Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN NGỌC HIỆP

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN NGỌC HIỆP

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐỒNG ĐẠI LỘC



Hà Nội, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai” là cơng
trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi dưới sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS. Đồng Đại Lộc. Các thơng tin, số liệu, trích dẫn trong luận văn bảo
đảm độ chính xác, có nguồn gốc rõ ràng và kết quả nghiên cứu trong luận văn
là do tôi tự thu thập, phân tích một cách khách quan, trung thực, phù hợp với
thực tế. Những kết luận khoa học trong luận văn là kết quả tơi đạt được trong
q trình nghiên cứu, chưa từng được cơng bố trong các cơng trình khoa học
khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Học viện Khoa học xã hội, Khoa
Luật, cùng Quý Thầy Cô giáo đã tham gia giảng dạy đã giúp đỡ tơi trong q
trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt với lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin gửi đến PGS.TS Đồng Đại
Lộc - người thầy đã tận tình hướng dẫn trực tiếp cho tơi hồn thành luận văn
khoa học này và cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp, người thân đã động viên,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập, nghiên
cứu và hồn thành chương trình học của mình.
Nếu trong q trình làm luận văn có những thiếu sót, tơi rất kính mong
Q Thầy Cơ, các chun gia và những người quan tâm đến đề tài của tơi
đóng góp ý kiến, giúp đỡ để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!

Trân trọng!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ....................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
cướp giật tài sản. ............................................................................................... 9
1.2. Khách thể, chủ thể, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tôi
cướp giật tài sản .............................................................................................. 13
1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật
tài sản............................................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH
ĐỒNG NAI .................................................................................................... 36
2.1. Tổng quan về tình hình xét xử tội cướp giật tài sản tại huyện Thống Nhất,
tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 36
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp giật tài sản từ 2015 – 2020 tại
huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai .................................................................. 39
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản từ 2015 –
2020 tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai .................................................... 48
2.4. Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội cướp giật tài sản và nguyên nhân ........................................................ 56
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI .......................... 65
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự đúng đối với tội cướp giật tài
sản.................................................................................................................... 65
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp

giật tài sản........................................................................................................ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những tư tưởng lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể
hiện ở “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” và trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020” là tư tưởng
xây dựng xã hội ta trở thành một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh;…”. Và để đạt được điều đó thì việc đấu tranh phòng,
chống tội cướp giật tài sản ở nước ta hiện nay là một địi hỏi cấp bách, có ý
nghĩa cương lĩnh và chiến lược, đảm bảo cho một xã hội phát triển tồn diện.
Trong những năm gần đây, tình hình phạm tội hình sự trên cả nước
ngày càng có những diễn biến vơ cùng phức tạp và đang có chiều hướng gia
tăng, thay đổi theo hướng chuyển dịch sang các loại tội có tính chất nghiêm
trọng, trong đó tội phạm cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tội
phạm nói chung và có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi.
Theo thống kê của Cục Cảnh sát hình sự (C02), trung bình mỗi năm
trên tồn quốc xảy ra gần 3.000 vụ cướp giật tài sản, chiếm tỷ lệ dao động
trên dưới 9% số vụ xâm phạm sở hữu và khoảng 5% tổng số vụ phạm pháp
hình sự; theo Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Cơng an, tội phạm cướp, cướp giật tài
sản được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm, nghiêm trọng, gây
tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng tiêu cực
đến trật tự an toàn xã hội.
Ở các tỉnh, thành phố lớn vấn nạn cướp giật tài sản không chỉ gây thiệt
hại về tài sản, sức khỏe của nạn nhân mà cịn mang lại khơng ít những hệ lụy
khác, nhất là của khách du lịch, của người nước ngồi tạo hình ảnh xấu cho
con người, đất nước chúng ta, ảnh hưởng đến tâm lý bất an cho người dân

trong nước và người nước ngoài đến Việt Nam du lịch, làm việc và sinh sống.
Chính bởi lẽ đó, Đảng và chính quyền các cấp tại tỉnh Đồng Nai nói chung và

