Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.22 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG KHẮC DƯƠNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phùng Thế Vắc

HÀ NỘI, 2017

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa học


xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

TRƯƠNG KHẮC DƯƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN ............................................................................................................. 7
1.1 . Khái niệm quyền công tố ........................................................................................... 7
1.2 . Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ......................................................... 16
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ............................................................................................................................... 17
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH .................................................................................... 27
2.1 . Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh ........................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh.............................................................. 31
2.3. Những hạn chế vướng mắc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh .............................. 38
2.4. Đánh giá ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân của các tồn tại từ thực tiễn áp
dụng pháp luật ................................................................................................................... 40
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................................... 44
3.1. Quan điểm về quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh .................................................................... 44
3.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được và những hạn chế trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Bắc Ninh ............................................................................................................................ 45
3.3. Giải pháp..................................................................................................................... 50

3.4. Kiến nghị .......................................................................................................... 66
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 72


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ Luật tố tụng hình sự

BLHS

: Bộ Luật hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSĐT

: Kiểm sát điều tra


QCT

: Quyền công tố

THQCT

: Thực hành quyền công tố

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XXST

: Xét xử sơ thẩm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, công bằng và nghiêm minh, với xu hướng đề cao bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và chống làm oan người vô tội góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Vì thế, trong những năm qua cùng với việc đổi mới toàn diện đất

nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh đổi mới về tổ chức và hoạt
động đối với hệ thống các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm sát (VKS) có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong vụ án hình sự, do vậy hoạt động của VKS là một quy trình xuyên suốt
từ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trong tố tụng
hình sự Viện kiểm sát có chức năng đặc biệt quan trọng bởi lẽ quyết định truy tố của
VKS (bản cáo trạng) là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm. Hầu hết các vụ án bị tuyên oan, sai, bỏ lọt tội đều có nguyên nhân
từ việc không làm tốt chức năng, nhiệm vụ hoặc do nghiệp vụ còn non yếu của KSV
hoặc do KSV chưa bảo đảm đúng quy trình trong xét xử sơ thẩm. Vì thế hoạt động
thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát theo đúng quy định
của pháp luật sẽ giúp cho Toà án nhân dân tuyên một bản án khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật và có tính thuyết phục cao, góp phần quan trọng vào công tác
đấu tranh phòng ngừa vi phạm và tội phạm, đồng thời hạn chế việc kháng cáo, kháng
nghị lên cấp trên. Quá trình KSV căn cứ vào các quy định của pháp luật để đề nghị
Toà án Nhân dân tuyên bị cáo đúng tội danh, đề nghị mức án có căn cứ pháp luật, phù
hợp với hành vi mà bị cáo đã gây ra, đó chính là việc Kiểm sát viên thực hành tốt
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

1


Thêm vào đó, Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng
hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì xét xử là một trong những hoạt động tư pháp quan
trọng của Nhà nước nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy
hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm phải được đưa ra xử lý trước pháp luật. Tuy
nhiên, dư luận nhân dân còn chưa hài lòng với một số phiên toà xét xử mà ở đó, Kiểm

sát viên còn yếu kém về trình độ và năng lực, không nắm vững các quy định của pháp
luật, thiếu tinh thần trách nhiệm nên đã xảy ra tình trạng bỏ lọt tôi phạm, đề nghị truy
tố không đúng tội danh, không đúng khung hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng pháp luật; do đó dẫn đến đề nghị mức hình
phạt chưa phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo; số lượng án bị Viện kiểm sát cấp
trên kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm còn nhiều. Hậu quả của những yếu kém
trên là phải cải sửa án sơ thẩm, phải huỷ án sơ thẩm để điều tra lại, xét xử lại, làm ảnh
hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức, cơ quan có liên
quan, chưa làm tròn nhiệm vụ ổn định tình hình chính trị tại địa phương, cũng như ảnh
hưởng đến uy tín, hoạt động của toàn ngành Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài “Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại Học viện khoa
học xã hội, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố đã được đề cập ở một số
sách báo và các công trình nghiên cứu như Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài “Những
vấn đề lý luận về chế định quyền công tố” (nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền)
(tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ luật học; Hà Nội, 2002;
- “Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm”, của Dương Thanh Biểu, Nxb Tư pháp, Hà
Nội năm 2007.
- “Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
TS. Lê Hữu Thể làm chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008.

