Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG tố TRONG GIAI đoạn xét xử sơ THẨM vụ án xâm PHẠM sở hữu từ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NỞ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình
Phước” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Võ Thị Kim Oanh. Các số liệu, kết quả trong luận
văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các thơng tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Các giải
pháp nêu trong luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và quá trình nghiên cứu
thực tiễn.
Tác giả

Đỗ Thị Nở



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ
HỮU .......................................................................................................................... 10
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
xâm phạm sở hữu ...................................................................................................... 10
1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án xâm phạm sở hữu ............................................................................................ 23
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC ........................... 32
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .............................................................................. 32
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm
phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước ............................................. 46
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH
PHƯỚC .................................................................................................................... 63
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ............................................................................... 63
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ......................................................................... 66
3.3 . Các giải pháp khác ............................................................................................ 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án xâm phạm sở hữu
1.1.1. Khái niệm công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố
Quyền cơng tố là quyền của Nhà nước vì lợi ích cơng cộng (lợi ích của Nhà
nước hay của xã hội) đối với người phạm tội, đã được biết đến từ thời xa xưa của xã
hội loài người, khi nhà nước xuất hiện thì quyền cơng tố cũng xuất hiện. Lịch sử tư
pháp hình sự trên thế giới đã cho thấy, q trình hình thành, phát triển, hồn thiện
chế định quyền công tố gắn với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Trong từng
thời kỳ nhất định, mỗi quốc gia có bộ máy nhà nước được thiết lập khác nhau gắn
liền với các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, con người, văn hóa. Do
đó, quyền cơng tố cũng có những khác biệt nhất định, song song với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, thì việc hồn thiện chế định quyền công tố
cũng ngày càng thể hiện rõ nét. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền
cơng tố, tơi đồng tình với quan điểm cho rằng: quyền công tố là một khái niệm pháp
lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước và pháp luật [47, tr.86].
Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau và chưa có cách hiểu thống
nhất về khái niệm quyền cơng tố. Theo dòng lịch sử pháp lý Việt Nam, khoa học
luật pháp lý nói chung, cũng như khoa học hình sự nói riêng, chế định “quyền cơng
tố” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, trước Hiến pháp năm 1959 đã tồn tại
quyền công tố, từ năm 1960 đến nay do VKSND thực hiện quyền này.
Quyền công tố ở nước ta được đề cập trong Hiến pháp năm 1980, chức
năng THQCT của VKS được quy định tại Điều 138 Hiến pháp 1992, Điều 137 Hiến
pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Điều 107 Hiến pháp 2013 đã khẳng định
tại sự tồn tại của thuật ngữ quyền công tố, THQCT trong chức năng của VKSND.

10


Để hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”, bản chất và nội dung nó gì
là, hiện nay vẫn chưa có quan điểm, nhận thức thống nhất chung. Theo từ điển Luật
học thể hiện “công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội” [56, tr.188]; trong khi từ điển tiếng Việt của Viện ngơn ngữ do
GS. Hồng Phê chủ biên thì: cơng tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ
phạm pháp trước Tòa án” (57, tr.204]; lại có quan điểm cho rằng “cơng tố là hoạt
động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các
lợi ích của Nhà nước mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật”.
Hiện nay Nhà nước chưa có văn bản pháp luật nào giải thích chính thức nội dung
quyền cơng tố, có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi,
chủ thể tham gia thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công tố) là
những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Tác giả đồng tình với một số
quan điểm có sự khác nhau nhưng cơ bản tập trung vào các nhóm sau:
Thứ nhất, quyền công tố không phải là chức năng độc lập của VKS, mà chỉ
là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chỉ có trong
giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, tức là kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự thì
KSV THQCT để buộc tội bị cáo tại phiên tòa [79, tr.85-86]. Quan điểm này là phổ
biến và cũng là quan điểm cơ bản của các nhà khoa học pháp lý Xô Viết, đã đồng
nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi xét xử hình
sự tại phiên tịa, phạm vi quyền cơng tố bị thu hẹp, chưa thấy hết vai trị, vị trí của
VKS khi thực hành quyền cơng tố, chức năng truy tố và buộc tội của VKS tại phiên
tòa xét xử vụ án hình sự chỉ là một trong các quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố.
Thứ hai, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKSND truy tố
người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử [30], thực hiện việc buộc tội tại phiên tịa.
Nội dung của quyền cơng tố là đưa ra quan điểm, lời buộc tội những cá nhân cụ thể
với các tội danh cụ thể trong bản cáo trạng đó tại phiên tòa sơ thẩm. Theo quan

