Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI THU HOẠCH CAO cấp CHÍNH TRỊ môn LỊCH sử ĐẢNG vai trò của lãnh tụ nguyễn ái quốc trong quá trình sáng lập đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.36 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH

TÊN MƠN HỌC:
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TÊN BÀI THU HOẠCH:

VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG
QUÁ TRÌNH SÁNG LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
PHẦN II. NỘI DUNG .................................................................................................2
1. Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời....2
1.1. Tình hình chính trị .......................................................................................2
1.2. Tình hình kinh tế ..........................................................................................3
1.3. Tình hình văn hóa xã hội: ...........................................................................4
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời .......................4
2.1. Phong trào Cần Vương...................................................................................5
2.2. Phong trào dân tộc – dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước .......................5
3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong q trình sáng lập Đảng Cơng Sản ở
Việt Nam ..................................................................................................................8
3.1. Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam Con đường Cách mạng Vơ sản. .......................................................................8
3.2. Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng,


chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
....................................................10
3.3. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. ............................13
3.4. Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
..........................................................................................................................14
PHẦN III. KẾT LUẬN .............................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................17


1

PHẦN I. MỞ ĐẦU
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam
từ một quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và
biến thành thuộc địa. Chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã hội Việt
Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội và sự bần
cùng của đại đa số dân cư. Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường dân
tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều Nguyễn ngày càng lún
sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, nhiều
phong trào yêu nước đã diễn ra. Mục tiêu chung là bảo vệ, khơi phục nền độc lập
dân tộc, tồn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất nước, tiêu biểu như
khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần
Vương, khởi nghĩa Yên Thế trong hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX, qua các
phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân theo xu hướng dân chủ tư
sản đầu thế kỷ XX, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Tuy nhiên, các phong trào
yêu nước đó đều đi đến thất bại, mãi đến năm 1924, Nguyễn Ái Quốc trở về thống
nhất ba Đảng lúc bấy giờ thành một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam thì
cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng mới được giải quyết. Sự ra đời của
Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc “Hồ Chí Minh” người chiến sĩ
cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Người là người Việt Nam đầu tiên nắm bắt

Chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào đặc điểm lịch sử cách mạng dân
tộc Việt Nam. Vai trò quan trọng của Người được thể hiện rõ nét trong quá trình
thành lập Đảng cũng như trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất
đất nước.
Sau khi được học tập, nghiên cứu môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản học viên đã
thấy được vai trò to lớn của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
nên bản thân chọn đề tài “Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình
sáng lập
Đảng Cộng sản Việt Nam” để làm bài thu hoạch môn Lịch sử Đảng Cộng sản.


2

PHẦN II. NỘI DUNG
1. Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Vào đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có nhiều biến động, bức tranh phân chia
thế giới của chủ nghĩa đế quốc ngày càng được phác họa cơ bản và rõ nét. Sự áp
bức và xu hướng thơn tính dân tộc của Chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên rõ rệt. Sự xuất
khẩu tư bản vào các nước thuộc địa đã làm cho các dan tộc thuộc địa bị lôi cuốn
vào con đường tư bản thực dân Chủ nghĩa. Cũng từ đó sự thức tỉnh về ý thức dân
tộc và phong trào đấu tranh tự giải phóng khỏi ách áp bức cuả thực dân tăng lên một
cách mạnh mẽ. Việt Nam đã chịu sự tác động của bối cảnh lịch sử đó.
Từ năm 1858, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng
cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng. Chúng từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn
bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Sau khi hoàn thành việc
xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác
thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân cơng rẻ mạt, cho
vay nặng lãi, mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc. Chính sách “khai hóa văn minh”,
“khai hóa và cải tạo theo kiểu phương Tây” của bọn thực dân Pháp được Hồ Chí

Minh vạch rõ: “Khi người ta là một nhà khai hóa thì người ta có thể làm những
việc dã man mà vẫn cứ là văn minh nhất” và nếu dân bản xứ không nhịn nhục chịu
đựng mà đứng dậy đấu tranh thì các nhà khai hóa sẽ đưa quân đội, súng liên thanh
và tàu chiến đến. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa tư
tưởng
chúng đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc ta.
1.1. Tình hình chính trị
Thực dân Pháp ra sức thi hành chính sách “chia để trị”; chúng trực tiếp nắm
giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, bên cạnh đó là một hệ thống
chính quyền tay sai bù nhìn người Việt: chúng lập ra những đội quân thuộc địa
người ngoại quốc và những đội lính cơ giới người Việt, những tịa án Tây và tòa án
Nam, nhiều nhà tù để đàn áp các cuộc nổi dậy. Chúng thi hành chính sách cai trị
chuyên chế, thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ
dân tộc tôn giáo,…. làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ;
mọi phong trào đấu