1


huyện Thống Nhất nói riêng đã và đang tích cực đấu tranh phòng chống và
quyết tâm truy bắt, hạn chế tội phạm cướp giật tài sản.
Huyện Thống Nhất có vị trí là cửa ngõ Đơng Bắc vào TP.Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tội phạm ẩn náu chờ thời cơ
hoạt động và tẩu thoát sau khi gây án. Trước tình hình đó, các cơ quan chức
năng huyện Thống Nhất đã chủ động triển khai nhiều giải pháp đấu tranh
phịng chống tội phạm. Nhờ đó, phần lớn các vụ án xảy ra trên địa bàn như:
trộm cắp, cướp tài sản, cố ý gây thương tích... đều nhanh chóng được tìm ra
thủ phạm.
Thực tế trong thời gian 6 năm vừa qua, trên địa bàn huyện Thống Nhất,
tỉnh Đồng Nai cũng đã xảy ra nhiều vụ cướp giật tài sản, nhất là những khu
vực gần các khu cơng nghiệp là những nơi có đơng cơng nhân sinh sống. Phần
lớn kẻ xấu lợi dụng sự sơ hở của nạn nhân hoặc đường vắng, trời tối để đe
dọa, uy hiếp, ra tay cướp, cướp giật tài sản. Dù các cơ quan chức năng đã tích
cực phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, triệt phá nhiều băng nhóm
cướp giật tài sản song do tâm lý chủ quan, lơ là cảnh giác và việc người dân
có xu hướng mang theo nhiều tài sản khiến các đối tượng cướp giật ngày càng
manh động.
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, từ đầu năm 2020 đến nay, số
vụ cướp giật tài sản tuy có giảm nhưng vẫn diễn biến khá phức tạp, thủ đoạn
không mới. Theo thống kê trên địa bàn toàn huyện xảy ra 10 vụ cướp giật tài
sản, chủ yếu là cướp xe máy, điện thoại di động, giỏ xách, nữ trang…Và cũng
đã triển khai nhiều giải pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản.
Kết quả đã điều tra, truy bắt 08 vụ, bắt tổng cộng 10 đối tượng, thu hồi

khoảng 100 triệu đồng tài sản trả lại cho người bị hại; trong đó tiến hành truy
tố, xét xử 03 vụ.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản bước đầu đã thu
được những kết quả đáng khích lệ, số vụ và số bị cáo phạm tội cướp giật tài

2


sản đã giảm theo từng năm, nhiều vụ cướp giật tài sản đã được phát hiện,
ngăn chặn kịp thời; công tác điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện nghiêm
túc, đúng người, đúng tội, đảm bảo tính răn đe của pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vơ tội. Nhìn chung các bản án được tun đối với
tội phạm cướp giật tài sản đã nhận được sự đồng tình từ dư luận xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh thành cơng thì trong q trình giải quyết vụ án cướp giật tài
sản vẫn xảy ra tình trạng thiếu thống nhất trong định tội danh, bỏ sót những
trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
hoặc vận dụng khơng đúng, nhầm lẫn trong việc áp dụng tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự dẫn đến kết quả là quyết định hình phạt khơng
chính xác.
Những hạn chế, thiếu sót này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có thể kể đến như: việc phân tích, đánh giá thực trạng tình hình
tội cướp giật tài sản trong thời gian qua chưa thật sự đầy đủ và chính xác;
chưa có sự nhận thức thống nhất, đúng đắn, toàn diện những vấn đề lý luận về
tội cướp giật tài sản: nguyên nhân, điều kiện phát sinh, tồn tại, phát triển của
tình hình tội phạm này; chưa có sự chính xác, thiếu tính đồng bộ trong điều
chỉnh pháp luật hình sự cũng như các quy định của pháp luật hình sự cịn
cứng nhắc, rời rạc, chưa được cụ thể, rõ ràng dưới góc nhìn từ phía các cơ
quan, những người áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản.
Từ những vấn đề trên, học viên mong muốn thông qua việc nghiên cứu
của mình về những vấn đề lý luận, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt

Nam đối với tội cướp giật tài sản tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai và qua
đó đề xuất các giải pháp góp phần bảo đảm cho việc áp dụng đúng pháp luật
hình sự đối với tội trạng trên. Đây cũng chính là lý do mà học viên chọn đề tài
"Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện
Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai”.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong q trình hồn thành luận văn, học viên đã nghiên cứu, tham
khảo một số cơng trình khoa học về pháp luật hình sự nói chung và về tội
cướp giật tài sản nói riêng. Có thể kể đến “Giáo trình lý luận chung về định
tội danh” của GS.TS Võ Khánh Vinh do Nxb Khoa học Xã hội ấn hành năm
2013, cuốn sách "Ðịnh tội danh và quyết định hình phạt" của tác giả Dương
Tuyết Miên do Nxb Công an nhân dân in ấn năm 2004; Luận án Tiến sĩ luật
học của TS. Chu Thị Trang Vân, năm 2009 về “Hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án Việt Nam”; Luận
án Tiến sĩ luật học của TS. Nguyễn Ngọc Chí, năm 2000 về “Trách nhiệm
hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”; các cơng trình nghiên cứu những
vấn đề lý luận về phịng ngừa tình hình tội phạm nói chung trong Cuốn sách:
"Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự” do tập thể tác giả của Viện
Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật biên soạn dưới sự chủ biên của GS.TSKH
Đào Trí Úc được Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành vào năm 1994; bài viết “Về
các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Tạp chí TAND số 7, 8
và 9/2018 có nội dung phân tích các dấu hiệu pháp lý của 13 tội trong chương
XVI Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm sở hữu và các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự; bài viết “Tội cướp giật tài sản và vấn đề
chuyển hóa tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm
Minh Tuyên, Tạp chí TAND số 19 tháng 10/2007, phân tích tình tiết định