điểm này thấy rằng việc THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho hoạt động của
VKS. Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của quyền

11


công tố, về lý luận cũng như trong thực tế, hoạt động THQCT của VKS tại Tòa án
chỉ là một trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng THQCT của VKS.
Thứ ba, “Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKSND nói riêng và
các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung sử dụng để truy cứu TNHS và áp dụng các
chế tài hình sự để trừng trị các pháp nhân, người có hành vi vi phạm pháp luật
hình sự” [45, tr.26].
Quan điểm này chưa chính xác bởi đã đồng nhất khái niệm quyền công tố
với nguyên tắc tố tụng hình sự, khi người tội phạm xâm phạm đến lợi ích chung của
xã hội hoặc lợi ích riêng của một cá nhân, người phạm tội phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Quan điểm này đã dẫn đến sự
nhằm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự: buộc tội, bào chữa và xét
xử.
Thứ tư, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc
trái với các quy định của pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, bảo vệ trật tự của pháp luật [58, tr.85-86]. Theo quan điểm này, quyền công
tố ban đầu được thể hiện trong lĩnh vực hình sự. Cùng với sự phát triển của xã hội
và các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế,
lao động. Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp
pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm kiểm sát đối với các các cơ
quan tiến hành tố tụng. Quyền công tố là một nội dung của hoạt động thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hình
sự và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật,
hành vi phạm tội đều bị phát hiện điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất [58, tr.88].

Đặc trưng của tố tụng dân sự được tiến hành với nguyên tắc: quyền quyết
định và quyền tự định đoạt là của đương sự nên hoạt động tố tụng này phát sinh, tồn
tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý chí của đương sự. Trong khi đặc trưng của tố tụng
hình sự, phát sinh, tồn tại và chấm dứt không phụ thuộc vào ý chí của những người
tham gia tố tụng. Quan điểm trên đã đồng nhất quyền công tố trong lĩnh vực hình sự

12


với những nhiệm vụ, quyền hạn khác của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Các quan điểm trên đều có hạn chế nhất định đó là khơng phân định rõ ràng
khái niệm, bản chất, nội dung và phạm vi quyền cơng tố; xem quyền cơng tố là một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, dẫn đến xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của
VKSND quyền lực công; đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKS, mở rộng quyền công tố trong tố tụng hình sự sang các
lĩnh vực tư pháp khác như hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động;
quá thu hẹp quyền công tố, xem quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm
tội ra trước TAND và thực hiện việc buộc tội tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền cơng tố, cần phải xem xét nó
trong mối liên hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể “Quyền cơng tố
chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực tư pháp hình sự, khơng thể
tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh cơng quyền) chống lại hình thức
vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [45, tr
37].
Trong tố tụng hình sự ln tồn tại ba chức năng cơ bản đó là, chức năng
buộc tội (điều tra xác minh hành vi phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, giữ vai trò là quan trọng trong tố tụng hình sự, thu hút hoạt động
của tất cả các chủ thể tham gia); chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử.

Như vậy có thể hiểu, quyền cơng tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân dân quyền lực cơng thực hiện việc
truy tố ra trước Tịa án đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước,
Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam đó là Viện kiểm sát). Cơ
quan đó phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định người phạm tội và tội phạm. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra
trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa. [5, tr.9].