2


- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Phạm Thị Bình (2008): “ Cơ sở lý luận và thực
tiễn về THQCT của VKSND trong XX các vụ án hình sự tỉnh Thanh Hóa.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Đông (2008): “ Chất lượng THQCT
trong giai đoạn XX sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hà Nam”.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Quốc Hoàn (2009): “ Ap dụng pháp luật
THQCT trong giai đoạn XX sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND tinhr Nam Định”.
- “Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ Luật của Hoàng
Tùng, năm 2009.
- “Năng lực áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Quận Hà Đông- Thành phố hà
Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật của Nguyễn Thị Tuyết Mai, năm 2011.
Ngoài các tác giả nêu trên còn có rất nhiều công trình khoa học, các bài viết của
nhiều tác giả khác tập chung nghiên cứu liên quan đến các vấn đề: áp dụng pháp luật
trong XX các vụ án hình sự, nâng cao chất lượng THQCT các vụ án hình sự; nâng cao
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong
XX và KSXX các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp… Có thể kể ra một số
công trình, bài viết đó là:
- Bàn về việc tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự sơ thẩm (2007), TS.
Dương Thanh Biểu, Tạp chí kiểm sát;
- Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động THQCT của KSV (2007), ThS. Trần
Văn Quý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
- Phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS về XX sơ thẩm các
vụ án hình sự (2011), TS Đinh Văn Quế, Tạp chí Tóa án nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trình bày cơ sở lý luận về đánh giá đúng thực trang cũng như đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao nhận thức một cách thống nhất và đầy đủ trong việc áp dụng thực
hành QCT trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở thành phố Bắc Ninh, đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng với

3



các cơ quan tư pháp trong tỉnh bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước,
của tổ chức và công dân, tăng cường pháp chế XHCN.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc
Ninh. Trong đó, tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, quy trình và các yếu tố
đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc
Ninh. Kết quả đạt được (ưu điểm) và hạn chế, tìm ra những nguyên nhân hạn chế, dẫn
đến những tồn tại, hạn chế của công tác này.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hành quyền công tố
ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tthành phố Bắc
Ninh trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân trên địa
bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để phân tích khái quát

các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp trong thực hành

4


quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Bắc Ninh.
Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét vấn đề nghiên cứu trong
mối liên hệ giữa lý luận với thực tiễn, các quy định của pháp trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực
tế áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh.
Phương pháp lịch sử đòi hỏi nghiên cứu hoạt động trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh
phải đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Thực trạng thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh chỉ được xem
xét một cách toàn diện, đầy đủ khi đặt chúng trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Phương pháp thống kê: được sử dụng khi đánh giá thực trạng thực hành quyền
công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Bắc Ninh.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả cũng sử dụng phương pháp
so sánh, phương pháp khảo sát thực tế.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc
Ninh. Luận văn đã góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận của lĩnh vực này.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy, học tập trong các Trường Đại học chuyên ngành luật và không chuyên ngành luật,
hệ thống các trường chính trị của Đảng.

Kết quả nghiên cứu luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các
Điều tra viên, Kiểm sát viên trong Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhất là những
Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự để nâng cao trình độ lý luận và thao tác chuyên môn.

5


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo Luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân
Chương 2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh
Chương 3. Quan điểm và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6


Chương 1
LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố cũng như các chế định pháp luật khác, là một phạm trù lịch sử,
là sản phẩm của xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó xuất hiện
cùng với sự ra đời của nhà nước. Trên thế giới, do có sự khác biệt về mặt thể chế chính
trị, điều kiện lịch sử, truyền thống văn hoá…nên chế định quyền công tố cũng có sự
khác biệt trong cơ chế vận hành, nhưng quá trình diễn biến của nó đều thể hiện rõ quy

luật tất yếu chung của sự phát triển lịch sử. Đó là, quyền công tố luôn gắn liền với bản
chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không tách rời khỏi công quyền.
"Công tố" theo Đại từ điển tiếng Việt, "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước,
tập thể, trái với tư", còn "tố" có nghĩa là "nói về những sai phạm tội lỗi của người khác
một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người", "công tố" có
nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án"
[17, tr.453, 459, 1663].
Như vậy, công tố có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật
hình sự. Bất kỳ Nhà nước nào cũng hết sức quan tâm đến lĩnh vực hình sự, khi một
hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một quan hệ pháp luật giữa
một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này, Nhà nước
là chủ thể quyền lực (quyền lực công), là người thực hiện sự buộc tội, đối tượng bị
Nhà nước cáo buộc là người đã thực hiện hành vi tội phạm. Công tố, vì thế được hiểu
hành vi bị coi là tội phạm trước Toà án.
Ở Việt Nam, quyền công tố và thực hành quyền công tố được nhắc đến nhiều
khi đề cập đến chức năng của Viện Kiểm sát các cấp. Thuật ngữ "thực hành quyền
công tố" được đưa ra trong Hiến pháp 2013 (Điều 138 Hiến pháp 2013) và được nhắc
lại ở Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, bên cạnh khái niệm truyền
thống "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" đã xuất hiện khái niệm "quyền công tố" và