khung trách nhiệm tăng nặng hình sự là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “hành
hung khi tẩu thoát” và vấn đề chuyển hóa tội phạm từ tội cướp giật tài sản
thành cướp tài sản; bài viết “Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội
cướp giật tài sản qua một số tình huống thực tiễn” của Trịnh Tiến Việt trên
tạp chí khoa học pháp lý số 4/2000.
Ngồi ra, tội cướp giật tài sản cũng được nghiên cứu khá cụ thể, chi tiết
trong một số cơng trình nghiên cứu của các luận văn thạc sĩ đi trước như luận

4


văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Ngọc Lệ về “Khía cạnh nạn nhân trong nguyên
nhân và điều kiện của tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa”; luận
văn “Tội cướp giật tài sản - Những vấn đề Lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ
Nguyễn Việt Hà năm 2009; luận văn thạc sỹ năm 2004 của Lê Thị Thu Hà
“Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam một số khía cạnh pháp lý
hình sự và tội phạm học”; luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội cướp
giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Nguyễn Văn Tùng năm 2018.
Tất cả các cơng trình khoa học đã cơng bố nêu trên đều có liên quan
đến tội cướp giật tài sản, trong đó đề cập đến những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật hình sự và việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự tội cướp
giật tài sản vào thực tiễn tại các địa phương khác nhau trên cả nước. Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào chuyên
sâu về những vấn đề lý luận pháp luật hình sự Việt Nam và thực trạng áp
dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn
huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Và với việc tham khảo các kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa
học đã cơng bố ở trên đã góp phần giúp cho học viên tiếp cận, học hỏi thêm
về những lý luận, về phương pháp điều chỉnh pháp luật, về đánh giá và áp

dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trong q trình hồn thành
luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai
từ năm 2015 đến 2020, luận văn đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp
bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự đúng đối với tội cướp giật tài sản trong
thời gian tới.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm hướng tới việc đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn
thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội cướp giật tài sản theo pháp luật Việt Nam.
+ Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội cướp giật tài sản theo
pháp luật hình sự VN trên địa bàn Huyện Thống nhất, Tỉnh Đồng Nai giai
đoạn 2015 – 2020.
+ Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội
cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn Huyện Thống
nhất, Tỉnh Đồng Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dựa trên các quan điểm khoa học,
những quy định về pháp luật hình sự Việt Nam hiện tại đối với tội danh cướp
giật tài sản và thực tiễn khi định tội danh cũng như việc áp dụng hình phạt đối
với tội này tại Huyện Thống nhất, Tỉnh Đồng Nai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), trong đó tập trung khảo sát thực tiễn định tội
danh và áp dụng hình phạt đối với tội này là hai nội dung chính.
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian:
Nghiên cứu trên địa bàn Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai
+ Phạm vi nghiên cứu về thời gian:
Nghiên cứu các số liệu thu thập từ thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản
trong giai đoạn 2015-2020 theo các số liệu thống kê tại Tòa án.

6


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Việc nghiên cứu, phân tích những vấn đề trên của đề tài được thực hiện
dựa trên những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với các chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng, Nhà nước
trong q trình đấu tranh, phịng chống đối với tội phạm nói chung, đấu tranh
phịng chống đối với tội phạm cướp giật tài sản nói riêng, trong đó nêu rõ về
quan điểm áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản,
về vấn đề bảo vệ công lý, quyền con người và trong quá trình cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: nguồn tư liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài là hệ thống các văn bản pháp lý, các tài liệu đã được công
bố, các cơng trình nghiên cứu khoa học, các bản án cùng với thu thập số liệu
từ công tác báo cáo, thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan
chức năng có liên quan đến áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên

địa bàn huyện Thống Nhất.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: dựa trên các số liệu thống
kê, tổng hợp và phân tích trong q trình nghiên cứu để đánh giá tình hình,
ngun nhân, điều kiện và thực trạng cơng tác áp dụng pháp luật đối với tội
cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Thống Nhất, từ đó đề xuất các giải pháp
hữu hiệu.
Phương pháp so sánh: được sử dụng chủ yếu trong việc đánh giá những
biến động về tình hình tội cướp giật tài sản với các tội phạm nói chung trên
địa bàn huyện Thống Nhất; từ đó làm căn cứ để đánh giá mức độ, hiệu quả
đạt được trong công tác triển khai và áp dụng các quy định pháp luật hình sự.
Các phương pháp trên được sử dụng đan xen với nhau trong q trình
hồn thành luận văn để tạo ra kết quả nghiên cứu hữu ích, rút ra những kết
luận và kiến nghị để pháp luật hình sự ngày càng hồn thiện.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
+ Về mặt lý luận: đây là kết quả nghiên cứu góp phần trang bị, bổ sung
về mặt nhận thức lý luận thêm sâu hơn, đầy đủ hơn đối với tội cướp giật tài
sản; về cách nhìn nhận và đánh giá áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn
trong quá trình xét xử, định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội
phạm này. Những điểm mới của luận văn sẽ hướng đến việc hồn thiện các
chính sách và áp dụng pháp luật hình sự cho tội cướp giật tài sản nói riêng và
có thể mang tính chất tham khảo cho các tội phạm có tính chất tương đồng
nói chung.
+ Về mặt thực tiễn: luận văn cũng là kết quả nghiên cứu từ thực tiễn áp
dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Thống Nhất,
tỉnh Đồng Nai, góp phần nâng cao kỹ năng phân tích, phán xét đúng đắn, đưa
ra quyết định hợp tình, hợp lý trong việc định tội danh và quyết định hình

phạt đối với các vụ án cướp giật tài sản cụ thể tại địa phương và đây còn là tài
liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập đối với
những người quan tâm đến chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn:
Nội dung chính của luận văn đựợc cấu trúc gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với
tội cướp giật tài sản
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật
tài sản từ thực tiễn tại địa bàn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Huyện Thống Nhất,
Tỉnh Đồng Nai.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội cướp giật tài sản.
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự
Pháp luật hình sự nước ta quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong
lĩnh vực hình sự được nhà nước đứng ra giải quyết, can thiệp và thông qua áp
dụng pháp luật hình sự để giải quyết, là cơng cụ nghiêm khắc nhất trong hệ
thống pháp luật của nhà nước. Pháp luật hình sự sau khi được ban hành và có
hiệu lực phải được các chủ thể thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Áp dụng pháp luật hình sự là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt
mang tính tổ chức và quyền lực nhà nước, được hiểu là một hoạt động thực
tiễn pháp lý nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật hình sự trong từng

trường hợp cụ thể đối với hành vi của người thực hiện bị nhà nước xem là tội
phạm và được thực hiện theo một trình tự do pháp luật tố tụng hình sự quy
định.
Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với tội
cướp giật tài sản nói riêng là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, cơng chức có thẩm quyền
tổ chức cho các chủ thể quan hệ pháp luật hình sự thực hiện những quy định
của pháp luật hình sự, hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật
để quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ
pháp luật hình sự. Từ những luận điểm trên có thể hiểu áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội cướp giật tài sản là hoạt động do các chủ thể có thẩm
quyền tiến hành nhằm cá biệt hố quy phạm pháp luật hình sự đối với tội
cướp giật tài sản thành quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể, đối với các cá

9


nhân, tổ chức trong trường hợp phạm tội cướp giật tài sản. Chẳng hạn, bằng
việc xét xử người đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản, nhà nước thông qua
Tịa án buộc người đó phải chịu hình phạt đối với hành vi phạm tội của mình
(tức là thực hiện nghĩa vụ của họ).
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do các cơ quan nhà nước, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định thực hiện nhằm đảm bảo cho pháp
luật được thi hành, không phụ thuộc vào tính tự giác của các chủ thể khác
trong xã hội. Thơng qua đó, các quy phạm pháp luật tìm thấy sự liên kết chặt
chẽ với đời sống xã hội đồng thời chuyển hóa những yêu cầu chung vào các
quan hệ xã hội cụ thể. Chính vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật đối với tội
phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng có những ảnh hưởng và tác
động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đối với xã hội, hình ảnh thực
tế của pháp luật được nhìn thấy thơng qua các hoạt động áp dụng pháp luật cụ

thể.
Trong số các hoạt động áp dụng pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát và Tịa án có vị trí và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Không giống như trong các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thoạt nhìn dường như khơng
có những tác động xã hội rộng lớn bởi nó chỉ liên quan từng cá nhân cụ thể.
Tuy nhiên, Pháp luật hình sự bảo vệ những giá trị được nhà nước coi là quan
trọng nhất đối với sự phát triển chung của xã hội. Chính vì vậy, hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự chính là hoạt động nhằm chuyển hóa các quy định của
pháp luật hình sự đến thực tế đời sống xã hội và thực sự có những tác động
sâu sắc đến sự phát triển của xã hội.
Như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài
sản là việc các cơ quan được nhà nước trao cho thẩm quyền thực thi các quy
định pháp luật hình sự đối với tội phạm cướp giật tài sản.

