Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận 6, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.15 KB, 65 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận 6 là một trong 24 quận huyện của Thành phố Hồ Chí Minh, cửa
ngõ phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh; phía Bắc giáp với quận Tân Phú
và Quận 11 có ranh giới dọc theo rạch Lò Gốm, đại lộ Hồng Bàng; phía Đông
giáp với Quận 5, có ranh giới dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ, qua bến xe
Chợ Lớn, đường Ngô Nhân Tịnh; phía Nam giáp Quận 8, có ranh giới kênh
Bến Nghé (bến Trần Văn Kiểu cũ); phía Tây giáp với quận Bình Tân, có ranh
giới đường An Dương Vương. Quận 6 có tổng diện tích tự nhiên là 7,14km2,
chiếm 0,34 diện tích tự nhiên của toàn thành phố Hồ Chí Minh. Dân số hiện
nay của Quận 6 tính đến năm 2016 là 260.742 người. Về thành phần dân tộc,
đa số là người Kinh (chiếm 73,40%), kế đến là người Hoa chiếm 26, 01%,
ngoài ra còn một số dân tộc khác như người Chăm (chiếm 0,21%), Khmer
(chiếm 0,28%), Tày, Thái …
Trong những năm qua, Quận 6 phát huy lợi thế của mình đã và đang
phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định
hướng “Thương mại - Dịch vụ - Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp”, các
ngành dịch vụ chất lượng cao, các tuyến đường khu vực kinh doanh chuyên
ngành, đa ngành từng bước hình thành và phát triển. Quản lý đô thị có chuyển
biến tích cực, nhiều công trình, dự án trọng điểm được triển khai xây dựng,
nhất là các công trình hạ tầng kỹ thuật, cải thiện môi trường sống, góp phần
thay đổi rõ nét diện mạo đô thị quận theo hướng văn minh, hiện đại. Lĩnh vực
văn hoá – xã hội đạt nhiều kết quả tích cực; môi trường văn hoá có bước phát
triển; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phòng chống dịch bệnh được tập
trung; chính sách an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết việc
làm được thực hiện ngày càng tốt hơn; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm
trật tự an toàn xã hội, không ngừng củng cố nhiệm vụ quốc phòng và an ninh.

1



Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, Quận 6 vẫn còn gặp nhiều khó khăn
như chưa phát triển đạt yêu cầu đối với các ngành dịch vụ có giá trị kinh tế
cao do địa bàn quận chưa có nhiều trung tâm thương mại, chủ yếu là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hạ tầng đô thị chưa thông thoáng, chưa thuận lợi nên chưa
thu hút các nguồn lực đầu tư. Các tệ nạn xã hội và tình hình tội phạm diễn
biến ngày càng phức tạp nhất là các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và các
tội xâm phạm sở hữu, trong đó nổi cộm là tội trộm cắp tài sản.
Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, thành phố Hồ Chí
Minh” làm luân văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài được giao, học viên đã
xem tham khảo các công trình khoa có liên quan sau: Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ
biên) (2017), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2014), giáo trình luật hình sự Việt Nam –
Phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận
chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2018),
Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb thông tin và truyền thông, Hà Nội;
Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội; Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng
(2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản
thế giới, Hà Nội.
Các công trình trên cần thiết cho việc nghiên cứu để thực hiện đề tài
Luận văn vì nó chứa đựng lý luận khoa học Luật hình sự về các vấn đề cơ bản
mà luận văn phải giải quyết. Bên cạnh đó, các công trình đó còn chỉ dẫn cho
việc xác định phương pháp nghiên cứu đề tài từ tổng quan đến chi tiết để hoàn
thành luận văn. Ngoài ra, tác giả còn tham khảo thêm các luận văn thạc sĩ,

2



tiến sĩ có liên quan đến tội trộm cắp tài sản có thể kể đến như: Luận văn thạc
sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Bình Phước” của tác giả Lê Thị Bình, Học viện Khoa học xã hội, 2018; luận
văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
từ huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Tuấn Anh, Học viện
Khoa học xã hội; luận văn thạc sĩ “ Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 9, Thành phố
Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Kim Quy, Học viện Khoa học xã hội,
2017…..
Các công trình, đề tài trên đã làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận chung
của tội trộm cắp tài sản, các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản…. Tuy
nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì vậy, thông qua luận văn này tác giả muốn đi sâu nghiên cứu thực tiễn tội
trộm cắp tài sản, những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó, kế thừa các công trình của
các tác giả trước để đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và áp
dụng đúng các quy định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn làm rõ những
vấn đề chung về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp đảm bảo việc
áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội
trộm cắp tài sản nói riêng tại Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ

3



Để đạt được mục đích nói trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
- Làm rõnhững vấn đề lý luận và phân tích các quy định pháp luật về áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản.
- Phân tích các yếu tố cấu thành và đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội trộm cắp tài sản.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự đối
với tội trộm cắp tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội trộm cắp tài sản n trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian, đề tải sử dụng số liệu nghiên cứu trong vòng năm năm
(05 năm) từ năm 2014 đến năm 2018, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ
thẩm hình sự cấp quận và các bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn Quận 6,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về cơ sở pháp lý, đề tài đề cập đến tội trộm cắp tài sản quy định tại
chương XIV điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Về không gian, Đề tài luận văn được thực hiện trên địa bàn Quận 6,
Thành phố Hồ Chí Minh
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
với phép duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và

4



Nhà nước ta về Nhà nước pháp luật, về chính sách hình sự, về cải cách tư
pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp hệ thống;
phương pháp lịch sử, logic; Phương pháp phân tích, so sánh; Phương pháp
thống kê, tổng hợp. Trong đó, tác giả chú trọng cách tiếp cận kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn.
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội trôm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đề xuất một số yêu cầu
và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
danh mục các bảng, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với
tội trộm cắp tài sản.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 – 2018.
Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự đối
với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản và đặc điểm của áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản
* Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan: trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác bằng thủ đoạn lén lút, lợi dụng sơ hở của người bị hai. Hành vi lén
lút của tội phạm là lén lút đối với việc chiếm đoạt tài sản, có thể tội phạm
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trước mặt nhiều người nhưng người đó
không biết được đó là hành vi trộm cắp tài sản (Ví dụ như: lợi dụng lúc cả nhà
anh B đi về quê, không có người ở nhà, A cạy cửa nhà anh B, ngang nhiên
vào nhà lấy tài sản trước sự chứng kiến của nhiều người nhưng họ không hay
biết A đang chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp của nhà người khác mà đều nghĩ
A là người thân của gia đình anh B). Cũng có thể người phạm tội thực hiện
hành vi lén lút với người bị hại nhưng công khai với người khác (như: hành vi
móc túi nơi công cộng)
Hậu quả: hậu quả của tội phạm này là gây thiệt hại về tài sản cho người
bị hại. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội trộm cắp tài sản. Nếu một người
có ý định trộm cắp tài sản của người khác nhưng chưa thực hiện được hành vi
chiếm đoạt tài sản mà bị phát hiện thì chưa cấu thành tội trộm cắp tài sản theo
Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên,
người phạm tội đã có hành vi chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu của nó thì
sẽ bị truy tố về tội trộm cắp tài sản dù mục đích chiếm đoạt tài sản có đạt
được hay không (Ví dụ: Y lén vào nhà A trộm cắp tài sản, nhưng chưa kịp
đem số tài sản ra khỏi nhà A thì bị phát hiện. Trường hợp này Y đã phạm tội

6



trộm cắp tài sản, nếu Y bị phát hiện trước khi lấy tài sản thì mới không phạm
tội).
* Mặt chủ quan của tội phạm
Tội trộm cắp tài sản được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Mục
đích của tội phạm là chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên, cũng có
những trường hợp, người đồng phạm với người trộm cắp tài sản nhưng không
có mục đích chiếm đoạt tài sản mà không cấu thành tội khác thì vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản (Ví dụ: A ghét B nên xúi giục
C trộm tài sản của B. Trường hợp này mặc dù A không có mục đích chiếm
đoạt tài sản của B nhưng A vẫn bị truy cứu về tội trộm cắp tài sản với vai trò
đồng phạm.
* Khách thể của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu, cụ thể là
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ tài sản đối với tài sản
bị trộm cắp.
Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản. Tài sản theo quy
định của Bộ luật dân sự gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền về tài sản. Vật
là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải thoả mãn 3 điều kiện: Thứ
nhất, phải là sản phẩm lao động của con người; thứ hai, không có tính chất và
công dụng đặc biệt; thứ ba, chưa bị chủ tài sản huỷ bỏ. Tiền luôn là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản. Giấy tờ có giá chỉ là đối tượng của các tội
xâm phạm sở hữu khi nó vô danh. Quyền về tài sản không phải là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người có đủ năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS. Theo quy định tại Điều 12, Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện
hành thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình

7



sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4 Điều 173 Bộ luật hình sự; đối với
người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với cả những
hành vi thuộc khoản 1,2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp
tài sản
Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản có các đặc điểm
sau:
Thứ nhất, là một dạng đặc biệt của áp dụng pháp luật, khi nhà nước áp
dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất đối với người phạm
tội.
Áp dụng pháp luật là hình thức đặc thù luôn có sự tham gia của Nhà
nước, thông qua các cơ quan hoặc người có thẩm quyền. ADPL là hình thức
thực hiện pháp luật diễn ra trong hoạt động hành pháp và tư pháp của Nhà
nước.
Áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể
bị ADPL. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị ADPL, được
đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước. Ví dụ công dân B đủ dấu
hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS năm 2015 (được sửa
đổi bổ sung năm 2017) thì thẩm phán phải áp dụng hình phạt tương xứng
được quy định tại Điều luật này, không được phép xử cao hơn hay thấp hơn.
Thứ hai, là sự điều chỉnh cá biệt các quan hệ xã hội khi có hành vi trộm
cắp tài sản xảy ra.
Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ cần đến sự điều
chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật.
Bằng hoạt động ADPL những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hoá
vào những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội. Ví dụ: A trộm cắp tài sản


8


của B, thì thông qua quá trình điều tra, truy tố xét xử các cơ quan ADPL căn
cứ vào Bộ luật hình sự để áp dụng định tội danh tội trộm cắp tài sản và mức
hình phạt tương xứng đối với A.
Thứ ba, là khi có phát sinh quan hệ pháp luật hình sự.
Quan hệ pháp luật hình sự phát sinh khi đảm bảo hai chủ thể với những
địa vị pháp lý khác nhau là Nhà nước và người phạm tội.
Căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự là hành vi phạm tội đã
diễn ra trong thực tế và thời điểm chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự là khi
người phạm tội chấp hành xong hình phạt hoặc bất kỳ biện pháp nào của mà
Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội; hoặc người phạm tội chết. Cụ thể,
đối với tội trộm cắp tài sản thì quan hệ pháp luật hình sự phát sinh khi hành vi
trộm tài cắp tài sản diễn ra trong thực tế và thời điểm chấm dứt quan hệ pháp
luật hình sự là người phạm tội trộm cắp tài sản chấp hành xong hình phạt hoặc
các biệp pháp khác của Nhà nước áp dụng với người phạm tội trộm cắp tài
sản.
Thứ tư, thủ tục tiến hành chặt chẽ theo quy định của bộ luật TTHS
Điều này có nghĩa là việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm
cắp tài sàn không thể tiến hành một cách tùy tiện mà phải diễn ra trên cơ sở,
trong những điều kiện và theo những thủ tục nhất định do pháp luật quy định,
đó là thủ tục TTHS.
Cuối cùng, chủ thể áp dụng là các cơ quan tiến hành TTHS
Pháp luật quy định mỗi loại cơ quan nhà nước nhất định được tiến hành
hoạt động ADPL nhất định. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án nhân
dân là cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp
tài sản và những cơ quan này còn được biết đến là các cơ quan tiến hành
TTHS đối với loại tội này nếu như xem xét hoạt động áp dụng pháp luật hình



sự là một quá trình từ khi bắt đầu đến khi ra được văn bản áp dụng pháp luật
hình sự.
1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp
tài sản
1.2.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản
1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh “Định tội danh là việc xác định và ghi
nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi
phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được
quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [66, tr. 9-10].
Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội
phạm có tên tội danh là “Tội trộm cắp tài sản”, do đó dựa trên khái niệm định
tội danh mà GS.TS Võ Khánh Vinh đã xây dựng, chúng ta có thể đưa ra khái
niệm định tội danh tội trộm cắp tài sản như sau:
Định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc xác định và ghi nhận về mặt
pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể
đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại
Điều 173 BLHS.
- Đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản
Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trường hợp định tội danh cụ
thể, vì vậy nó có đặc điểm của định tội danh: [66, tr.10]
Thứ nhất, định tội danh tội trộm cắp tài sản là một quá trình lôgic nhất
định, là hoạt động xác nhận và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm tội
cụ thể với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại
Điều 173 BLHS.
Thứ hai, định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc đánh giá nhất định về
mặt pháp lý đối với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nguy hiểm cho xã hội.