3

tranh của nhân dân đều bị chúng đàn áp dã man.
1.2. Tình hình kinh tế
Trong thời kỳ này thực dân Pháp đã khơng từ một thủ đoạn nào để bóc lột nhân
dân ta, thu lợi nhuận tối đa, thẳng tay cướp đoạt và bần cùng hóa nơng dân, chiếm
đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế ở Việt Nam, nắm độc quyền
trong cơng nghiệp khai khống và cơng nghiệp chế rượu, kìm hãm cơng nghiệp
nặng, hạn chế công nghiệp nhẹ, độc chiếm thị trường Việt Nam, tăng cường cho vay
nặng lãi; đồng hóa lãnh thổ kinh tế Việt Nam vào trong toàn bộ lãnh thổ của đế quốc
Pháp và biến Việt Nam thành khâu khăng khít trong sợi dây chuyền của kinh tế thế
giới Tư bản chủ nghĩa.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, quá trình tập trung hóa ruộng đất

diễn ra với quy mơ lớn và tốc độ nhanh hơn trước. Chúng đã trắng trợn cướp đoạt
ruộng đất của nông dân để lập ra các đồn điền trồng cao su, cà phê,…và bắt dân ta
lao động không công cho chúng hoặc thuê với giá rất rẻ mạt. Khơng những thế, thực
dân Pháp cịn tạo điều kiện để bọn địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của
nơng dân. Ngồi ra bọn chúng cịn đặt ra nhiều thứ thuế vô lý bắt nhân dân phải
đúng. Bọn thực dân và địa chủ đã kìm hãm nơng nghiệp Việt Nam trong vòng lạc
hậu để làm lợi cho chúng: thực dân Pháp chưa bao giờ đặt vấn đề kĩ nghệ hóa nơng
nghiệp ở Việt Nam nên cơng cụ lao động sản xuất rất thô sơ. Thiên tai xảy ra liên
miên, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khú khăn. Chúng cịn duy trì lối bóc lột
phong kiến, kết hợp với lối cướp bóc của đế quốc (đây là đặc điểm của phương
pháp bóc lột thuộc địa), làm nơng dân phá sản, kìm hãm sản xuất.
Vì muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp ế thừa của
Pháp, nên chúng đã ra sức kìm hãm sự phát triển của cơng nghiệp nước ta. Do sự
kìm hãm đó nên cơng nghiệp Việt Nam rất nhỏ bé, q quặt. Điều đó thể hiện rõ rệt
ở chỗ trong hoạt động công nghiệp, thực dân Pháp chỉ chú trọng vào việc khai thác
mỏ mà không hề quan tâm đến những ngành nghề khác. Không chỉ trên lĩnh vực
công nghiệp mà trên tất cả mọi phương diện kinh tế, thực dân Pháp đều tìm mọi
cách đưa nước ta vào trong quỹ đạo phát triển của Chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực
dân và biến chuyển


4

theo q trình ấy.
1.3. Tình hình văn hóa xã hội:
Từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, chúng thực hiện chính sách ngu
dân, khuyến khích văn hóa nơ dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta
trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng. Với chính sách
khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi
lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ chế độ phong

kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam xuất hiện hai
mâu thuẫn: mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lịng xã hội Việt Nam phong kiến cũ là
mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến
không mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại, tuy khơng cịn hồn tồn giống như trước. Bên
cạnh mâu thuẫn này, xuất hiện mâu thuẫn mới bao trùm lên tất cả, đó là mâu thuȁn
giữa dân tộc ta với đế quốc thực dân Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng mở rộng và
gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa
dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời là mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam một xã hội thuộc địa của Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ
chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không
tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn kiền với đấu tranh đòi
quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đặt ra cần được
giải quyết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ ác liệt, dân
tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh
dũng kiên cường bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã
liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã tham gia
đấu tranh dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh
hướng khác nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức,
lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy rằng các
phong trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất cả những cuộc khởi
nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ.