10


1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự
Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với tội
cướp giật tài sản nói riêng có các đặc điểm:
– Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền
lực nhà nước bởi lẽ
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự là sự tiếp tục thể hiện ý chí của
nhà nước, thơng qua hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà nước thể hiện
trong các quy phạm pháp luật trở thành hiện thực trong thực tế, đuợc thể hiện
một cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể.
Khi áp dụng pháp luật hình sự, trên cơ sở các quy định của pháp luật,
các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết
định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với đối tượng áp

dụng cũng như thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng.
Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà
nước sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có
cả biện pháp cưỡng chế nhà nước. Theo quy định pháp luật, mỗi chủ thể chỉ
có thể áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định.
Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó
vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền
tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, do vậy,
hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất
chặt chẽ do pháp luật quy định.
– Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động nhằm cá biệt hoá các quy
phạm pháp luật hình sự hiện hành vào từng trường hợp cụ thể, từng tổ chức,
cá nhân cụ thể.
Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động giải quyết các vụ việc thực tế,
cụ thể trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật là những quy
tắc xử sự chung, nó được đặt ra khơng phải dành cho một cá nhân, tổ chức cụ

11


thể, cá biệt mà là dành cho một nhóm (loại) đối tượng nhất định. Mặt khác,
cách xử sự được nêu ra trong quy phạm pháp luật trong nhiều trường họp
cũng không cố định. Khi áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền căn cứ
vào quy phạm pháp luật, đưa ra cách xử sự cụ thể đối với chủ thể được (bị) áp
dụng pháp luật, xác định cho họ được làm gì, khơng được làm gì, phải làm gì,
làm như thế nào... một cách rất cụ thể.
– Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động thể hiện tính sáng tạo
Các vụ việc cụ thể xảy ra trong cuộc sống hết sức đa dạng và phức tạp,
trong khi đó pháp luật thường mang tính chất khái qt, khơng mơ tả tỉ mỉ
từng tình tiết của sự việc, ngược lại nó thường chỉ dự liệu những điều kiện,

hồn cảnh có tính chất phổ biến, điển hình. Do vậy, khi áp dụng pháp luật, các
chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải nghiên cứu kĩ vụ việc, so sánh, đối chiếu
với các quy định của pháp luật, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp
dụng sao cho đúng người, đúng sự việc, đúng mức độ, đúng quan điểm, tư
tưởng mà quy phạm pháp luật đã nêu. Bên cạnh đó, trong thực tế, nhiều
trường họp xảy ra những vụ việc đòi hỏi cơ quan, nhà chức trách có thẩm
quyền phải giải quyết nhung khơng có quy định của pháp luật để áp dụng. Tất
cả những trường hợp đó đều địi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải có ý thức
pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng thời phải linh hoạt,
sáng tạo để giải quyết các vụ việc đã xảy ra trong thực tế cuộc sống một cách
đúng đắn.
1.1.3. Ý nghĩa áp dụng pháp luật hình sự
Áp dụng pháp luật hình sự nói chung và đối với tội cướp giật giật tài
sản nói riêng một cách đúng đắn có ý nghĩa vơ cùng quan trọng để pháp luật
đi vào cuộc sống, một mặt bảo đảm tính nghiêm minh, trừng phạt đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm cho tính tồn vẹn những giá trị được pháp
luật bảo vệ. Đồng thời, cịn mang ý nghĩa góp phần giáo dục cũng như răn đe
đến toàn xã hội. Tuy nhiên ngược lại nếu việc áp dụng pháp luật hình sự

12


không đúng đắn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất
của công dân, của con người mà cịn làm xói mịn niềm tin của mỗi người dân
vào tính nghiêm minh và cơng bằng của pháp luật. Cũng chính vì lẽ đó trong
số các hoạt động áp dụng pháp luật thì hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
ln được đặt trong những giới hạn khắt khe nhất về nội dung và thủ tục.
Giá trị của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài
sản thể hiện ở chỗ vụ việc được giải quyết hoàn toàn phù hợp với những đặc
điểm, điều kiện cụ thể của nó trong giới hạn chung mà pháp luật hình sự quy