13


Một vấn đề quan trọng cần làm rõ khi nói về quyền cơng tố đó là đối tượng,
phạm vi và nội dung quyền công tố. Các nhà nghiên cứu đều có lý luận riêng, đưa
ra những luận điểm về đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố để chứng
minh cho luận điểm của mình. Theo quan điểm nghiên cứu của tôi, đối tượng, nội
dung và phạm vi của quyền công tố được hiểu như sau:
- Đối tượng của quyền công tố là yếu tố mà quyền công tố tác động vào
nhằm mục đích cụ thể nào đó, có thể là nhằm mục đích buộc tội của người phạm tội
để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại, bảo vệ các quyền,
lợi ích chính đáng của các cơ quan, tổ chức chính trị, cá nhân... Theo quan điểm
quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước, Nhà nước đứng ra thay mặt cho xã hội
thực hiện việc buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội, do đó đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội [45, tr.40].
- Nội dung của quyền công tố: là sự buộc tội của Nhà nước (thông qua cơ
quan VKSND) đối với bất kỳ người nào đã thực hiện hành vi tội phạm. Để phát
hiện tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, các cơ quan tố tụng áp dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý do luật định nhằm bảo đảm cho việc mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời theo đúng quy định của pháp
luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo

quan điểm này tôi cho rằng đã nhầm lẫn nội dung quyền công tố sang nội dung thực
hành quyền công tố.
- Phạm vi của quyền công tố: Với quan niệm quyền công tố là quyền nhân
danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội,
phạm vi của quyền này chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự [45, tr 46], từ khi có
hành vi phạm tội xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thực hiện các quyền năng
pháp lý khác nhau để phát hiện tội phạm và hành vi phạm tội, tìm ra các chứng cứ
buộc tội để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đó, kết thúc khi bản án đã
có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng cáo, kháng nghị.

14


1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Để bảo đảm thực hiện quyền công tố, Nhà nước ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố
để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Khi các cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện quyền năng pháp lý của mình được Bộ luật tố tụng hình sự giao để
thực hiện quyền cơng tố thì xuất hiện khái niệm thực hành quyền cơng tố, vì khi có
hành vi phạm tội xảy ra, làm phát sinh mối quan hệ giữa Nhà nước với người thực
hiện hành vi phạm tội. Trách nhiệm của Nhà nước là truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi phạm tội thông qua một cơ quan thực hiện đó là cơ
quan thực hành quyền cơng tố.
Theo từ điển tiếng Việt ghi “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [56, tr.973].
Khái niệm thực hành quyền cơng tố hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác
nhau, tuy nhiên, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Thực hành quyền công tố là
việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhân danh Nhà nước để thực hiện
việc truy tố tra trước Tòa án đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử [5, tr.11]. Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm

2013; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, 2003 và 2015; các Luật tổ chức VKSND
năm 1960, 2002 và 2014 đều quy định VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước
giao nhiệm vụ THQCT. Nội dung thực hiện quyền này được thể hiện cụ thể tại các
Điều 13, Điều 17, Điều 18 và Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2002; khoản 1
Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 “Thực hành quyền công tố là hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự”. Trên thực tế, khơng phải bất kỳ vụ án nào khi xảy ra cũng
được các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện ra và xử lý kịp thời. Đó là mối quan hệ
giữa khả năng và việc thực hiện hóa khả năng, Nhà nước trao quyền và thực hiện
quyền lực đó thơng qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

15


Khi nói về chức năng THQCT cần làm rõ đối tượng, nội dung, chủ thể và
phạm vi THQCT: Đối tượng của THQCT là tội phạm và người phạm tội; chủ thể
THQCT chính là VKSND.
Phạm vi thực hành quyền cơng tố: cho đến giai đoạn hiện nay có nhiều ý
kiến khác nhau và chưa có sự thống nhất về khái niệm THQCT, tôi đồng ý với quan
điểm cho rằng: phạm vi thực hành quyền cơng tố bắt đầu từ khi có dấu hiệu tội
phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án
được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Nội dung thực hành quyền cơng tố: THQCT của VKS là việc sử dụng các
quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành
vi phạm phạm tội, không để bỏ lọt người phạm tội và tội phạm, không làm oan
người vô tội. Theo đó, VKSND danh Nhà nước THQCT trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm là thực hiện các quyền năng pháp lý nhằm bảo đảm việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.