5

2.1. Phong trào Cần Vương
Sau khi thực dân Pháp căn bản hồn thành cuộc xâm lược Việt Nam với hịa
ước 1884, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đã chuyển qua

một giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn cơng trại lính Pháp nằm cạnh kinh thành
Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu nước trẻ tuổi
Hàm Nghi. Bị thất bại, Tơn Thất Thuyết đã phị vua Hàm Nghi lánh vào vùng rừng
núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân cùng toàn dân tiếp tục chiến
đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển trong nhiều địa phương ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX.
Trong phong trào Cần Vương, các thủ lĩnh sĩ phu văn thân, liên kết với các thổ
hào địa phương, đã tập hợp đông đảo quần chúng nơng dân trong vùng, dựng vũ khí
thơ sơ nổi dậy chống lại cuộc bình định của thực dân Pháp. Các sĩ phu muốn khôi
phục một vương triều phong kiến có chủ quyền, các thổ hào muốn dành lại những
thế lực bị tước đoạt, nông dân chống lại sự bốc lột thuế má và cướp đoạt ruộng đất,
tất cả gắn bó lại trên danh nghĩa của một phong trào yêu nước chống xâm lược
mang tính chất truyền thống. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương đã thất bại vì
rời rạc, lẻ tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất.
2.2. Phong trào dân tộc – dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước
2.2.1. Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng của tác
động bên ngoài.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, trước
những chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội truyền thống Vệt Nam
biến đổi. Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu là trong các cơng trường và hầm
mỏ) hình thành. Ở đô thị xuất hiện một tầng lớp công thương và tiểu tư sản thành
thị. Tầng lớp sĩ phu nho học bên cạnh đọc các kinh sách nho giáo, các nho sĩ này
cũng đã đọc những cuốn sách mới của các tác giả châu Âu và Trung Quốc. Vì vậy
phong trào cải cách chính trị - văn hóa ở Trung Quốc, cùng với những tư tưởng
cách mạng Pháp được dịch qua chữ Hán đã tác động vào Việt Nam. Giới sĩ phu lúc
này thấy được thế suy tàn của các chế độ phong kiến Châu Á và sự cần thiết phải cải
cách xã hội.


6


2.2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa
Những nhận thức chính trị đó đã làm nảy sinh một khuynh hướng chính trị
mới: trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào lưu chính trị này kế tục phong trào Cần
Vương yêu nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều nét mới khác trước.
Tầng lớp khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu u nước tiến bộ. Lịng u nước
của họ khơng còn bám giữ vào những tư tưởng “trung quân” mà đã chuyển sang ý
thức về một chủ nghĩa quốc gia dân tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào
trong cả nước. Những sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng,
muốn đánh đuổi thực dân Pháp, không thể chỉ hạn chế trong những hình thức khởi
nghĩa vũ trang như trước đây, mà cịn phải kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về
chính trị, ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông
đảo quần chúng nhân dân. Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân chủ là
các nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lịng u nước, chủ trương vận động quần
chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngaòi, tổ chức bạo động để đánh
đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng nền chế độ chính trị dựa vào
dân. Ông đã lập hội Duy Tân, vượt biển sang Nhật mưu cầu ngoại viện, tổ chức
phong trào Đông Du đưa các thanh thiếu niên Việt Nam sang học ở Nhật để chuẩn
bị lực lượng chống Pháp và dựng văn thơ yêu nước để thức tỉnh quốc dân . Cuộc
vận động
Đông Du chỉ diễn ra được mấy năm và đã bị thực dân Pháp bóp chết . Những du
học sinh Việt Nam bị trục xuất ra khỏi Nhật và cả cụ Phan cũng phải rời khỏi đất
nước này. Sau cách mạng Tân Hợi, ông lưu lạc ở Trung Quốc, lại lập ra tổ chức Việt
Nam Quang Phục hội, chuẩn bị đưa quân về nước khởi nghĩa, nhưng cũng không
tránh khỏi bị thất bại. Phan Bội Châu là một người anh hùng đầy nhiệt huyết nhưng
không gặp thời thế.
Phan Châu Trinh gần đồng thời với Phan Bội Châu, là một sĩ phu ở Quảng
Nam đã giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội. Ơng đã từng bơn ba ở nhiều
nước, sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu nước bằng phương pháp

nâng cao dân trí, dân quyền. Ông vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi
Pháp