1.2.1.2. Các trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản:
Tương ứng với các căn cứ phân loại khác nhau, việc định tội danh tội
trộm cắp tài sản được phân chia thành các trường hợp khác nhau:
Đầu tiên, căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm căn bản (tức là căn
cứ vào khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017),
định tội danh tội trộm cắp tài sản được chia thành định tội danh tội trộm cắp
tài sản theo, mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo mặt khách quan của tội phạm là
định tội danh theo các dấu hiệu hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả được quy định tại Điều 173 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo mặt chủ quan của tội phạm là
định tội danh theo dấu hiệu lỗi cố ý trực tiếp của tội trộm cắp tài sản hoặc
trong các trường hợp sai lầm.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo khách thể của tội phạm là định
tội danh theo quan hệ sở hữu mà hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản xâm hại.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo chủ thể của tội phạm là định tội danh
theo dấu hiệu chủ thể thường của tội trộm cắp tài sản.
Thứ hai, căn cứ vào cách phân loại cấu thành tội phạm theo mức độ
nguy hiểm cho xã hội của cấu thành tội trộm cắp tài sản, định tội danh tội
trộm cắp tài sản được chia thành định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu
thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017) và định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm
tăng nặng (theo các khoản 2,3,4 Điều 173 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017).
Cuối cùng, căn cứ vào tính chất đặc biệt của tội phạm, định tội danh tội
trộm cắp tài sản được chia thành định danh tội trộm cắp tài sản trong ba


trường hợp: trường hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành, trường hợp đồng

phạm và trường hợp có nhiều tội phạm.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đồng phạm là định
tội danh trong trường hợp hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp có nhiều tội phạm
là trường hợp định tội danh trong trường hợp người phạm tội có nhiều hành vi
phạm tội nhưng trong đó có hành vi trộm cắp tài sản.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp hành vi phạm tội
chưa hoàn thành là định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội trộm cắp
tài sản và phạm tội chưa đạt trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, theo Điều 14 BLHS
về chuẩn bị phạm tội thì chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản không phải chịu
TNHS, vì vậy, định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp hành vi
phạm tội chưa hành thành thì chỉ gồm trường hợp hành vi phạm tội chưa đạt.
1.2.1.3. Ý nghĩa định tội danh tội trộm cắp tài sản
- Đối với hoạt động định tội danh đúng
Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật
rất lquan trọng, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa
trách nhiệm hình sự.
Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ
được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách
nhiệm do lỗi, bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc không tránh khỏi trách
nhiệm, trách nhiệm cá nhân, nhân đạo….
Định tội danh đúng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, loại trừ việc kết án vô căn cứ đối với những hành vi không có hành
vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, không trái pháp luật, tạo tiền đề pháp lý cho
việc quyết định hình phạt công bằng đối với người phạm tội.


Định tội danh đúng còn là cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm
pháp luật TTHS về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử: thời hạn điều tra, áp
dụng biện pháp ngăn chặn, thành phần Hội đồng xét xử, truy tố và xét xử.

- Đối với hoạt động định tội danh sai.
Định tội danh sai sẽ dẫn đến hàng loạt các hậu quả tiêu cực: bỏ lọt
người phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, không đảm bảo
tính công minh. Những vụ oan, sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá các
chứng cứ thiếu thận trọng, phiến diện, nôn nóng khởi tố, suy diễn chủ quan
theo định kiến buộc tội.
Định tội danh sai làm giảm uy tín cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế
XHCN, ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
1.2.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Quyết định hình phạt là khái niệm có thể được nghiên cứu từ hai góc độ
khác nhau, từ góc độ luật hình sự và từ góc độ luật tố tụng hình sự. Từ góc độ
luật hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt như sau:
“Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức
hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức độ khác nhau) trong phạm vi
luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS”.
Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu TNHS là sự lựa chọn một
trong số các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt
có mức độ khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được
quy định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức độ khác nhau thì
quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong
phạm vi khung hình phạt được quy định.
Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung tương tự như quyết định
hình phạt chính. Đó là việc lựa chọn loại hình phạt bổ sung, có thể là một