định đối với loại tội phạm này. Các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
pháp luật đóng vai trị người tổ chức cho các cá nhân, tổ chức đó thực hiện
pháp luật hình sự.
1.2. Khách thể, chủ thể, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với
tơi cướp giật tài sản
1.2.1. Khách thể của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài
sản:
1.2.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản.
Tội cướp giật tài sản đã được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự
nước ta và ngày càng được bổ sung, hồn thiện qua các đạo luật hình sự ở
từng thời kỳ. Có thể thấy cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội vì
đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác cũng như xâm phạm đến trật
tự công cộng. Trước đây khi chưa có Bộ luật hình sự, loại tội phạm này đã
được quy định trong các Pháp lệnh quy định về việc trừng trị các tội xâm
phạm tài sản. Đến khi có Bộ luật hình sự năm 1985 thì vẫn có hai tội cướp
giật tài sản khác nhau - tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa và tội cướp giật
tài sản của cơng dân. Và khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành đã
nhập hai tội này thành tội cướp giật tài sản.
Tại Điều 136 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tội cướp giật tài sản được quy định như

13


sau: “Người nào cướp giật tài sản của người khác thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm....”. Đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tội cướp
giật tài sản được quy định tại Điều 171 thuộc chương XVI các tội xâm phạm
sở hữu. Tuy rằng Bộ luật hình sự khơng mơ tả cụ thể hành vi cướp giật tài sản
thể hiện như thế nào nhưng căn cứ vào khoa học pháp lý hình sự và thực tiễn
q trình cơng tác điều tra, truy tố, xét xử tội này thì cướp giật tài sản có thể

được hiểu là hành vi nhanh chóng, cơng khai chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách bất ngờ rồi nhanh chóng tẩu thốt mà theo quy định của Bộ
luật hình sự phải bị xử lý hình sự. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái
niệm về tội cướp giật tài sản như sau: “Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực
trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện bằng cách nhanh chóng, công khai chiếm
đoạt tài sản đang do người khác quản lý một cách bất ngờ với động cơ, mục
đích vụ lợi”.
Cướp giật tài sản là một trong bốn tội phạm được quy định trong nhóm
tội chiếm đoạt mang tính chất công khai cả về hành vi khách quan và ý thức
chủ quan của chủ thể; được thực hiện một cách cố ý và phân biệt bởi tính chất,
đặc điểm của hành vi. Cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sự sơ hở của chủ
tài sản trong đó bao gồm sơ hở sẵn có hoặc do chính thủ phạm tạo ra nhằm
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thốt. Có thể nói đây
chính là đặc trưng của hành vi cướp giật tài sản, cho phép phân biệt giữa hành
vi cướp giật tài sản với các dạng hành vi chiếm đoạt tài sản khác. Do vậy, để
xác định một hành vi chiếm đoạt tài sản có phải là cướp giật tài sản hay không
cần chú ý đến dấu hiệu cơng khai và nhanh chóng.
Tính chất cơng khai của hành vi chiếm đoạt được thể hiện rõ qua việc
người phạm tội hồn tồn khơng có ý định che dấu hành vi chiếm đoạt tài sản
của mình đối với người quản lý tài sản nhưng khơng có tính chất đối đầu; việc
chiếm đoạt tài sản được thực hiện ngay sau khi chủ sở hữu hoặc người quản

14


lý tài sản đang có mặt hoặc theo cách thức khiến họ có thể phát hiện hành vi
đó ngay khi hoặc sau khi nó được thực hiện.
Yếu tố nhanh chóng đã góp phần tạo nên sự bất ngờ đối với người quản
lý tài sản, là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Sự sơ hở, lơ là

trong việc quản lý tài sản có thể do chủ tài sản hoặc trong một số trường hợp
do người phạm tội chủ động tạo ra nhằm mục đích tiếp cận tài sản được thuận
lợi, dễ dàng hơn, làm cho người bị hại khơng kịp ứng phó. Sau khi thực hiện
xong hành vi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội nhanh chóng tìm đường tẩu
thốt để trốn tránh sự truy đuổi của của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Ngoài việc hiểu rõ những dấu hiệu chung của các tội phạm nói chung,
cần phải hiểu rõ các dấu hiệu pháp lý của các tội cụ thể. Trong đó việc nghiên
cứu các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản cho phép nhận thức rõ ràng,
đầy đủ hơn về các đặc điểm, bản chất pháp lý đặc trưng cũng như tính nguy
hiểm cao của tội cướp giật tài sản và cũng là cơ sở để nhận biết, phân biệt
giữa tội danh này với tội danh khác một cách chính xác bởi lẽ giữa tội cướp
giật tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác có tính chất chiếm đoạt tài
sản có ranh giới tương đối mong manh. Từ đó góp phần trong khi định tội
danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm và người phạm tội cụ thể; giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản.
Cướp giật tài tài sản là một tội phạm cụ thể có các dấu hiệu pháp lý
được thể hiện trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm:
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm được hiểu “là quan hệ xã hội cụ thể hoặc một
nhóm quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và
bị một tội phạm trực tiếp xâm hại".
Tội cướp giật tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể là quan
hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Trên thực