7

phải sửa đổi chính sách cai trị ở thuộc địa. Chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng dân chủ
của Phan Châu Trinh, nhiều phong trào cải cách xã hội lúc đó đã nổi lên như việc
thành lập nhà trường kiểu mới Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, phong trào Duy
Tân. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh thể hiện một tinh thần dân tộc yêu
nước sâu sắc, nhưng chủ trương dựng cải cách để cứu nước của ơng có phần không
hợp thời thế.
2.2.3. Phong trào đấu tranh của quần chúng cơng, nơng, binh
Các phong trào chính trị của giới sĩ phu đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến phong trào đấu tranh của quần chúng công nông binh trong thời kỳ này. Ở
đây những cuộc đấu tranh so với phong trào của giới sĩ phu thường là thiếu đường
lối, tổ chức nhưng lại đông đảo, quyết liệt hơn. Năm 1908, do ảnh hưởng của những
tư tưởng cải cách của Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân hô hào đời sống
mới, một phong trào chống sưu thuế của nông dân đã lan rộng ra ở nhiều tỉnh. Hàng
ngàn nơng dân nổi dậy biểu tình, bao vây huyện lị đòi giảm sưu thuế. Đáng chú ý là
khởi nghĩa của nơng dân n Thế của Hồng Hoa Thám, họ đã liên lạc với tổ chức
yêu nước của Phan Bội Châu trong một kế hoạch tấn công vào Hà Nội.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời, số lượng cịn ít nhưng bước đầu
đã tham gia đấu tranh, điển hình có những cuộc bãi cơng bạo động của công nhân
các công trường đường sắt (Yên Bái), học sinh trường Bách Nghệ (Sài Gịn) và một
số cơng nhân tàu biển. Ngồi ra cịn có những cuộc bạo động khởi nghĩa chống
Pháp của dân tộc ít người.
Ngồi tầng lớp sĩ phu và quần chúng công nông, đầu thế kỷ XX cịn có một lực
lượng xã hội mới tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp. Đó là các binh lính
người Việt trong quân đội Pháp. Do thực hiện chính sách dựng người Việt để trị

người Việt nên qua những cuộc càn quét những binh lính Việt đã thấy được tận mắt
những tội ác của giặc, lòng căm thù giặc được khơi dậy. Hơn nữa do sự đối xử của
thực dân Pháp đối với họ là khinh miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới việc họ nổi dậy bạo
động khởi nghĩa.
Những phong trào dân tộc - dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX do


8

những sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tham gia, tuy khơng thành cơng nhưng đã có tiếng vang lớn. Đó là
những bước đi ban đầu để tìm ra một con đường mới, dúng đắn trong cuộc cách
mạng dân tộc và cách mạng xã hội.
3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong q trình sáng lập Đảng Cơng Sản ở Việt
Nam
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong trào yêu nước
và dân chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân chống lại chế độ bóc lột của bọn
địa chủ và thực dân Pháp đã lần lượt diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc
biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi cơng, biểu tình.
Tuy nhiên trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân những phong
trào này cuối cùng đều không thành cơng. Nhưng ngun nhân cơ bản đó là những
người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phản ánh
đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đang đứng trước
cuộc khủng hoảng về đường lối.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính
trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương
hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã
nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và

phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Công lao to
lớn của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
3.1. Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam-Con đường Cách mạng Vô sản.
Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu chân Người từng in trên 3
đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong 10 năm (1911 - 1920). Quá trình
thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ
hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan trọng, đó là nhận
ra diện


