Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Luận văn thạc sĩ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG tố TRONG GIAI đoạn xét xử sơ THẨM vụ án xâm PHẠM sở hữu từ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.89 KB, 100 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NỞ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI – 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NỞ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI – 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình
Phước” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Võ Thị Kim Oanh. Các số liệu, kết quả trong luận
văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các thơng tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Các giải
pháp nêu trong luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và quá trình nghiên cứu
thực tiễn.
Tác giả

Đỗ Thị Nở


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua thực tiễn công tác,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện
của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tơi đã hồn thành luận
văn thạc sỹ luật học. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Các Thầy Cô Học viện, các giảng viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt
những tri thức, kinh nghiệm quý báo trong suốt thời gian học tập.
Cám ơn Thư viện Học viện đã giúp đỡ trong quá trình tra cứu các tài liệu
nghiên cứu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành đã cung cấp số liệu thực
tiễn trong giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt quá trình học tập và hồn thiện luận văn này. Đặc biệt, tơi xin
dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Võ Thị Kim Oanh, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Nở


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ
HỮU........................................................................................................................................................ 10
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
xâm phạm sở hữu................................................................................................................................ 10
1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án xâm phạm sở hữu................................................................................................................... 23
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC.................................. 32
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm................................................................................................. 32
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm
phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước........................................................ 46
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH
PHƯỚC................................................................................................................................................. 63
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu.................................................................................................. 63
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu............................................................................................ 66

3.3 . Các giải pháp khác................................................................................................................... 70
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

THQCT

: Thực hành quyền cơng tố


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XPSH

: Xâm phạm sở hữu


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1
2.2

2.3
2.4
2.5

T


T

k

T

X

T

T

k


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Chơn Thành là một huyện phía Tây Nam của tỉnh Bình Phước, là nơi có
tuyến đường Quốc lộ 13 và 14 đi qua, nối dài với tuyến đường Hồ Chí Minh; là
đường huyết mạch nối liền Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Nguyên và các tỉnh biên
giới miền Đơng Nam Bộ. Ngồi hai trục đường chính, huyện Chơn Thành cịn có
nhiều đường liên xã, kết nối thành một mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế, giao lưu văn hóa trong và ngoài huyện. Huyện Chơn Thành là một
trong những huyện đi đầu trong phát triển công nghiệp của tỉnh, kinh tế của huyện
chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút đầu tư phát triển
mạnh về cơng nghiệp, dịch vụ. Cơng tác đấu tranh và phịng chống tội phạm trong
những năm qua đã có những bước phát triển lớn, góp phần quan trọng giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Tuy nhiên, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp, tăng

nhanh về số vụ và số đối tượng phạm tội với tính chất, phương thức, thủ đoạn tinh
vi, xảo quyệt, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Điều này khơng chỉ ảnh hưởng đến
tình hình chính trị, an ninh trật tự ở địa phương, mà còn trực tiếp xâm phạm đến sức
khỏe, tính mạng, tài sản của người dân.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử là hai chức năng hiến định của
VKSND, là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà
nước ta. Trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, Ngành kiểm sát nhân dân đã
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp luật;
đấu tranh phòng, chống tội phạm; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
của địa phương, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát huy quyền dân
chủ của công dân.
Một trong những nội dung quan trọng được thể hiện ở nhiều nghị quyết của
Đảng là nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó
có VKSND; hoạt động THQCT và kiểm sát xét xử của VKSND nhằm mục đích
chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

