vua Thành Thái. Với ý đồ
đó, chúng lệnh đưa danh sách các vị Hoàng tử đồng thời dẫn họ vào trình diện.
25


×