9

mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân: ở đâu bọn đế quốc, thực
dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng
nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột”. Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua
nghiên cứu các cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi,
không triệt để, tiếng nói là cộng hịa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột
cơng nơng trong nước, ở ngồi thì áp bức thuộc địa”.
Giữa tháng Giêng năm 1919, Paris long trọng tổ chức hội nghị hòa bình.
Giới cầm quyền các cường quốc thắng trận muốn “tổng kết” chiến tranh càng nhanh
càng tốt, hay nói cách khác muốn giàu lên bằng cách bóc lột các nước bại trận.
Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghị một bản tài liệu có tên là “Bản yêu sách của
nhân dân An Nam”, địi chính phủ Pháp cơng nhận các quyền tự do dân chủ và bình
đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản u sách đó khơng được hội nghị quan tâm đến.
Từ thực tế đó người ra một kết luận quan trọng: tự do bình đẳng bác ái,…những chữ
tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là màn khói để giai cấp tư sản che đậy những tội ác của

chúng. Những bản tuyên ngôn mà bọn đế quốc tung ra bừa bãi trong những năm
chiến tranh để làm bia đỡ đạn cho chúng hóa ra chỉ là một trị bịp bợm. Chẳng bao
giờ cầu xin được công lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối thốt ở đâu? Chỉ ở trong đấu
tranh, đấu tranh một mất, một cịn. Để giải phóng mình, nhân dân các dân tộc thuộc
địa phải lât đổ ách thông trị của bọn áp bức. Cách mang là trận đánh quyết liệt, nhờ
nó mà thành luỹ thực dân tưởng như bất khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. “Bản u
sách” đã trở thành một tun ngơn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới
trong việc phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc thì cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và
thắng lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga có ý
nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa trên thế giới. Nhờ có Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng
dân tộc


10

ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế quốc
phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến con đường Cách mạng
tháng Mười và chú tâm tìm hiểu tư tưởng đường lối của cuộc cách mạng đó. Và
bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn
Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin đăng trên báo “Nhân đạo”. Đây là tác phẩm đầu tiên của Lênin mà Nguyễn Ái
Quốc được làm quen. Người đọc đi đọc lại một số câu, cố gắng hiểu sâu hơn nữa
bản chất những tư tưởng của Lênin và Người rưng rưng nước mắt, hân hoan vô cùng.
Bản đề cương đó đã chỉ ra cho Người “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vơ sản”. Từ đây, Người
dứt khốt đi theo con đường cách mạng của Lênin, con đường cách mạng tháng

Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng
sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của
Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu
sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc. Bắt
gặp lý tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước
giải phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vơ sản. Sau này Người có kể lại:
“Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho
chúng ta”. Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc
tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hịa
bình cho dân tộc, Người đưa ra những thơng điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là
những thơng điệp về hịa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100 năm
qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
3.2. Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư


11

tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia
hoạt đọng trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích cực vận động phong
trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt
Nam qua các báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân” và sau
này là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) của Người.
Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp
chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người tham gia

sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và viết bài cho báo
Thanh niên. Và đặc biệt là đầu năm 1927, tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự tiếp theo một cách lơgíc cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”. “Đường cách mệnh” đã vạch ra con
đường cụ thể để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng: để chiến thắng kẻ thù
hùng mạnh, những nhà cách mệnh Việt Nam phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ
bản: nắm vững học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập đội tiên phong tức là
Đảng cách mạng. “Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ
chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững, cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm nồng cốt, trong Đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải tn theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng
như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”. Nguyễn Ái Quốc đã
trình bày một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của học thuyết Lênin áp dụng
vào những điều kiện cụ thể của nước Việt Nam thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc chỉ ra
rằng Việt Nam đang đứng ở ngưỡng của cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách
mạng này phải là một giai đoạn chuyển tiếp để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng
sản Việt Nam sau này là lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống bọn thực dân và Đảng
phải kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Theo Nguyễn Ái Quốc,
lực lượng cơ bản của cách mạng Việt Nam sau này là giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Luận điểm quan


12

trọng này được Nguyễn Ái Quốc trình bày ngay từ buổi đầu của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc và về sau trở thành luận điểm chủ đạo, luận điểm quyết định trong
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Người.
Tác giả “Đường cách mệnh” cũng phát triển hơn nữa tư tưởng của mình và

cho rằng chủ nghĩa u nước chân chính khơng thể tách rời chủ nghĩa Quốc tế vơ
sản. Vì vậy, nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất của các nhà cách mạng Việt Nam là
chăm chú nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Con đường của cách mạng
Việt Nam là con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa phải liên minh với giai cấp vơ sản cách mạng chính
quốc. Thống nhất và gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong trào cách
mạng thế giới là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược. “Cách mạng Việt Nam là bộ
phận hợp thành của cách mạng thế giới. Tất cả các nhà cách mạng đều là bạn
của nhân dân Việt
Nam”.
Nói tóm lại, hệ thống quan điểm và lý luận về con đường cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa
Lênin, nó được truyền vào Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, đã trở
thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức
chính trị theo khuynh hướng cách mạng vơ sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô
sản theo cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc
bằng hoạt động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ
lựa chọn con đường đến hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo,
lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa
và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần
quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ
bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của
các dân