1


Thực tiễn những năm gần đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước liên tục diễn biến phức tạp, tăng nhanh về số vụ, số người
phạm tội, phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhất là các
vụ án liên quan đến xâm phạm sở hữu. Trải qua 18 năm kể từ khi thành lập cho đến
nay, VKSND huyện Chơn Thành đã đạt nhiều thành tích đáng khích lệ trong cơng
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo hoạt động thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự nói chung, xét xử các vụ án xâm phạm sở
hữu nói riêng đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu của Hiến pháp năm
2013, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 thì việc phịng, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm còn nhiều hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Một
trong những nguyên nhân của hạn chế nêu trên là do chính sách hình sự, quy định
của pháp luật về tố tụng hình sự có nhiều bất cập, thiếu tính đồng bộ, chưa kịp thời
sửa đổi, bổ sung; KSV khi THQCT trong giai đoạn xét xử các vụ án xâm phạm sở
hữu chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, từng vấn đề liên quan đến vụ án, chưa nắm vững các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng của từng tội xâm phạm sở hữu, những vấn đề cần làm rõ
trong vụ án xâm phạm sở hữu, xác định tội danh, tính chất, mức độ phạm tội, mức
độ thiệt hại, các tình tiết khác liên quan đến vụ án; việc chuẩn bị nội dung đề cương
xét hỏi không tập trung làm rõ các vấn đề liên quan cần chứng minh trong vụ án; dự
thảo luận tội còn sơ sài; hoạt động tranh tụng của KSV với Luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác cịn nhiều mặt hạn chế nên vẫn cịn tình trạng
án bị trả điều tra bổ sung, án hủy có trách nhiệm của VKS.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, phức tạp của cơng cuộc đấu tranh chống
và phịng ngừa vi phạm pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
nước, tổ chức và cơng dân, với trách nhiệm là một cán bộ trong ngành, học viên
nhận thấy việc chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước” làm
luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự là cần thiết về lý

2


luận cũng như thực tiễn, góp phần vào cơng cuộc cải cách tư pháp, cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở
hữu là một đề tài rộng, nhận diện các đặc điểm đặc trưng của tội xâm phạm sở hữu
là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Trong thời gian qua,
có nhiều nhà khoa học pháp lý và người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu

hoặc đề cập đến đề tài quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng, có thể
nêu một số cơng trình tiêu biểu đó là:
- Luận án tiến sĩ Luật học, “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết

Hoa, (2005) [18]. Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về quyền công tố của một số
nước trên thế giới và trong TTHS ở Việt Nam, nêu lên thực trạng thực hành quyền
công tố trong TTHS ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
hoạt động cơng tố ở trước Tịa án.
- Luận văn thạc sỹ Luật hình sự, “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công

tố của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta” của
Lương Thúy Hà (2012) [14]. Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về thực hành
quyền công tố của VKSND, pháp luật về thực hành quyền công tố của VKSND cấp
huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)”, của Dương Thị Thu Hòa
(2015) ) [20]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề chung về thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra, thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra và
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

3


- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Chức năng thực hành quyền công tố của Viện


kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)” của Lê
Thanh Hưng (2015) [21]. Đã đề cập một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố
trong TTHS. Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố ở địa bản tỉnh Đăk Nông
và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực

hành quyền công tố trong các vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu áp dụng nguyên tắc
tranh tụng ở Việt Nam hiện nay” của Bùi Thúy Hằng (2016) [16]. Đề cập đến cơ sở
lý luận, thực trạng vấn đề năng lực tranh tụng của KSV thực hành quyền cơng tố
trong vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tranh tụng
của KSV thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, của Phan Vạn
Quốc (2016) ) [33]. Đã phân tích rõ thêm lý luận chung về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra, quy định của pháp luật và thực trạng thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra, đề ra giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định”, của
Nguyễn Hữu Phước (2016) [31]. Đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về quyền
công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
đánh giá thực trạng vấn đề này tại địa phương huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định và
đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nội dung này tại địa
phương.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm

phạm sở hữu theo tố tụng hình sự Việt Nam”, của Nguyễn Văn Điền (2017) ) [12].
Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố, nội dung

và thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố và những giải pháp nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu.

4


- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, của Phan
Thị Sa (2018) [43]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực trạng pháp luật về thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và đề xuất một số giải pháp tăng
cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận Tân Phúc, Thành phố Hồ Chí Minh”, của
Lê Trung Tiến (2018) [47]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định của pháp luật
và thực trạng pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự; đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Đánh giá chứng cứ trong các vụ án về xâm

phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”, của Nguyễn Thị Mỹ Hiệp (2018) ) [17].
Đã phân tích đánh giá rõ thêm những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ; quy định
của pháp luật về đánh giá chứng cứ và thực tiễn đánh giá chứng cứ trong xét xử sơ
thẩm trong các vụ án về xâm phạm sở hữu.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giải quyết vụ án


sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Khánh
- Luận văn thạc sĩ luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn tỉnh Bắc
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ

án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, của Nguyễn
Khánh Tồn (2020) [55].