7


"thực hành quyền công tố". Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực,
phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền công tố. Nhưng về nội dung và phạm vi
thực hành quyền công tố là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Có
thể khái quát một số quan điểm chính sau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, "Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
Viện kiểm sát truy tố người phạm tội ra Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà
(thực hiện quyền công tố)" [38].

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với
cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật
dân sự, luật kinh tế, luật hình sự và là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó.
Quan điểm thứ ba cho rằng, "quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài
hình sự đối với người phạm tội" [30, tr.380].
Quan điểm thứ tư cho rằng, "quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước,
xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật" [40, tr.84-87].
Quan điểm thứ năm cho rằng, "quyền công tố là quyền của Nhà nước, được
Nhà nươc giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan Viện kiểm sát) thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan
công tố có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng từ để xác định tội
phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự
buộc tội trước phiên toàn" [38, tr.40].
Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với
người phạm tội. Quyền công tố chỉ được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật
đã gắn liền không thể tách với việc nhân danh nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp
luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Do vậy, quyền công tố chỉ có
trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực khác.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có nhiều quan điểm khác nhau,
mỗi quan điểm trong đó có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng bộc lộ những
bất cập nhất định, hạn chế là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung,

8


phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Nên coi quyền công tố chỉ là quyền năng của Viện kiểm sát
trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công

tố là một hoạt động độc lập nhân danh quyền lực công.
Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm thứ năm nêu trên về khái
niệm quyền công tố, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này đã khẳng định được quyền công tố
là quyền của Nhà nước, nhân danh nhà nước để buộc tội đối với người có hành vi vi
phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm xâm hại trật tự chung của xã hội và nó chỉ
có trong lĩnh vực hình sự. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm truyền thống
nghiên cứu của lịch sử nhà nước và pháp luật về quyền công tố.
Thứ hai, quan điểm này cũng thừa nhận quyền công tố gắn liền với quyền tài
phán của toà án. Đó là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra
toà và bảo vệ sự buộc tội trước phiên toà. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, không
có nghĩa cứ phải đưa được người phạm tội ra toà mới là thực hành quyền công tố. Trên
thực tế, quyền công tố có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng tác
động của quyền công tố có đủ căn cứ để triệt tiêu.
Thứ ba, quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan
thực hiện và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt Nam thực hiện quyền này là Viện
kiểm sát).
Thứ tư, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
Từ những phân tích như trên tác giả xin đưa ra khái niệm quyền công tố: Quyền
công tố là quyền của nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện các quyền năng theo
quy định của pháp luật để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, trên cơ sở bảo đảm việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội
phạm và người phạm tội.
Hiến pháp năm 2013, điều 109 cũng nói thêm “Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.”

9



1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
Khi nghiên cứu chức năng của VKS chúng ta hay đề cập đến khái niệm thực
hành quyền công tố. Có quan điểm cho rằng: "Thực hành quyền công tố là việc thực
hiện các hoạt động tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để
truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa
án và bảo vệ sự buộc tội đó".
- Quyền công tố là quyền lực công, xuất hiện và gắn liền với sự ra đời của Nhà
nước và pháp luật.
- Công tố là quyền lực thuộc về Nhà nước, là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
- Bản chất của tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ tiến hành tố tụng trong việc
phát hiện, xác định và xử lý chủ thể thực hiện hành vi phạm tội được thể hiện ở ba chức
năng chính là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử.
Như vậy: "THQCT là hoạt động của VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung QCT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố và trong các giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử".
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Hiện nay, vấn đề QCT và THQCT còn có nhiều quan điểm của các nhà khoa
học khác nhau, các quan điểm đó cũng đều có những hạt nhân hợp lý. Ngay cả những
người đang tiến hàng tố tụng cũng còn nhiều nhầm lẫn giữa QCT và THQCT cho rằng
là một, nhưng đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau nhưng có quan hệ gắn bó mật
thiết với nhau. Trong khoa học luật, việc xác định QCT và THQCT có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất quan trọng. Điều đó giúp cho việc chính xác vai trò, vị trí của VKS
trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói riêng;
xác định rõ chức năng của VKS để từ đó có những quyết định đúng đắn về tổ chức
VKSND các cấp. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta


10


đang đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách bộ máy nhà nước nói
chung, cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói riêng.
Như đã trình bày ở phần trên, tác giả luận văn tán thành với quan điểm cho rằng
QCT là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện nhằm truy cứu TNHS đối với
người phạm tội. Đây là quyền chỉ có trong lĩnh vực TTHS, bắt đầu từ khi có tội phạm
xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi có quyết định đình chỉ
vụ án theo quy định của pháp luật. Theo đó, Nhà nước đã xây dựng các thiết chế, các
cơ chế để đảm bảo thực hiện QCT, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung QCT. Như vậy, có thể thấy QCT là quyền lực Nhà nước, còn THQCT là cách
thức Nhà nước tổ chức thực hiện quyền lực ấy. Việc tổ chức THQCT được quy định
rất khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tuỳ thuộc vào bản chất chế độ chính
trị, điều kiện và hoàn cảnh của từng nước.
Song thực tế ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương
của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, chức năng THQCT chính thức được giao cho
hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, đó là VKSND - Cơ quan duy nhất THQCT. Tuy
vậy, việc phát động QCT cũng có cả ở cơ quan điều tra nhưng chỉ có hiệu lực khi các
quyết định khởi tố của cơ quan điều tra được VKS phê chuẩn. Nếu các quyết định của
cơ quan điều tra không có căn cứ hoặc trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ các
quyết định này. Nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm hoặc người phạm tội mới thì Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố vụ
án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nhưng quyết định đó phải được gửi cho
VKS xem xét, nếu không có căn cứ thì VKS sẽ kháng nghị lên cơ quan cấp trên.
Theo đó, về mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động
QCT mà không phải chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào và THQCT là
chức năng Hiến định mà không cơ quan nhà nước nào làm thay VKS, cố Tổng Bí thư
Trường Chinh đã khẳng định: “Không có cơ quan nhà nước nào thay thế ngành Kiểm

sát để sử dụng QCT. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay
không, điều đó chính là VKS phải trông nom, bảo đảm làm tốt [42, tr.38]

11


Từ những phân tích trên, có thể đi đến khái niệm THQCT trong giai đoạn xét
xử là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT của VKS để
truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự nhằm
bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Phạm vi:
Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi Viện
kiểm sát ra bản cáo trạng, quyết định truy tố (với vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn)
đến khi có Bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt
tội phạm, người phạm tội thì kháng nghị cấp trên.
Ý nghĩa:
Quyền năng này được thể hiện qua các hình thức: văn bản pháp luật cá biệt có tính
“mệnh lệnh” - quyết định; biên bản; công văn; hành vi và lời nói của Kiểm sát viên.
Ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi
phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn sẽ tạo ra
cơ chế đồng bộ bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, công bằng
và tiến bộ xã hội.
Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân là hoạt động phức tạp. Trên cơ sở những quyền năng pháp lý mà pháp
luật trao cho ngành kiểm sát nói chung và những vụ án thuộc thẩm quyền truy tố, xét xử
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, thành phố nói riêng để thực hành quyền công tố
các vụ án thuộc thẩm quyền. Việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật của Viện

kiểm sát nhân dân cấp huyện, thành phố khi thực hành quyền công tố các vụ án thuộc
thẩm quyền có giá trị bắt buộc thi hành không chỉ đối với người tham gia tố tụng và đối
với cả những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền luận
tội bị cáo tại phiên toà, đề xuất hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Vì vậy, việc
áp dụng pháp luật một cách đúng đắn trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho hoạt động