hoặc nhiều loại nếu luật quy định có thể áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung
và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng kèm theo hình
phạt chính.
Như vậy, quyết định hình phạt bao gồm quyết định hình phạt chính và

quyết định hình phạt bổ sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa này được coi
là theo nghĩa hẹp.
Quyết định hình phạt cũng có thể hiểu theo các nghĩa rộng khác nhau
như: Quyết định hình phạt là quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt
bổ sung và quyết định biện pháp tư pháp. Hay quyết định hình phạt là quyết
định biện pháp xử lý đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội.
Khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng
quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp vẫn được đa số các tác giả ghi nhận trong
các sách, báo pháp lý.
Trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt đối với
tội trộm cắp tài sản như sau: “Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài
sản là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể trong
phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản”.
1.2.2.2. Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Điều 50 BLHS quy định căn cứ quyết định hình phạt đối với người
phạm tội như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của
Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
TNHS”. Theo quy định này, các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội trộm
cắp tài sản bao gồm:
Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS gồm:
Các quy định trong Phần chung BLHS: quy định về cơ sở của TNHS
(khoản 1 Điều 2 BLHS); quy định về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội


(khoản 1 Điều 3 BLHS); các quy định về hình phạt (từ Điều 30 đến Điều 45
BLHS); các quy định về biện pháp tư pháp (từ Điều 46 đến Điều 49 BLH);
các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS), về các tình tiết
giảm nhẹ TNHS (Điều 51 BLHS), các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 52
BLHS), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS); các quy định về

quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (từ Điều 54 đến Điều 59
BLHS).
Các quy định trong Phần các tội phạm BLHS: đó là các quy định về
khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung của tội trộm cắp tài sản
được quy định tại Điều 173 BLHS.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm
thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Các khung hình phạt được xây
dựng chủ yếu dựa trên tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm.
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản phụ
thuộc vào các yếu tố: tính chất của hành vi phạm tội như thủ đoạn, công cụ,
phương tiện, hình thức thực hiện; tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
trộm cắp tài sản đã thực hiện và mức độ của hậu quả do tội trộm cắp tài sản
gây ra; mức độ lỗi như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tộ, nguyên
nhân và điều kiện phạm tội; hoàn cảnh phạm tội như hoàn cảnh kinh tế, chính
trị, xã hội của địa điểm và thời gian xây ra hành vi phạm tội; những tình tiết
và nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản.
Đây là nguyên tắc thể hiện nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong luật
hình Việt Nam. Nguyên tắc này biểu hiện nhân đạo, công bằng và cá thể hoá


được thể hiện rõ trong luật hình sự Việt Nam, được thực tiễn khẳng định, có ý
nghĩa to lớn trong giáo dục, phòng ngừa tội phạm.
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản là tổng hợp những đặc
điểm riêng của người phạm tội như: phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền
sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không; là người đủ 18 tuổi hay
chưa đủ 18 tuổi; có thái độ hối cải hay tự thú không; là người có hoàn cảnh

đặc biệt hay không…. Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản được coi là
căn cứ để quyết định hình phạt nhằm đạt được mục đích trừng trị và giáo dục
người phạm tội.
Cuối cùng là căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
Luật hình sự Việt Nam coi các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là
căn cứ quyết định hình phạt độc lập để quyết định hình phạt. Các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS được xác định tại Điều 51 và Điều 52 là có tính chất
chung và chỉ được áp dụng đối với tội phạm cụ thể khi tình tiết đó chưa được
quy định là dấu hiệu phạm tội.
1.2.2.3. Ý nghĩa quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản nói riêng có vai trò vô cùng to lớn về mặt chính trị - xã hội
đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, quyết định
hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục
đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng).
Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa của hình phạt, bởi nó
có thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái độ vô trách nhiệm và coi thường
pháp luật. Nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không
hợp lý ở người bị kết án dẫn đến thái độ tiêu cực, không tin tưởng pháp luật,
không tích cực lao động cải tạo để trở thành người có ích khi tái hòa nhập
cộng đồng. Hình phạt có đạt mục đích hay không và đến mức độ nào phụ


thuộc vào nhiều yếu tố như: xây dựng pháp luật hình sự, chấp hành hình phạt,
ý thức pháp luật…nhưng yếu tố quyết định hình phạt giữ vai trò quan trọng vì
chỉ trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn pháp luật cho từng trường hợp
phạm tội cụ thể thì Toà án mới có thể cho ra đời một bản án tuyên hình phạt
đúng đắn và có hiệu quả.
1.3. Các giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp
tài sản.