5


Các đề tài khoa học cấp nhà nước có cơng trình "Cải cách hệ thống tư pháp
Việt Nam"; đề tài khoa học cấp bộ: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
và hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự"; đề tài
khoa học cấp bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện
quyền công tố ở Việt Nam hiện nay"; đề tài khoa học cấp bộ: "Viện kiểm sát nhân
dân trong tiến trình cải cách tư pháp".
Một số giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các cơng trình sau: Giáo
trình luật TTHS Việt Nam, Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, NXB. Đại học quốc gia, Hà
Nội; Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của Viện kiểm sát nhân
dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động, VKSND tối cao chủ biên, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2015; Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi
mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, TS. Lê Hữu Thể, TS. Đỗ Văn
Đương, ThS. Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên), NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2013; Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, VKSND tối cao chủ
biên, lưu hành nội bộ, 2012; v.v.
Bên cạnh đó, có những bài viết liên quan đến THQCT trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm VAHS được đăng trên các tạp chí chun ngành như:“Về thực hành quyền

cơng tố trong giai đoạn xét xử” của tác giả Lý Văn Chính, tạp chí Tịa án nhân dân,
số 12/2006; “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay”của tác giả Đỗ Văn Đương, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7/2006; “Bàn
về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự” của tác giả Nguyễn Đức Mai, tạp chí
Tịa án nhân dân, số 17/2007; “Hồn thiện một số quy định của BLTTHS hiện hành
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Nguyễn
Đức Mai, tạp chí Luật học, số 07/2008; “Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong
pháp luật TTHS Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Lê Cảm, Tạp
chí Kiểm sát, số 11/2011; “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng luận tội,
tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác
giả Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2012; “Một số vấn đề về hoàn
thiện quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử sơ thẩm” của tác giả Trần Văn Độ,

6


Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012; “Đổi mới thủ tục phiên tịa hình sự sơ thẩm theo
hướng bảo đảm ngun tắc tranh tụng” của tác giả Vũ Gia Lâm, Tạp chí Kiểm sát,
số 21/2013; “Nâng cao chất lượng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2014; “Vướng mắc khi thực hành quyền công
tố trong giải quyết nguồn tin về tội phạm lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thơng” của tác giả Nguyễn Quốc Hân, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2021; “Kinh nghiệm
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
của đồng tác giả Lê Thị Thùy Hương, Nguyễn Thu Quý, Tạp chí Kiểm sát số
13/2021, v.v...
Trên cơ sở kết quả khảo sát cho thấy, các cơng trình nghiên cứu trên đã làm
rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận, thực tiễn
cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề. Việc nghiên cứu về THQCT của
VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm đối với
các vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng chưa mang tính hệ thống, chưa được nghiên

cứu một cách toàn diện. Thực hiện nghiên cứu về công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước là rất cần thiết, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp để tiếp tục tăng
cường hoạt động này nhằm đáp ứng được yêu cầu của địa phương và tiến trình cải
cách tư pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: Đề tài góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu;
trên cơ sở nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, những nội dung cơ bản của
hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm
sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, làm rõ những ưu, khuyết
điểm, tìm ra ngun nhân của những thiếu sót, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp của nước ta hiện nay.

7


- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu Luật Tổ chức VKSND, Bộ luật tố tụng hình sự nhằm là rõ cơ
sở lý luận về quyền và chức năng công tố.
+ Nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi THQCT tại

phiên tịa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
+ Đánh giá thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
+ Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hành


quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và vụ án xâm
phạm sở hữu nói riêng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và thực trạng về công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu công tác thực hành quyền công tố của

VKSND cấp huyện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu theo
quy định của BLTTHS về vấn đề này; thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình
Phước trong thời gian 05 năm, từ năm 2016 – 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sơ vận dụng lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử, đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai
đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng, tác giả luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên

8


cứu như: Phương pháp phân tích – tổng hợp; phương pháp luật học so sánh; phương

pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn, đề tài góp

phần làm sáng tỏ thêm quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án xâm phạm sở hữu.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu cho việc

nghiên cứu nhằm hoàn thiện thêm các quy định của pháp luật về chức năng thực
hành quyền cơng tố của VKSND; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho đội
ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật liên quan đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu và thực tiễn
thi hành tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng chất lượng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án xâm phạm sở hữu
1.1.1. Khái niệm công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố
Quyền cơng tố là quyền của Nhà nước vì lợi ích cơng cộng (lợi ích của Nhà
nước hay của xã hội) đối với người phạm tội, đã được biết đến từ thời xa xưa của xã
hội loài người, khi nhà nước xuất hiện thì quyền cơng tố cũng xuất hiện. Lịch sử tư
pháp hình sự trên thế giới đã cho thấy, q trình hình thành, phát triển, hồn thiện
chế định quyền công tố gắn với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Trong từng
thời kỳ nhất định, mỗi quốc gia có bộ máy nhà nước được thiết lập khác nhau gắn
liền với các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, con người, văn hóa. Do
đó, quyền cơng tố cũng có những khác biệt nhất định, song song với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, thì việc hồn thiện chế định quyền công tố
cũng ngày càng thể hiện rõ nét. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền
cơng tố, tơi đồng tình với quan điểm cho rằng: quyền công tố là một khái niệm pháp
lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước và pháp luật [47, tr.86].
Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau và chưa có cách hiểu thống
nhất về khái niệm quyền cơng tố. Theo dòng lịch sử pháp lý Việt Nam, khoa học
luật pháp lý nói chung, cũng như khoa học hình sự nói riêng, chế định “quyền cơng
tố” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, trước Hiến pháp năm 1959 đã tồn tại
quyền công tố, từ năm 1960 đến nay do VKSND thực hiện quyền này.
Quyền công tố ở nước ta được đề cập trong Hiến pháp năm 1980, chức
năng THQCT của VKS được quy định tại Điều 138 Hiến pháp 1992, Điều 137 Hiến
pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Điều 107 Hiến pháp 2013 đã khẳng định
tại sự tồn tại của thuật ngữ quyền công tố, THQCT trong chức năng của VKSND.
10



Để hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”, bản chất và nội dung nó gì
là, hiện nay vẫn chưa có quan điểm, nhận thức thống nhất chung. Theo từ điển Luật
học thể hiện “công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội” [56, tr.188]; trong khi từ điển tiếng Việt của Viện ngơn ngữ do GS.
Hồng Phê chủ biên thì: cơng tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm
pháp trước Tòa án” (57, tr.204]; lại có quan điểm cho rằng “cơng tố là hoạt động
tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi
ích của Nhà nước mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật”.
Hiện nay Nhà nước chưa có văn bản pháp luật nào giải thích chính thức nội dung
quyền cơng tố, có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm
vi, chủ thể tham gia thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công
tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Tác giả đồng tình với
một số quan điểm có sự khác nhau nhưng cơ bản tập trung vào các nhóm sau:
Thứ nhất, quyền công tố không phải là chức năng độc lập của VKS, mà chỉ
là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chỉ có trong
giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, tức là kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự thì
KSV THQCT để buộc tội bị cáo tại phiên tòa [79, tr.85-86]. Quan điểm này là phổ
biến và cũng là quan điểm cơ bản của các nhà khoa học pháp lý Xô Viết, đã đồng
nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi xét xử hình
sự tại phiên tịa, phạm vi quyền cơng tố bị thu hẹp, chưa thấy hết vai trị, vị trí của
VKS khi thực hành quyền cơng tố, chức năng truy tố và buộc tội của VKS tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự chỉ là một trong các quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố.
Thứ hai, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKSND truy tố
người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử [30], thực hiện việc buộc tội tại phiên tịa.
Nội dung của quyền cơng tố là đưa ra quan điểm, lời buộc tội những cá nhân cụ thể
với các tội danh cụ thể trong bản cáo trạng đó tại phiên tòa sơ thẩm. Theo quan
điểm này thấy rằng việc THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho hoạt động của
VKS. Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của quyền