1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu
1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Xét xử là hoạt động quan trọng nhất của Tịa án nói riêng và tồn bộ q
trình tố tụng hình sự nói chung, nhằm thực hiện các biện pháp cần thiết do pháp luật
quy định để kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà Cơ
quan điều tra, VKS đã thực hiện trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tịa án, nhằm
loại trừ những thiếu sót do sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong giai
đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét
xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tịa án có thẩm
quyền tiến hành xem xét giải quyết vụ án, ra bản án, trả tự do hoặc các quyết định
khác theo quy định của pháp luật [60] . Xét xử sơ thẩm được xác định là giai đoạn
kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án
được thu thập trong quá trình điều tra được xem xét một cách cơng khai, khách

16


quan tại phiên tòa và được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn nhau.
Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, nghĩa vụ của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách cơng
khai, đầy đủ nhất; địi hỏi phải tập trung trí tuệ, xử lý tình huống một cách mau lẹ,
các lý lẽ đưa ra khơng chỉ địi hỏi sự chính xác về pháp luật mà phải có sức thuyết
phục.
Trên cơ sở quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử theo

quy định của pháp luật thì thực hành quyền cơng tố là việc Viện kiểm sát tổng hợp
các quyền hạn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự để truy tố trách nhiệm
hình sự, buộc tội, đề nghị áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong giai đoạn
xét xử [63, tr.28].
Thông qua công tác xét xử cần xem xét đối tượng của phiên tòa xét xử sơ
thẩm và phiên tịa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Phiên tịa hình sự sơ thẩm có thể
được thực hiện khi VKS có quyết định truy tố, bản cáo trạng và các điều kiện cần
thiết khác theo quy định của pháp luật để tiến hành mở phiên tòa. Đối tượng của
phiên tòa xét xử sơ thẩm là bản cáo trạng của VKS đối với bị cáo đã thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật hình sự (hành vi tội phạm). Tịa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền,
trách nhiệm xem xét những nội dung trong bản cáo trạng và những vấn đề liên
quan, đưa ra căn cứ đúng pháp luật, thể hiện quyết định của mình trong bản án.
Phạm vi xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi VKS chuyển hồ sơ cùng bản cáo trạng đến
Tòa án và kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định. Trong khi đó, đối tượng của
phiên tịa hình sự phúc thẩm chính là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị về tính có căn cứ, tính hợp pháp và mức hình
phạt của nó.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo giai đoạn
truy tố, đây là giai đoạn bao gồm hai giai đoạn cơ bản đó là giai đoạn chuẩn bị xét
xử và xét xử tại phiên tịa với những hoạt động tố tụng hình sự khác nhau. Mỗi giai
đoạn tố tụng có tính độc lập riêng, đặc trưng về chủ thể, hành vi, hình thức, thời

17


hạn, nguyên tắc, văn bản tố tụng. Các giai đoạn tố tụng này có mối quan hệ với
nhau, tác động lẫn nhau; giai đoạn tố tụng trước làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng
sau, ngược lại giai đoạn tố tụng sau bổ sung, kiểm tra giai đoạn tố tụng trước tạo
thành tiến trình tố tụng thống nhất. Dù ở giai đoạn nào đều phải tuân thủ nhiều
nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc độc lập xét xử. Việc xem xét đánh giá các tài

liệu, chứng cứ trong giai đoạn này phải hết sức khách quan, xem xét tồn diện,
khơng được lệ thuộc vào kết quả của các cơ quan tiến hành tố tụng trước đó.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi VKS chuyển hồ sơ vụ
án đến Tịa án có thẩm quyền xét xử theo luật định. Chuẩn bị xét xử được coi là
bước đầu của giai đoạn xét xử sơ thẩm, từ khi VKS chuyển hồ sơ đến Tòa án nhận
đến khi mở phiên tòa. Giai đoạn này Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa
nghiên cứu tồn diện hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ liên quan, xét có đủ căn cứ
để đưa vụ án ra xét xử hay không, hay trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Biểu hiện đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm là tại phiên tịa sơ thẩm, vụ
án hình sự chính thức được giải quyết công khai với sự tham gia của nhiều chủ thể
khác nhau. Kết quả của phiên tòa khẳng định bị cáo có hay khơng có tội, nếu có thì
tội gì, có bị áp dụng mức hình phạt khơng, mức hình phạt được áp dụng, trách
nhiệm dân sự, giải quyết vật chứng và những vấn đề khác liên quan đến vụ án.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng độc lập,
trong đó chuẩn bị xét xử là tiền đề quan trọng, cần thiết cho việc mở phiên tòa và
tiến hành phiên tòa; phiên tòa sơ thẩm là nơi thể hiện rõ nét nội dung của các
nguyên tắc tố tụng hình sự, mối quan hệ tác động qua lại giữa các chức năng cơ bản
nhất của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội, chức năng xét xử,
trong đó chức năng xét xử đóng vai trị quyết định.
Như vậy, khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để buộc tội người đã thực hiện hành vi phạm tội bị truy tố tại phiên
tòa ở cấp xét xử thứ nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng cùng hồ