12


truy tố và xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là một dạng hoạt động áp
dụng pháp luật nói chung. Vì vậy, nó cũng tuân theo các quy trình chung và được thực
hiện qua những giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét, đánh giá các tình tiết,
chứng cứ có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan
có thẩm quyền ở giai đoạn điều tra, truy tố cung cấp.
Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa rất quan trọng đến quá trình thực hành quyền
công tố ở giai đoạn XXST các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Đây là
nhiệm vụ trọng tâm của Kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố vụ
án hình sự. Chỉ có nghiên cứu hồ sơ, nắm vững nội dung vụ án để đưa ra các Yêu cầu
điều tra chính xác, đầy đủ cho Điều tra viên thì Kiểm sát viên mới có đầy đủ căn cứ để
thể hoàn thành việc buộc tội bị cáo tại phiên toà. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá
các tình tiết cụ thể của nó để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi do đối tượng đã gây ra như: Có hành vi phạm tội hay không? Hành vi đó ở
mức độ nào (đủ điều kiện để khởi tố chưa)? Năng lực chịu trách nhiệm hình sự (đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa)? Xảy ra ở đâu? Khi nào? Ai là người thực hiện?
Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng

cứ; Các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội, những vấn đề còn mâu thuẫn trong hồ
sơ vụ án; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo; Vật
chứng của vụ án cần xử lý…
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nói chung và nhất là các vụ án xét xử sơ thẩm ở cấp
thành phố nói riêng cũng có nhiều vụ án phức tạp, khung hình phạt cao, có khi có
nhiều bị cáo, Kiểm sát viên phải trích cứu những tài liệu quan trọng được sử dụng làm
chứng cứ buộc tội, nhất là bản tường trình, biên bản ghi lời khai của bị can, bị cáo,
người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác. Việc trích cứu
này giúp Kiểm sát viên nắm chắc thêm quá trình diễn biến của vụ án và làm cơ sở khi
đấu tranh với bị cáo trong trường hợp bị cáo có thái độ khai báo quanh co, chối tội tại
phiên toà. Tài liệu cần phải sắp xếp khoa học theo từng tập, có viện dẫn bút lục trong

13


hồ sơ để dễ tra cứu khi cần thiết. Tránh tình trạng lười ghi chép, chỉ photocoppy lại các
biên bản lời khai, không chịu nghiên cứu. Làm như vậy, tất yếu sẽ dẫn đến thiếu chủ
động, lúng túng, nhất là khi gặp trường hợp tại phiên tòa bị cáo hoặc người bào chữa
đưa ra những lý lẽ trái ngược với lời buộc tội của Kiểm sát viên. Đối với những chứng
cứ quan trọng, như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định… cần phải
sao chụp để sử dụng tại phiên toà.
Khi nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị cho việc tham gia xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát
viên được phân công giải quyết vụ án cần đi phúc cung đối với bị cáo còn đối với
những vụ án có diễn biến phức tạp… thì Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo có thể hỏi
lại người bị hại, nhân chứng để cúng cố chứng cứ đảm bảo việc buộc tội bị cáo chắc
chắn, để đảm bảo Kiểm sát viên cũng cần chủ động xem xét tận nơi xảy ra vụ án (hiện
trường) hoặc xem lại vật chứng, dấu vết. Nếu không nắm vững hồ sơ, thì đề cương xét
hỏi tại phiên toà sẽ không chuẩn xác, không có cơ sở để tranh luận; chất lượng tham
gia xét hỏi của Kiểm sát viên sẽ không đạt yêu cầu dẫn đến việc đề nghị áp dụng pháp
luật về đường lối giải quyết và đưa ra bản luận tội của vụ án sẽ không chính xác.

Ngoài việc nghiên cứu các chứng cứ buộc tội thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án đó phải
nghiên cứu các chứng cứ gỡ tội cho bị cáo, xem xét các chứng cứ buộc tội thu thập có
đảm bảo đúng theo các quy định của pháp luật hay không?
Như vậy, việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị thực hành quyền công tố tại phiên toà
là giai đoạn khởi đầu hết sức quan trọng của quá trình giải quyết vụ án, nó có ý nghĩa
quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ của Kiểm sát viên tại phiên toà. Nếu chuẩn bị
tốt ở giai đoạn này, Kiểm sát viên có điều kiện chủ động, tự tin tiến hành hoạt động tố
tụng tiếp theo. Việc nghiên cứu hồ sơ ở mỗi vụ án có đặc thù riêng, tuỳ thuộc vào từng
vụ án cụ thể mà Kiểm sát viên có phương pháp nghiên cứu phù hợp. Từ kết quả nghiên
cứu định hướng cho Kiểm sát viên có những quyết định nhạy bén và đúng đắn tại phiên
tòa. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo
cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát đảm bảo đúng pháp luật,
việc giải quyết vụ án hình sự được tuân thỉ theo đúng quy định của pháp luật.