11


công tố, về lý luận cũng như trong thực tế, hoạt động THQCT của VKS tại Tòa án
chỉ là một trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng THQCT của VKS.
Thứ ba, “Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKSND nói riêng và
các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung sử dụng để truy cứu TNHS và áp dụng các
chế tài hình sự để trừng trị các pháp nhân, người có hành vi vi phạm pháp luật hình
sự” [45, tr.26].
Quan điểm này chưa chính xác bởi đã đồng nhất khái niệm quyền công tố
với nguyên tắc tố tụng hình sự, khi người tội phạm xâm phạm đến lợi ích chung của
xã hội hoặc lợi ích riêng của một cá nhân, người phạm tội phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Quan điểm này đã dẫn đến sự
nhằm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự: buộc tội, bào chữa và xét
xử.
Thứ tư, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc
trái với các quy định của pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, bảo vệ trật tự của pháp luật [58, tr.85-86]. Theo quan điểm này, quyền công tố
ban đầu được thể hiện trong lĩnh vực hình sự. Cùng với sự phát triển của xã hội và
các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao
động. Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp
pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm kiểm sát đối với các các cơ
quan tiến hành tố tụng. Quyền công tố là một nội dung của hoạt động thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hình
sự và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật,
hành vi phạm tội đều bị phát hiện điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất [58, tr.88].
Đặc trưng của tố tụng dân sự được tiến hành với nguyên tắc: quyền quyết
định và quyền tự định đoạt là của đương sự nên hoạt động tố tụng này phát sinh, tồn
tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý chí của đương sự. Trong khi đặc trưng của tố tụng

hình sự, phát sinh, tồn tại và chấm dứt không phụ thuộc vào ý chí của những người
tham gia tố tụng. Quan điểm trên đã đồng nhất quyền công tố trong lĩnh vực hình sự

12


với những nhiệm vụ, quyền hạn khác của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Các quan điểm trên đều có hạn chế nhất định đó là khơng phân định rõ ràng
khái niệm, bản chất, nội dung và phạm vi quyền cơng tố; xem quyền cơng tố là một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, dẫn đến xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của
VKSND quyền lực công; đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKS, mở rộng quyền công tố trong tố tụng hình sự sang các
lĩnh vực tư pháp khác như hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động;
quá thu hẹp quyền công tố, xem quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm
tội ra trước TAND và thực hiện việc buộc tội tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền cơng tố, cần phải xem xét nó
trong mối liên hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể “Quyền cơng tố
chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực tư pháp hình sự, khơng thể
tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh cơng quyền) chống lại hình thức
vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [45, tr

37].
Trong tố tụng hình sự ln tồn tại ba chức năng cơ bản đó là, chức năng
buộc tội (điều tra xác minh hành vi phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, giữ vai trò là quan trọng trong tố tụng hình sự, thu hút hoạt động
của tất cả các chủ thể tham gia); chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử.
Như vậy có thể hiểu, quyền cơng tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân dân quyền lực cơng thực hiện việc

truy tố ra trước Tịa án đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước,
Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam đó là Viện kiểm sát). Cơ
quan đó phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định người phạm tội và tội phạm. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra
trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa. [5, tr.9].

13


Một vấn đề quan trọng cần làm rõ khi nói về quyền cơng tố đó là đối tượng,
phạm vi và nội dung quyền công tố. Các nhà nghiên cứu đều có lý luận riêng, đưa ra
những luận điểm về đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố để chứng minh
cho luận điểm của mình. Theo quan điểm nghiên cứu của tôi, đối tượng, nội dung và
phạm vi của quyền công tố được hiểu như sau:
- Đối tượng của quyền công tố là yếu tố mà quyền công tố tác động vào

nhằm mục đích cụ thể nào đó, có thể là nhằm mục đích buộc tội của người phạm tội
để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại, bảo vệ các quyền,
lợi ích chính đáng của các cơ quan, tổ chức chính trị, cá nhân... Theo quan điểm
quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước, Nhà nước đứng ra thay mặt cho xã hội
thực hiện việc buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội, do đó đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội [45, tr.40].
- Nội dung của quyền công tố: là sự buộc tội của Nhà nước (thông qua cơ

quan VKSND) đối với bất kỳ người nào đã thực hiện hành vi tội phạm. Để phát hiện
tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, các cơ quan tố tụng áp dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý do luật định nhằm bảo đảm cho việc mọi hành vi phạm
tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời theo đúng quy định của pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo quan