18


sơ vụ án hình sự sang tịa và kết thúc khi Tịa án ra quyết định, bản án có hiệu lực
pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị.

Khái niệm THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để buộc tội người đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu bị
truy tố tại phiên tòa ở cấp xét xử thứ nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản
cáo trạng cùng hồ sơ vụ án hình sự sang tịa và kết thúc khi Tịa án ra quyết định,
bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị
1.1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở
hữu.
Quan hệ sở hữu mà một trong những quan hệ xã hội giữa người với với
trong quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Quyền sở hữu xuất
hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật thông qua các hoạt động kinh tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhất là Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân
sự năm 2005 thì quyền sở hữu là quyền cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Các quyền này luôn được pháp luật tôn trọng và
bảo vệ.
“Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ
bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi” [61, tr.5]. Các tội này được quy định
tại Chương XIV của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, gồm 13 tội được quy định từ
Điều 168 đến Điều 180, đó là các tội: Tội cướp tài sản (Điều 168), tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản (Điều 169), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), tội cướp giật tài
sản (Điều 171), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), tội trộm cắp tài sản
(Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 175), tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176), tội sử dụng trái
phép tài sản (Điều 177), tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178), tội

19



thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp (Điều 179), tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).
Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ vào tính chất của mục đích
phạm tội đã chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm: thứ nhất là nhóm các tội
có mục đích tư lợi (bao gồm 10 tội từ Điều 168 đến Điều 177), trong đó cần phân
biệt các tội có mục đích chiếm đoạt (Điều 168, Điều 169, Điều 170, Điều 171, Điều
172, Điều 173, Điều 174 và Điều 175) và các tội không có mục đích chiếm đoạt
(Điều 176, Điều 177) và thứ hai là nhóm các tội khơng có mục đích tư lợi (gồm 03
tội Điều 178, Điều 179 và Điều 180).
Khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, trước
hết phải nắm vững các đặc điểm pháp lý đặc trưng của nhóm tội này (căn cứ vào
bốn yếu tố cấu thành tội phạm) như sau:
- Về khách thể của tội phạm: Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội
phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [60, tr.78].
Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ ấy được gọi khách thể chung được quy
định tại Điều 8 của BLHS, khách thể loại được quy định tại các chương phần các tội
phạm cụ thể trong đó có quan hệ sở hữu được quy định tại Chương XVI. Theo quy
định tại Điều 158 của BLDS thì quyền sở hữu gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt tài sản. Đối tượng tác động thuộc khách thể của các tội
xâm phạm sở hữu là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác (không phải là
tài sản của người phạm tội) nhưng khơng phải cứ là tài sản thì là đối tượng tác động
của tội xâm phạm sở hữu. Mà tài sản đó bị hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu tác
động và qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu được luật
hình sự bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu
là những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản đó, trong sự
chiếm hữu, quản lý của chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người quản lý tài sản. Về
nguyên tắc, các tài sản này phải là những tài sản hợp pháp của chủ sở hữu, bao
gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản [Điều
105 Bộ luật dân sự].