13


tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời
tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa
những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phục
thuộc.
Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận
điểm chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của
Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau
này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
Về tổ chức: Sau khi từ Liên Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số
thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đồn (02/1925).
Trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên
(6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng sản ở
thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng
của giai cấp vơ sản ở Việt Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của
phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo
khuynh hướng cách mạng vơ sản. Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go,
hiểm nguy, thử thách, với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đã hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề
tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.
3.3. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà

có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lơi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên phong cao trào đấu tranh
mạnh mẽ, sơi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng


14

chính


15

trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân
phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của cơng nhân ngày càng cao. Những
nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất hiện trong các xí nghiệp cơng nghiệp ở các
thành phố lớn địi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành lập: ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc Kỳ là Đông Dương
Cộng sản Đảng, ở Trung Kỳ là Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Ngay từ khi thành
lập, giữa các tổ chức đó đã xảy ra xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức đều có ý muốn đóng
vai trị Đảng Cộng sản duy nhất ở trong nước. Những cuộc xung đột nghiêm trọng
giữa hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã xảy ra. Mối quan hệ giữa các tổ chức
Đảng không bình thường lại khơng có một cương lĩnh hành động thống nhất làm các
Đảng mất hết tính chiến đấu và khơng thể hoạt động có kết quả trong quần chúng.
Bên cạnh đó, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế
Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều nhận là đảng
cách mạng chân chính, do đó khơng tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống
nhất về tổ chức. Vì vậy yêu cầu bức thiết của Cách mạng là cần có một Đảng duy
nhất lãnh đạo. Và trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với
tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng

(Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập một chính
đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất
ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) từ ngày 3 đến 7
tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Các đại biểu tán thành chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình
tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng, vạch kế
hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời,…
3.4. Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là
cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là một cương lĩnh


cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại mới, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc.
Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội, là tư tưởng cốt lõi
của cương lĩnh này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với
nhiều nội dung rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực
lượng cách mạng, phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc tế, vai trò lãnh
đạo của Đảng. Những nội dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn
đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam
sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh chính trị đầu tiên là một cương lĩnh
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai
cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời
đại ngày nay. 90 năm thực hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu
tiên, Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh
chính tri đầu tiên, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vẫn là sợi chỉ

đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”; Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Do đó, chúng ta hồn tồn có
quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc trong kỷ ngun tồn cầu hóa hiện nay.


PHẦN III. KẾT LUẬN
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch
sử cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh
dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác - Lênin
với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động. Sự ra đời
của Đảng “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ sức lãnh
đạo cách mạng”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Sự ra đời cŭa Đảng Cộng
sản Việt Nam là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của phong trào
Cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Với đường lối Cách mạng
đúng đắn,
Đảng đã cùng nhân dân xây dựng nên một lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp,
đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước dấy lên cao trào cách mạng 1930 - 1931
mà đỉnh cao là Xơ Viết Nghệ Tĩnh, cao trào đấu tranh chính trị 1936 – 1939,...Với
khí thế cách mạng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổng
khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
thành công trọn vẹn, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Qúa trình thực tế lịch sử đã chứng minh rằng: Lựa chọn con đường cách mạng

vô sản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt cŭa Cách mạng Việt Nam, mà người
tiền phong là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài cŭa dân tộc Việt
Nam, người thầy vĩ đại của Đảng. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của một
chiến sĩ Cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, là biểu tượng của khí phách anh hùng, ý
chí độc lập tự cường, kiên trì lý tưởng, sáng tạo và quyết thắng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ép-ghê-nhi Ca-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb thanh niên, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu Tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Tồn quốc lần
thứ
XIII.
4. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội.
5. Hội đồng Lý luận Trung ương (2020), 30 năm thự hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà
Nội.
6. Văn kiện Đảng toàn tập (2007), Tập 55, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×