điểm này tôi cho rằng đã nhầm lẫn nội dung quyền công tố sang nội dung thực hành
quyền công tố.
- Phạm vi của quyền công tố: Với quan niệm quyền công tố là quyền nhân
danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội,
phạm vi của quyền này chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự [45, tr 46], từ khi có
hành vi phạm tội xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thực hiện các quyền năng
pháp lý khác nhau để phát hiện tội phạm và hành vi phạm tội, tìm ra các chứng cứ
buộc tội để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đó, kết thúc khi bản án đã
có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng cáo, kháng nghị.

14


1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Để bảo đảm thực hiện quyền công tố, Nhà nước ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố
để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Khi các cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện quyền năng pháp lý của mình được Bộ luật tố tụng hình sự giao để
thực hiện quyền cơng tố thì xuất hiện khái niệm thực hành quyền cơng tố, vì khi có
hành vi phạm tội xảy ra, làm phát sinh mối quan hệ giữa Nhà nước với người thực
hiện hành vi phạm tội. Trách nhiệm của Nhà nước là truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi phạm tội thông qua một cơ quan thực hiện đó là cơ
quan thực hành quyền cơng tố.
Theo từ điển tiếng Việt ghi “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [56, tr.973].
Khái niệm thực hành quyền cơng tố hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác
nhau, tuy nhiên, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Thực hành quyền công tố là
việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhân danh Nhà nước để thực hiện
việc truy tố tra trước Tòa án đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử [5, tr.11]. Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm

2013; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, 2003 và 2015; các Luật tổ chức VKSND
năm 1960, 2002 và 2014 đều quy định VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước
giao nhiệm vụ THQCT. Nội dung thực hiện quyền này được thể hiện cụ thể tại các
Điều 13, Điều 17, Điều 18 và Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2002; khoản 1
Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 “Thực hành quyền công tố là hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự”. Trên thực tế, khơng phải bất kỳ vụ án nào khi xảy ra cũng
được các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện ra và xử lý kịp thời. Đó là mối quan hệ
giữa khả năng và việc thực hiện hóa khả năng, Nhà nước trao quyền và thực hiện
quyền lực đó thơng qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

15


Khi nói về chức năng THQCT cần làm rõ đối tượng, nội dung, chủ thể và
phạm vi THQCT: Đối tượng của THQCT là tội phạm và người phạm tội; chủ thể
THQCT chính là VKSND.
Phạm vi thực hành quyền cơng tố: cho đến giai đoạn hiện nay có nhiều ý
kiến khác nhau và chưa có sự thống nhất về khái niệm THQCT, tôi đồng ý với quan
điểm cho rằng: phạm vi thực hành quyền cơng tố bắt đầu từ khi có dấu hiệu tội
phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án
được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Nội dung thực hành quyền cơng tố: THQCT của VKS là việc sử dụng các
quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành
vi phạm phạm tội, không để bỏ lọt người phạm tội và tội phạm, không làm oan
người vô tội. Theo đó, VKSND danh Nhà nước THQCT trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm là thực hiện các quyền năng pháp lý nhằm bảo đảm việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu
1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Xét xử là hoạt động quan trọng nhất của Tịa án nói riêng và tồn bộ q
trình tố tụng hình sự nói chung, nhằm thực hiện các biện pháp cần thiết do pháp luật
quy định để kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà Cơ
quan điều tra, VKS đã thực hiện trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tịa án, nhằm
loại trừ những thiếu sót do sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong giai
đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét
xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tịa án có thẩm
quyền tiến hành xem xét giải quyết vụ án, ra bản án, trả tự do hoặc các quyết định
khác theo quy định của pháp luật [60] . Xét xử sơ thẩm được xác định là giai đoạn
kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án
được thu thập trong q trình điều tra được xem xét một cách cơng khai, khách