Áp dụng pháp luật hình sự trải qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn đầu tiên, phân tích, đánh giá các điều kiện hoàn cảnh, tình
tiết thực tế khách quan của vụ việc.
Khi áp dụng các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét toàn bộ các tình
tiết của sự việc, phân tích, chứng minh các sự kiện có liên quan. Khi điều tra
xem xét cần đảm bảo tính công bằng, khách quan và các đặc trưng pháp lý
của vụ việc. Tuân thủ tất các các qui định mang tính chất bắt buộc gắn với
mỗi loại vụ việc. Yêu cầu nghiên cứu khách quan, toàn diện và dầy đủ tất cả
các tình tiết liên quan của vụ việc để đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Ví dụ
như điều tra vụ trộm cắp tài sản phải tìm hiểu rõ hiện trường, lời khai, người
làm chứng, tang vật, trị giá tài sản…. để xử lý đúng người, đúng tội.
Giai đoạn thứ hai, lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng.
Trên cơ sở của gia đoạn đầu tiên, cần tìm kiếm các quy phạm pháp luật
tương ứng để áp dụng. Phải xác định vụ việc do ngành nào điều chỉnh, sau đó
lựa chọn quy phạm pháp luật thích ứng với vụ việc. Quy phạm pháp luật đang
có hiệu lực; tuyệt đối không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy
phạm pháp luật khác. Xác định tính chân chính của văn bản quy phạm pháp
luật chứa đựng qui phạm pháp luật áp dụng, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý,
có thẩm quyền. Trong trường hợp có nhiều văn bản giải quyết cùng vụ việc
thì ta chọn văn bản mới nhất; nếu nhiều cơ quan ra văn bản thì ta sử dụng văn


bản của cơ quan cấp trên cao hơn. Đối với tội trộm cắp tài sản do Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổ, bổ sung năm 2017) điều chỉnh và là văn bản
quy phạm mới nhất để áp dụng đối với tội này.
Giai đoạn thứ ba, làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp
luật.
Mục đích đảm bảo tính đúng đắn của pháp luật. Yêu cầu là nhận thức
đúng đắn nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng. Đây là
quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế xã hội, đặc biệt là

tri thức pháp lý.
Giai đoạn thứ tư, ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn cụ thể hóa các quy phạm pháp luật thành các xử sự
trên thực tế của các chủ thể. Yêu cầu của giai đoạn này là quyết định ADPL
phải phù hợp với quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng. Văn bản ADPL phải
được ban hành đúng thẩm quyền, có cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý theo thể
thức đã qui định; nội dung phải rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể,
chủ thể cụ thể và chỉ được thực hiện một lần.
Giai đoạn cuối cùng, tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn cuối của áp dụng pháp luật nên yêu cầu phải đảm bảo
về mặt vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện đúng văn bản ADPL được tiến
hành. Bên cạnh đó, phải tiến hành các hoạt động kiểm tra giám sát việc thực
hiện văn bản ADPL. Ví dụ như trong đơn vị, các giai đoạn đầu tiên, thứ hai,
thứ ba do các chuyên viên, công chức thực hiện; giai đoạn thứ tư do thủ
trưởng có thẩm quyền quyết định; giai đoạn cuối cùng do cán bộ công chức
thực hiện. Vì vậy cần phải có kiểm tra, giám sát đảm bảo văn thực thi quyền
lực.
* Vai trò của các cơ quan áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm
cắp tài sản


Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì việc giải
quyết, xử lý các vụ án hình sự là một quá trình thống nhất, đồng bộ và kết quả
hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan mật thiết với nhau. Đó là
quá trình từ khởi tố, điều tra của CQĐT, đến việc truy tố của VKS và xét xử
của Toà án nhân dân.
Ở mỗi giai đoạn khác nhau thì vai trò của các cơ quan áp dụng pháp
luật có vai trò khác nhau:
- Vai trò của cơ quan điều tra: Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức
năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến

hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh
hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các
chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện
cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực
tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm; Mặt khác, điều
tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư
pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một
cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu
quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các
giai đoạn tố tụng hình sự; Cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn
tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các
quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện
kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác
góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn
xã hội.
- Vai trò của viện kiểm sát:
Một trong những chức năng của VKS được quy định là “thực hành
quyền công tố”, gồm các hoạt động làm rõ sự thật của vụ án, xác định tội


phạm, người phạm tội, quyết định việc truy tố, buộc tội người phạm tội theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thực hành quyền công tố được thực
hiện từ khi có thông tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử nhằm bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện, xử lý kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô
tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội
Vai trò của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án thể hiện qua việc đề ra
yêu cầu điều tra, phê chuẩn các lệnh hoặc quyết định của CQĐT có liên quan
đến việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp
ngăn chặn… Để đảm bảo tính nghiêm minh của văn bản tố tụng do VKS ban

hành, đồng thời khắc phục được tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm
cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài, nâng cao trách nhiệm của VKS và CQĐT
trong đấu tranh chống tội phạm,
- Vai trò của Toà án nhân dân: Thông qua hoạt động xét xử Tòa án có
vai trò bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trước nguy cơ xâm hại
của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể khác. Bằng những bản
án nghiêm minh, Tòa án đã góp phần vào việc duy trì trật tự xã hội, đảm bảo
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được
quy định tại Điều 1 BLHS hiện hành. Kế đến, ADPL hình sự của Tòa án có
vai trò to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng. Bên cạnh đó, ADPL hình sự của Tòa án có vai trò
quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật đối với nhân dân. Ngoài ra,
ADPL của TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách
của Nhà nước và đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với
một số tội xâm phạm sở hữu khi áp dụng pháp luật hình sự


1.4.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS
năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó, công nhiên chiếm đoạt
tài sản, được hiểu là hành vi lợi dụng hoàn cảnh, điều kiện không có khả năng
ngăn cản của chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài
sản một cách công khai. Những điểm khác nhau cơ bản giữa tội trộm cắp tài
sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau:
Thứ nhất, điểm khác biệt nhất là hành vi khách quan của tội phạm:
hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản của người khác, còn hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản là hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng

kiến của chủ tài sản.
Thứ hai, về nhận thức chủ quan của chủ tài sản: ở tội trộm cắp tài sản,
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng khả năng không cho
phép chủ tài sản biết khi xảy ra hành vi phạm tội, trước khi xảy ra hành vi
phạm tội thì tài sản vẫn đang trong sự kiểm soát của chủ tài sản nhưng khi xảy
ra hành vi phạm tội chủ tài sản không hề biết tài sản của mình bị chiếm đoạt,
chỉ sau khi mất tài sản chủ tài sản mới biết; còn ở tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản, khi có hành vi chiếm đoạt tài sản chủ tài sản vẫn nhận biết được có
hành vi chiếm đoạt nhưng do họ không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình
nên người phạm tội mới ngang nhiên chiếm đoạt tài sản mà không cần dùng
bất kì thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản.
1.4.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ
sung năm 2017 thì tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực
hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.


Điểm khác nhau cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản với Tội cưỡng đoạt tài sản
là:
Thứ nhất, về mặt khách quan, hành vi khách quan của tội trộm cắp tài
sản là hành vi là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác còn tội
cưỡng đoạt tài sản có hành vi đe doạ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần người
khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi đe doạ dùng vũ lực ở tội này được
hiểu là hành vi của người phạm tội đe doạ sẽ thực hiện một hành động để gây
thiệt hại cho người bị hại nhằm làm cho người bị hại sợ và giao tài sản cho
người phạm tội chiếm đoạt theo đòi hỏi mà người phạm tội đưa ra gắn liền
với hành vi đe doạ nêu trên. Hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần
người khác được hiểu là dùng các thủ đoạn gây áp lực rất lớn về tinh thần của
người bị hại để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt
theo đòi hỏi mà người phạm tội đưa ra, kèm với việc dùng thủ đoạn đó.