15


tế hiện nay đã xảy ra nhiều vụ cướp giật tài sản mà hậu quả gây ra rất nghiêm
trọng, nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại mà điểm hình là

cướp giật tài sản của người đang điều khiển phương tiện giao thông gây tai
nạn. Dù rằng những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ khơng phải là đối tượng
mà người phạm tội mong muốn, nhưng người phạm tội trước khi thực hiện
hành vi cướp giật đã nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu
quả của nó nhưng vẫn bất kể hậu quả xảy ra mà thực hiện. Cũng chính vì vậy
khi quy định tội cướp giật tài sản Bộ luật hình sự năm 2015 đã coi dấu hiệu
cấu thành về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung cho
hình phạt.
Trong tình hình hiện nay, việc khẳng định khách thể của tội cướp giật
tài sản là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân không chỉ đúng về mặt lý luận
mà còn phù hợp với thực tiễn trong cơng cuộc đấu tranh phịng chống loại tội
phạm này.
* Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp các biểu hiện bên ngoài của
tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan đó là hành vi, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, các điều kiện bên ngồi khác như cơng cụ, phương tiện, cách thức,
thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…Đối với tội cướp giật tài sản tuy rằng
trong điều luật không mô tả rõ ràng, cụ thể hành vi khách quan tội phạm,
nhưng có thể hiểu mặt khách quan của tội cướp giật tài sản chính là hành vi
cơng khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng.
Ở đây hành vi chiếm đoạt được biểu hiện bằng hành động giật tài sản,
tức là giật lấy, giằng lấy, đoạt lấy tài sản khơng thuộc về mình và đây chính là
bản chất, đặc trưng cơ bản của tội cướp giật tài sản.
Hành vi chiếm đoạt nhanh chóng là người phạm tội tạo ra sự bất ngờ
hoặc lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, người quản lý tài sản hay chủ động tạo ra

16


sơ hở làm cho họ khơng có khả năng giữ được tài sản để nhanh chóng chiếm

đoạt và nhanh chóng tẩu thốt.
Hành vi cơng khai có nghĩa là người phạm tội cướp giật tài sản khơng
có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình với người khác. Đây cũng được
xem là dấu hiệu đặc trưng khi phân biệt tội cướp giật tài sản với những tội có
cùng tính chất chiếm đoạt tài sản khác.
Nội hàm của từ "giật tài sản" được quy định trong nội dung điều luật đã
thể hiện hậu quả chủ sở hữu bị mất đi tài sản của mình. Do đó, tội cướp giật
tài sản được pháp luật quy định là tội có cấu thành vật chất và tội phạm
hoàn thành khi người phạm tội đã giật được tài sản từ chủ sở hữu, và nếu
hành vi giật tài sản nhưng chưa giật được thì thuộc trường hợp phạm tội chưa
đạt.
* Chủ thể thực hiện tội phạm
Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện nay, tùy từng trường hợp cụ thể
chủ thể của tội phạm có thề là thể nhân (cá nhân) hoặc pháp nhân thương mại
khi có đủ các yếu tố (điều kiện) của chủ thể.
Riêng đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể
là cá nhân. Đó là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ
tuổi nhất định mà tiến hành thực hiện hành vi cướp giật tài sản.
Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đối với tội cướp giật tài sản
là người có đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội về hành vi của mình bị pháp luật hình sự cấm và có khả năng điều khiển
hành vi của mình.
Đối chiếu theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, chủ thể của tội
cướp giật tài sản bao gồm những người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách
nhiệm hình sự phạm tội tại Điều 171 BLHS năm 2015 hoặc những người từ
đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự nếu hành vi phạm tội
thuộc các khoản 2,3 và 4 của Điều 171 BLHS năm 2015.