16


quan tại phiên tòa và được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn nhau.
Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, nghĩa vụ của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách cơng
khai, đầy đủ nhất; địi hỏi phải tập trung trí tuệ, xử lý tình huống một cách mau lẹ,
các lý lẽ đưa ra khơng chỉ địi hỏi sự chính xác về pháp luật mà phải có sức thuyết
phục.
Trên cơ sở quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử theo
quy định của pháp luật thì thực hành quyền cơng tố là việc Viện kiểm sát tổng hợp
các quyền hạn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự để truy tố trách nhiệm
hình sự, buộc tội, đề nghị áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong giai đoạn

xét xử [63, tr.28].
Thông qua công tác xét xử cần xem xét đối tượng của phiên tòa xét xử sơ
thẩm và phiên tịa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Phiên tịa hình sự sơ thẩm có thể
được thực hiện khi VKS có quyết định truy tố, bản cáo trạng và các điều kiện cần
thiết khác theo quy định của pháp luật để tiến hành mở phiên tòa. Đối tượng của
phiên tòa xét xử sơ thẩm là bản cáo trạng của VKS đối với bị cáo đã thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật hình sự (hành vi tội phạm). Tịa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền,

trách nhiệm xem xét những nội dung trong bản cáo trạng và những vấn đề liên
quan, đưa ra căn cứ đúng pháp luật, thể hiện quyết định của mình trong bản án.
Phạm vi xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi VKS chuyển hồ sơ cùng bản cáo trạng đến
Tòa án và kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định. Trong khi đó, đối tượng của
phiên tịa hình sự phúc thẩm chính là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị về tính có căn cứ, tính hợp pháp và mức hình
phạt của nó.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo giai đoạn
truy tố, đây là giai đoạn bao gồm hai giai đoạn cơ bản đó là giai đoạn chuẩn bị xét
xử và xét xử tại phiên tịa với những hoạt động tố tụng hình sự khác nhau. Mỗi giai
đoạn tố tụng có tính độc lập riêng, đặc trưng về chủ thể, hành vi, hình thức, thời

17


hạn, nguyên tắc, văn bản tố tụng. Các giai đoạn tố tụng này có mối quan hệ với
nhau, tác động lẫn nhau; giai đoạn tố tụng trước làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng
sau, ngược lại giai đoạn tố tụng sau bổ sung, kiểm tra giai đoạn tố tụng trước tạo
thành tiến trình tố tụng thống nhất. Dù ở giai đoạn nào đều phải tuân thủ nhiều
nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc độc lập xét xử. Việc xem xét đánh giá các tài
liệu, chứng cứ trong giai đoạn này phải hết sức khách quan, xem xét tồn diện,
khơng được lệ thuộc vào kết quả của các cơ quan tiến hành tố tụng trước đó.

Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi VKS chuyển hồ sơ vụ
án đến Tịa án có thẩm quyền xét xử theo luật định. Chuẩn bị xét xử được coi là
bước đầu của giai đoạn xét xử sơ thẩm, từ khi VKS chuyển hồ sơ đến Tòa án nhận
đến khi mở phiên tòa. Giai đoạn này Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa
nghiên cứu tồn diện hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ liên quan, xét có đủ căn cứ
để đưa vụ án ra xét xử hay không, hay trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Biểu hiện đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm là tại phiên tịa sơ thẩm, vụ
án hình sự chính thức được giải quyết công khai với sự tham gia của nhiều chủ thể
khác nhau. Kết quả của phiên tòa khẳng định bị cáo có hay khơng có tội, nếu có thì
tội gì, có bị áp dụng mức hình phạt khơng, mức hình phạt được áp dụng, trách
nhiệm dân sự, giải quyết vật chứng và những vấn đề khác liên quan đến vụ án.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng độc lập,
trong đó chuẩn bị xét xử là tiền đề quan trọng, cần thiết cho việc mở phiên tòa và
tiến hành phiên tòa; phiên tòa sơ thẩm là nơi thể hiện rõ nét nội dung của các
nguyên tắc tố tụng hình sự, mối quan hệ tác động qua lại giữa các chức năng cơ bản
nhất của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội, chức năng xét xử,
trong đó chức năng xét xử đóng vai trị quyết định.
Như vậy, khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để buộc tội người đã thực hiện hành vi phạm tội bị truy tố tại phiên
tòa ở cấp xét xử thứ nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng cùng hồ

18


×