Thứ hai, khách thể tội trộm cắp tài sản chỉ xâm phạm đến quan hệ sở
hữu tài sản, không xâm phạm đến quan hệ nhân thân còn khách thể tội cưỡng
đoạt tài sản xâm phạm đến quan hệ về sở hữu tài sản và quan hệ nhân thân.
1.4.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài sản
Cướp giật tài sản, được hiểu là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của
người khác một cách công khai, nhanh chóng và bất ngờ rồi tẩu thoát để tránh
sự phản kháng của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Thứ nhất, điểm khác biệt về mặt khách quan của tội phạm: hành vi
khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
người khác, còn tội cướp giật tài sản có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách
công khai, người phạm tội không có ý định che giấu hành vi; lợi dụng sơ hở
của chủ tài sản nhanh chóng tiếp cận và chiếm đoạt tài sản. Dấu hiệu công
khai và nhanh chóng được hiểu là người phạm tội không cần che giấu hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác mà thực hiện trước mặt mọi người một


cách táo bạo và bất ngờ trong thời gian ngắn. Để thực hiện hành vi này người
phạm tội không dùng vũ lực, cũng không đe dọa sử dụng vũ lực hay uy hiếp
tinh thần của người bị hại mà chỉ dựa vào sự nhanh nhẹn của bản thân và sự
sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại không đủ khả năng bảo
vệ tài sản (như trẻ em, người già, phụ nữ…) để giật lấy tài sản của họ và tẩu
thoát. Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là được thực hiện
một cách bất ngờ và nhanh chóng làm cho người bị hại không kịp ứng phó.
Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị hại, người phạm tội
cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi của người bị hại.
Ngoài ra, trong cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản thì thiệt hại về tài
sản được quy định là dấu hiệu bắt buộc và BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ
sung năm 2017 cũng quy định mức trị giá tối thiểu để làm cơ sở truy cứu
TNHS “người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng….”; còn ở tội cướp giật tài sản thì không quy định

mức giá trị tài sản tối thiểu mà quy định bởi tính chất nguy hiểm cao của tội
phạm, người phạm tội chỉ cần có hành vi cướp giật là phạm tội, không cần
biết tài sản có giá trị như thế nào.
Thứ hai, về khách thể tội trộm cắp tài sản luôn luôn có sự xâm
phạm đến sở hữu tài sản nhưng không có sự xâm phạm đến sức khỏe và tính
mạng của nạn nhân; còn khách thể của tội cướp giật tài sản có sự xâm phạm
đến quyền sở hữu nhưng có thể có hoặc không xâm phạm đến sức khỏe hoặc
tính mạng của nạn nhân.
Kết luận chương 1
Trong phạm vi chương 1 của Luận văn, trên cơ sở nghiên cứu các văn
bản pháp luật, tác giả đã làm rõ các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản và
các đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Bên
cạnh đó, đưa ra được khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của định tội danh tội trộm


cắp tài sản, song song với định tội danh tội trộm cắp tài sản đưa ra được các
căn cứ quyết hình hình phạt tương ứng với định tội danh tội trộm cắp tài sản.
Qua đó, cũng tìm hiểu thêm về các giai đoạn áp dụng pháp luật đối với tội
trộm cắp tài sản, vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để từ đó có
cái nhìn toàn diện hơn về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu ở chương 1 là cơ sở để tác giả
nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.


Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ NĂM 2014 - 2018
2.1. Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6 từ 2014 –

2018.
Với đặc điểm vị trí địa lý là cửa ngõ phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí
Minh thông thương với các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tiếp giáp các khu công
nghiệp nên có một số lượng người dân nhập cư sinh sống và làm việc trên địa
bàn Quận. Bên cạnh đó, việc xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
“thương mại - dịch vụ - công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp” đã được Đảng bộ
Quận 6 xác định từ nhiệm kỳ VII (1996-2000), đến nay đã tạo sự chuyển biến
rõ nét, tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của Quận nhà. Tuy nhiên bên
cạnh sự phát triển về kinh tế - xã hội cũng đã phát sinh nhiều vấn đề xã hội,
nhất là tình hình tội phạm diễn biến phức tạp với phương thức, thủ đoạn ngày
càng tinh vi, liều lĩnh. Đặc biệt là tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ cao, trong
đó tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm tội này.
Bảng 2.1. Diễn biến tình hình tội trộm cắp tài sản so với tình hình tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014
đến 2018.
N Tội Tội
ă xâ trộm
m S S SS
ố ố ốố
b
v b vị
2
1 1 4 5
0
0
7 5
2
1 1 4 4
0
6

4 6

(
3
)
4
5
2
7

(
4
)
4
5
2
7


×