17



Do đó, trong q trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội
cướp giật tài sản, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần
chú ý đến độ tuổi của người phạm tội.
* Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến, trạng thái, thái độ tâm
lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả do hành vi đó gây ra được thể hiện ở dấu hiệu lỗi, mục đích và động cơ
phạm tội.
Trong các dấu hiệu lỗi, mục đích và động cơ phạm tội thì dấu hiệu lỗi
là dấu hiệu có trong tất cả các cấu thành tội phạm. Dấu hiệu động cơ phạm tội
và dấu hiệu mục đích phạm tội chỉ có trong một số tội phạm nhất định.
Tội cướp giật tài sản được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích của tội phạm
này là nhằm chiếm đoạt tài sản và là kết quả của người phạm tội đặt ra trong ý
thức chủ quan phải đạt được khi thực hiện hành vi của mình. Mục đích chiếm
đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi
giật tài sản, là kết quả trong ý thức chủ quan và so với các tội khác như tội
cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, người
phạm tội cướp giật tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong
hoặc sau khi thực hiện hành vi giật tài sản, vì hành vi giật tài sản đã bao hàm
mục đích chiếm đoạt và đây là dấu hiệu bắc buộc khi xác định tội danh cướp
giật tài sản.
Động cơ của tội cướp giật tài sản chính là động lực bên trong, là cái
thơi thúc người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
để đạt được mục đích của mình một cách cố ý.
* Hậu quả và mối quan hệ nhân quả
Hậu quả của tội cướp giật tài sản không chỉ là thiệt hại về tài sản cho
chủ sở hữu mà trong một số trường hợp còn gây ra thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ hoặc thiệt hại khác. Vì tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội cướp giật


18


tài sản so với các tội chiếm đoạt tài sản khác như tội trộm cắp tài sản, tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản hay tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên pháp luật hình
sự khơng quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Do đó người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị lớn hay chỉ có giá trị rất nhỏ
vẫn là phạm tội cướp giật tài sản. Và chỉ quy định mức tài sản chiếm đoạt
thuộc các trường hợp định khung tăng nặng theo quy định tại khoản 2, khoản
3 hoặc khoản 4 của Điều 171 BLHS năm 2015.
1.2.2. Chủ thể của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài
sản:
Khi phát sinh quan hệ pháp luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự
khơng chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của các chủ thể áp dụng pháp luật. Các
chủ thể áp dụng pháp luật nhân danh ý chí của nhà nước chuyển hóa một cách
chính xác các quy định của pháp luật hình sự vào từng quan hệ xã hội cụ thể.
Việc áp dụng pháp luật hình sự chỉ diễn ra theo quy định của pháp luật, theo
trình tự, thủ tục pháp luật được quy định chặt chẽ, không thể tự ý thay đổi hay
chấm dứt theo ý chí của bất cứ ai trừ trường hợp pháp luật có quy định cụ thể.
Chủ thể áp dụng pháp luật hình sự là cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc
cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành tố tụng hỉnh sự
gồm có cơ quan tiến hành tố tụng hình sự như Tòa án, Viện Kiểm sát và Cơ
quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra trong một số
lĩnh vực cụ thể như Hải quan; Kiểm lâm; Cảnh sát biển; Kiểm ngư; Bộ đội
biên phòng và Cơng an nhân dân.
Trong đó hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tố tụng
hình sự được thực hiện thường xuyên mỗi khi có hành vi phạm tội xảy ra, đó
là hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản diễn ra trong
suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự tội cướp giật tài sản bắt đầu ngay từ

giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,

19


xuyên suốt giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Áp
dụng pháp luật hình sự do nhiều chủ thể tiến hành tùy theo từng giai đoạn
trong quá trình tố tụng hình sự.
* Giai đoạn khởi tố: là giai đoạn Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa
án và những cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp
luật nhằm xác định có hay khơng có các dấu hiệu của tội phạm cướp giật tài
sản, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự liên quan đến hành vi cướp giật tài sản. Có thể nói khởi tố là một giai
đoạn tố tụng hình sự quan trọng, cơ bản hướng đến việc tăng cường pháp chế,
đồng thời mở đầu cho việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn
điều tra góp phần nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu tranh phịng, chống tội
phạm của tồn xã hội. Và giai đoạn này được xem là sự phản ứng nhanh
chóng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát
hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội
và người phạm tội nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.
* Giai đoạn điều tra: là giai đoạn Cơ quan điều tra tiến hành các biện
pháp nghiệp vụ cần thiết để nghiên cứu các chứng cứ, tình tiết đã thu thập và
củng cố trong quá trình điều tra vụ án hình sự, đối chiếu với các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về tội cướp giật tài sản, từ đó nhanh chóng phát hiện
và đầy đủ tội phạm, hành vi có lỗi của người phạm tội để truy cứu trách
nhiệm hình sự, bồi thường thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội gây nên.
Trên cơ sở đó Cơ quan điều tra ra quyết định theo hai hướng hoặc là đình chỉ
điều tra vụ án hình sự nếu khơng có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc là
chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án nếu thấy có đầy đủ cơ sở phạm tội cho
Viện Kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và văn bản đề nghị truy tố bị can.

Giai đoạn điều tra góp phần ngăn chặn cho việc khởi tố bị can thiếu
chính xác, khơng có căn cứ hoặc trái pháp luật, khơng mang tính khách quan
và là cơ sở vững chắc cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo.

20


×