14


- Giai đoạn thứ hai: Xem xét, dẫn nguồn, lựa chọn các quy phạm pháp luật để
áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố giai đoạn XXST các vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân.
Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết, kiến
thức pháp luật của Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND. Kiểm sát viên có thẩm quyền áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công
việc đã xử lý ở giai đoạn điều tra, đề xuất của Cơ quan điều tra về quan điểm áp dụng
pháp luật để xử lý vụ án, quyết định truy tố người phạm tội để xét xử ở Toà án có đúng
thẩm quyền hay không, đồng thời phải nghiên cứu, xem xét các quy định pháp luật áp
dụng để xử lý vụ án. Để từ đó xác định nội dung quy phạm được áp dụng, phạm vi quy
phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động thực hành quyền công tố xét xử các vụ

án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Muốn
làm được điều đó, đòi hỏi Kiểm sát viên áp dụng pháp luật phải tiến hành giải thích
quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của quy phạm
pháp luật được lựa chọn. Lựa chọn quy phạm pháp luật đúng là yêu cầu quan trọng để
quyết định áp dụng pháp luật sẽ chính xác.
Tóm lại, giai đoạn áp dụng pháp luật này cần đòi hỏi phải lựa chọn đúng quy
phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là
quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản quy
phạm pháp luật khác; xác định tính chân chính của văn bản quy phạm pháp luật chứa
đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật.
- Giai đoạn thứ ba : Ban hành quyết định áp dụng pháp luật.
Ban hành quyết định áp dụng pháp luật trong giai đoạn này là việc Viện kiểm
sát nhân dân ra các quyết định về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Toà án quyết
định tội phạm và hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo và bảo vệ cáo trạng đã truy tố
của Viện kiểm sát. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của cả quá trình áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
VKSND. Tuy nhiên, đây là dạng ADPL đặc thù nên quyết định ADPL của Viện kiểm

15


sát nhân dân trong giai đoạn này thường là trực tiếp bằng lời nói trong bản luận tội đối
với bị cáo tại phiên toà. Quyết định về đường lối giải quyết vụ án như tội phạm, hình
phạt, xử lý vật chứng, bồi thường thiệt hại,…. được công bố sau khi đã xem xét, đối
chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được
thu thập trong hồ sơ vụ án; các tình tiết, chứng cứ đã được điều tra công khai tại phiên
toà, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Đây là giai đoạn trọng tâm của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, hội tụ kết
quả của các giai đoạn trước đó, là kết quả áp dụng các quy định của pháp luật vào vụ

án, bị cáo cụ thể để đề ra các quyết định chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
- Giai đoạn thứ tư: Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng của
quá trình áp dụng pháp luật. Khác với các quyết định áp dụng pháp luật của các cơ
quan nhà nước khác, quyết định áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân được thi hành
ngay mà mặc nhiên không phải triển khai các biện pháp tổ chức thi hành.
Chẳng hạn khi Viện kiểm sát rút toàn bộ cáo trạng trước khi mở phiên toà thì vụ án
phải đình chỉ theo quy định tại Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự, Thẩm phán ra quyết định
đình chỉ vụ án khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.
1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
- Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm
Sau khi kết thúc điều tra, nếu xác định có tội phạm và cần phải truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bị can thì Cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra.
Trường hợp vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn, khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra
không làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra
(quyết định đề nghị truy tố) cùng toàn bộ hồ sơ vụ án phải được chuyển sang VKS để xem
xét, giải quyết theo thẩm quyền (Điều 162 BLTTHS 2003). Trong thời hạn không quá hai
mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối

16


với với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày VKS nhận được hồ
sơ vụ án và bản kết luận điều tra; Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát
có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba
mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng VKS xem xét thấy có đủ các căn cứ để

truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử thì VKS ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, VKS phải
gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
- Tại phiên tòa sơ thẩm
Tại phiên tòa sơ thẩm chức năng thực hành quyền công tố của VKS là buộc tội
thông qua việc công bố bản cáo trạng, quyết định truy tố, tham gia xét hỏi, luận tội,
tranh luận nhằm buộc tội bị cáo, bảo vệ cáo trạng tại phiên Tòa. Đồng thời Kiểm sát
viên cũng ghi chép lại đầy đủ diễn biến phiên tòa (Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2014).
- Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm
Sau phiên tòa sơ thẩm, chức năng thực hành quyền công tố của VKS vẫn được
duy trì thông qua việc KSV tham gia phiên tòa vẫn tiếp tục nghiên cứu, xem xét, đánh
giá kết quả hoạt động xét xử để kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của việc ra Bản
án, quyết định của Tòa án thông qua đó để phát hiện những sai sót, vi phạm pháp luật
để kịp thời kháng nghị theo trình tự của pháp luật (Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2014).
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Bảo đảm pháp lý
THQCT ở giai đoạn XXST các vụ án hình sự, là một trong các hoạt động của
VKSND trong TTHS, nhằm chứng minh tội phạm và đề nghị xử lý trách nhiệm hình
sự đối với người có hành vi phạm tội. Đó là hoạt động cá biệt do VKS - thay mặt Nhà
nước tiến hành, theo các thủ tục tố tụng hết sức chặt chẽ mà đối tượng là tội phạm và
người phạm tội. Cơ sở pháp lý để trong hoạt động này là Bộ luật hình sự, Bộ luật tố
tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cơ sở pháp lý càng hoàn

17


thiện thì hoạt động này của VKSND ngày càng được bảo đảm. Sau Hiến pháp, đạo

luật gốc quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKS thì BLHS, BLTTHS là
những cơ sở pháp lý cơ bản và quan trọng nhất của hoạt động THQCT ở giai đoạn
XXST các vụ án hình sự.
Bộ luật hình sự là văn bản pháp luật duy nhất quy định về tội phạm và hình
phạt, được hiểu là các quy phạm nội dung của pháp luật hình sự; căn cứ pháp lý quan
trọng nhất trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự. Nó là yếu tố bảo đảm
hàng đầu cho việc THQCT nói chung và đặc biệt là trong giai đoạn XXST các vụ án
hình sự nói riêng. Xuất pháp từ tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm
xây dựng, hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự, là lĩnh vực được pháp điển sớm
hơn so với những ngành luật khác. Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua
ngày 27/6/1985, là công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần
quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức trong xã hội. Song
trước đòi hỏi của thực tiễn, BLHS đã được 4 lần sửa đổi bổ sung (ngày 28/12/1989,
12/8/1991, 22/12/1992, 10/5/1997) và được thay thể bởi BLHS năm 1999 (Quốc hội
khoá X thông qua ngày 21/12/1999); tiếp tục được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009.
Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới cao hơn của hoạt
động lập pháp hình sự nước ta trong suốt hơn năm mươi năm qua, vì nó được hình
thành không chỉ trên cơ sở tổng hợp những kinh nghiệm, thành tựu của thực tiễn hình
sự và các tri thức về khoa học tiên tiến trên thế giới. Đây chẳng những là công cụ sắc
bén, hữu hiệu của Đảng, Nhà nước và của nhân dân để đấu tranh phòng, chống tội
phạm mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng bậc nhất cho việc THQCT nói chung và
THQCT ở giai đoạn XXST các vụ án hình sự.
Ngày 27/11/2015 Bộ luật hình sự 2015 được ban hành gồm 3 Phần, 26 Chương,
426 Điều thay vì Bộ luật hình sự 1999 gồm 2 Phần, 24 chương, 344 Điều. Mặc dù đến
nay chưa có hiệu lực nhưng theo tinh thần Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày
27/11/2015 của Quốc hội thì các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 xóa bỏ một
tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định về hình phạt nhẹ hơn, tình
tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án


18


tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với các hành
vi phạm tội trước ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều
tra, truy tố, xét xử, hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình
phạt, xóa án tích.
BLTTHS được coi là luật hình thức, là căn cứ pháp lý quan trọng nhất quy
định: Trình tự, thủ tục khỏi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hễ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ
của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc
tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội .
Cũng như BLHS, BLTTHS đã được 3 lần sửa đổi bổ sung (ngày 30/6/01990,
22/12/1992, 09/6/2000) và được thay thế bởi BLTTHS năm 2003 (Quốc hội khoá XI
thông qua ngày 26/11/2003). Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời đánh dấu một
bước phát triển mới cao hơn về tư tưởng và kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta và
nhằm điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
Ngày 27/11/2015 BLTTHS số 101/2015/QH13 được ban hành với nhiều nội
dung sửa đổi, cụ thể: BLTTHS năm 2015 với nhiều sửa đổi, bổ sung tăng thêm 154
điều luật với 176 điều mới, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều.
Trong đó một số quy định về THQCT như mở rộng diện người tham gia tố tụng; bổ
sung diện người tham gia tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra; quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; bổ sung quyền của những người tham
gia tố tụng theo hướng mở rộng hơn diện người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên ngày 30/06/2016, Văn phòng Chủ tịch nước đã họp báo về Lệnh số
10/2016/L-CTN của Chủ tịch nước công bố Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi

hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13; Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13; Luật Thi
hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13; và bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung

19


một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2016.
Bên cạnh hai Bộ luật nói trên, cơ sở pháp lý để đảm bảo TTHQCT ở giai đoạn
XXST các vụ án hình sự còn phải kể đến các Thông tư liên tịch, Nghị quyết của các cơ
quan chức năng hướng dẫn thi hành.
Bộ luật hình sự, BLTTHS Việt Nam hiện hành và các văn bản hướng dẫn về cơ
bản đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Song
hiện nay, qua thực tế áp dụng cũng còn nhiều quy định chưa cụ thể, chưa được hướng
dẫn để áp dụng thống nhất, có những quy định còn mâu thuẫn, chồng chéo… điều đó,
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động hình sự nói chung và trong THQCT ở giai đoạn
XXST các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Bảo đảm về tổ chức
Bảo đảm về mặt tổ chức là yêu cầu không thể thiếu và là yếu tố quan trọng nhất
để nâng cao chất lượng hoạt động của mỗi cơ quan tổ chức, trong đó công tác cán bộ
được xác định là khâu then chốt.
Người cán bộ, công chức tốt là người phải có đủ trình độ, năng lực hoàn thành
tốt công việc được giao, đồng thời là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt. Đối với
Viện kiểm sát nhân dân thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên, công chức trong
cơ quan nếu trình độ năng lực yếu kém sẽ tác động trực tiếp đến việc oan, sai, bỏ lọt tội
phạm, xét xử thiếu công minh. Thực hiện pháp luật nghiêm minh là yêu cầu đối với tất
cả các chủ thể thực hiện pháp luật, nhưng đối với cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân
yêu cầu khắt khe và chuẩn mực hơn vì hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến tính

mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ngoài ra, phẩm chất chính trị, đạo đức của cán bộ công chức nhất là đối với các
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, cán bộ, công chức công tác trong ngành Kiểm sát có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật nói riêng.
Đối với Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên, công chức công tác trong ngành
Kiểm sát phải có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng không những luôn chấp
hành, tuân thủ pháp luật nghiêm minh, có những xử sự theo đúng yêu cầu của pháp

20


luật mà quan trọng hơn là trong quá trình thực thi công vụ việc thực hiện pháp luật của
họ phải bảo đảm nghiêm minh, kịp thời. Sở dĩ có thể khẳng định như trên vì khi những
người thực thi nhiệm vụ có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong
sáng thì nhân cách, phẩm giá, lương tâm của họ sẽ đạt được các giá trị chuẩn mực phù
hợp với yêu cầu thực hiện pháp luật. Bản thân họ với những giá trị ấy không làm gì
trái pháp luật mà còn tích cực chủ động, nêu cao tinh thần phụ trách và trách nhiệm
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực được giao. Trái lại, những cán
bộ, công chức thoái hoá biến chất về phẩm chất đạo đức, lối sống sẽ dễ buông thả, vi
phạm pháp luật, thậm chí tiếp tay, bao che cho các hành vi vi phạm pháp luật để trục
lợi. Như vậy, để bảo đảm thực hiện pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, đối với đội ngũ cán bộ, bồi dưỡng nâng cao trình độ,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giáo
dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
Trong những năm qua, đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền
công tố cũng ngày càng được kiện toàn theo hướng chú trọng nâng cao cả về năng lực
chuyên môn và phẩm chất đạo đức để có thể thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Cùng với quá trình đổi mới, kiện toàn tổ chức
và hoạt động của ngành Kiểm sát, cũng phải đổi mới kiện toàn tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp khác, đặc biệt là Toà án và Cơ quan điều tra, các cơ quan bổ

trợ tư pháp… Kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
cơ quan này là yếu tố quan trọng bảo đảm việc áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Các bảo đảm khác
Thứ nhất, đó là sự giám sát của các thiết chế xã hội.
Nghị quyết số 08 năm 2002 của Bộ chính trị đã nhấn mạnh tăng cường sự giám
sát của Quốc hội, Hội đồng nhân sân, của các tổ chức xã hội và của công dân đối với
công tác tư pháp.., điều đó chứng minh rằng Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng và đặc
biệt quan tâm, nhìn nhận chính xác tầm quan trọng của việc phải tăng cường giám sát
đối với cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo sự độc lập trong xét xử, nhưng cũng

21


×