20


- Về mặt khách quan của tội phạm: Các tội xâm phạm về sở hữu có sự khác
nhau ở hình thức thể hiện hành vi, có thể thực hiện ở nhiều dạng khác nhau, các
hành vi đó đều có cùng tính chất là gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả
năng thực hiện quyền sở hữu của mình. Các hình thức thể hiện chủ yếu của tội xâm
phạm sở hữu đó là: hành vi chiếm đoạt; chiếm giữ trái phép; sử dụng trái phép; hủy
hoại, làm hư hỏng, mất mát, làm lãng phí tài sản.
Hậu quả của hành vi nói trên là những thiệt hại gây ra về quan hệ sở hữu,
thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất (tài sản bị mất). Đối với các tội: Cướp tài sản,
Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại bao gồm cả thiệt hại
về vật chất và thể chất (thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe, tinh thần).
- Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu là người
có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định, cụ thể: Người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà
Bộ luật hình sự có quy định khác; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại một trong các Điều 168, 170, 171, 173, 178 Bộ luật hình sự.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện các tội xâm phạm sở hữu
chủ yếu là lỗi cố ý, người thực hiện hành vi muốn chiếm đoạt tài sản của người
khác, biết tài sản muốn chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn
muốn chiếm đoạt, biến tài sản đó thành tài sản của mình. Bên cạnh đó, vẫn có
trường hợp phạm tội với với lỗi vô ý.
Khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với các vụ án xâm phạm sở
hữu tại phiên tòa, Kiểm sát viên cần nắm vững những dấu hiệu pháp lý đặc trưng,
đặc điểm riêng biệt để phân biệt các tội phạm thuộc nhóm xâm phạm sở hữu trong
quá trình xét hỏi, tranh luận để tránh được sự nhầm lẫn giữa các tội danh. Để làm
được điều đó, q trình xét hỏi, Kiểm sát viên cần làm rõ các biểu hiện của hành vi

chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội

21


gây ra, định giá tài sản, thiệt hại về tài sản, việc bồi thường thiệt hại, có tính chất
chun nghiệp hay khơng,...
Biểu hiện của mục đích chiếm đoạt: Mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc
trong cấu thành các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt. Tùy từng tội cụ
thể, mục đích chiếm đoạt khác nhau có biểu hiện khác nhau, có thể xuất hiện trước,
trong hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Đối với các tội có cấu thành hình
thức thì mục đích chiếm đoạt thường xuất hiện trước hoặc trong khi thực hiện hành
vi phạm tội. Đặc biệt, mục đích chiếm đoạt phải gắn liền với các hành vi dùng thủ
đoạn gian dối hoặc bỏ trốn thì người chiếm đoạt tài sản sẽ trở thành người phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp mục đích chiếm đoạt có trước hoặc vào
thời điểm nhận tài sản qua hợp đồng, còn mục đích xuất hiện sau khi nhận tài sản
thì người chiếm đoạt phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Biểu hiện của hành vi chiếm đoạt: Hành vi làm cho người có quyền chiếm
hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu của
mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện quyền sở hữu tài sản đó thì được
coi là hành vi chiếm đoạt. Về bản chất, quá trình này khơng làm cho người có
quyền sở hữu mất tài sản (về vật chất) mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện
các quyền cụ thể của quyền sở hữu (về pháp lý). Để xác định hành vi chiếm đoạt có
trái pháp luật hay khơng, cần phải xác định việc chiếm hữu đó có thuộc các trường
hợp chiếm hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật dân sự hay khơng.
Việc xác định hành vi có tính chất chiếm đoạt đối với các tội có dấu hiệu
chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của các tội xâm phạm quyền sở hữu một cách
chính xác, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn
thành. Tùy vào từng tội xâm phạm quyền sở hữu cụ thể mà thời điểm hoàn thành
của tội phạm là khác nhau. Ngoài ra, khi xem xét thời điểm hoàn thành của tội

phạm cần có sự phân biệt giữa thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội
phạm kết thúc.
Việc nhận thức đúng các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm
sở hữu, cách phân loại giúp cho việc xác định đúng tội danh, tránh được sự nhầm

22


lẫn giữa các tội danh. Đặc biệt đối với Kiểm sát viên trong quá trình xét hỏi, tranh
luận để chứng minh tội phạm tại phiên tịa được chính xác, bảo đảm xử lý đúng
pháp luật, đúng người, đúng tội.
1.2.

Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu
1.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án xâm phạm sở hữu
Mục đích của tố tụng hình sự đặt ra yêu cầu mọi tội phạm xảy ra đều phải
được phát hiện và xử lý kịp thời theo quy định pháp luật. Về mặt ngun tắc, quyền
cơng tố phải được thực hiện khi có tội phạm xảy ra để chứng minh tội phạm, truy tố
người phạm tội ra tòa án để xét xử. THQCT là một trong những quy định pháp lý để
thực hiện quyền công tố, nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ về tội phạm như: tiếp
nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật
chứng; lấy lời khai người bị tạm giữ, người làm chứng, người liên quan; khởi tố vụ
án, bị can; ban hành cáo trạng, các hoạt động buộc tội tại phiên tòa. Đây là một
trong những nội dung thực hành quyền công tố, nhưng không phải tất cả các vụ án
đều được đưa ra xét xử trước Tòa án, nên phạm vi THQCT có thể bị triệt tiêu ở giai
đoạn tố tụng sớm hơn khi có quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can. Điều này
cho thấy, khi quyền cơng tố bị triệt tiêu thì việc THQCT khơng cịn.

Như vậy, phạm vi THQCT bắt đầu từ khi giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố cho đến khi kết thúc vụ án bằng bản án có hiệu lực pháp luật
hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
Phạm vi của THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu là
bắt đầu khi VKS chuyển hồ sơ, bản cáo trạng sang Tòa án và kết thúc khi Tịa án ra bản
án, quyết định có hiệu lực khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án xâm phạm sở hữu
THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là biểu hiện tập trung, rõ nét nhất
của quyền công tố, kể cả đối với các vụ án xâm phạm sở hữu. Tại phiên tòa, KSV

23


THQCT là đại diện VKSND thực hiện nhiệm vụ thay mặt quyền lực cơng (nhà
nước) chính thức cơng bố cơng khai sự buộc tội của nhà nước đối với bị cáo, đồng
thời bảo vệ sự buộc tội đó trước HĐXX và những người tham gia tố tụng tại phiên
tòa. Hoạt động này chỉ được tiến hành bởi VKSND, là cơ quan duy nhất đại diện
Nhà nước. Nhưng VKSND là tổ chức nên việc thông qua nhiệm vụ thực hiện buộc
tội bị cáo tại phiên tịa khơng thể tất cả người của VKSND hoặc ai cũng được mà
phải do VKSND quyết định cử (phân công) người đại diện cho tổ chức mình thực
hiện nhiệm vụ ấy, đó chính là Kiểm sát viên. Để thực hiện chức năng THQCT trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm, Luật Tổ chức VKSND, BLTTHS quy định cho VKSND
một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền chỉ có
VKS mới thực hiện được, đó là cơng bố sự buộc tội bị cáo trước tòa bằng bản cáo
trạng và bảo vệ cáo trạng bằng luận tội, do đó phải có KSV tham gia phiên tòa với
vai trò là bên buộc tội.
Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS thì KSV THQCT tại
phiên tịa bằng các hoạt động: Cơng bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ
tục rút rọn, các quyết định khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án; Xét hỏi để

làm rõ tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải
quyết đúng đắn vụ án; Thực hiện việc luận tội; Tranh luận với bị cáo, bị hại, nhân
chứng, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút rọn, các quyết
định khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án;
Điều 306 BLTTHS quy định: “Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên
cơng bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung khơng
được làm xấu đi tình trạng của bị cáo” [35, tr 265].
Theo quy định tại Điều 23 Quy chế thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét
xử hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của
Viện trưởng VKSND tối cao (gọi tắt là Quy chế 505) thì Kiểm sát viên phải đọc,
công bố nguyên văn bản cáo trạng. Ngun văn khơng có nghĩa là đọc tồn bộ dấu
chấm, phẩy, nơi nhận của văn bản mà nguyên văn là nguyên văn nội dung. Nếu cáo

24


trạng nhiều trang, KSV cần phải nghiên cứu, phải đọc trước. Tại phiên tịa, khi cơng
bố, KSV phải đứng thẳng, có khoảng nhìn lên, quan sát thái độ bị cáo, người tham
dự phiên tịa, khơng được “chỉ nhìn vào văn bản”, giọng đọc cần rõ ràng, mạch lạc,
không ngọng, lắp, vấp và phải có điểm nhấn tại các phần như kết luận, quyết định;
có ngắt câu, có thể bố trí lại dấu chấm, phẩy mà không làm mất đi hoặc sai lệch nội
dung; đối với những từ ngữ la tinh, nước ngoài, chữ viết tắt cần phiên âm ra tiếng
việt khi đọc, ví dụ: chất heroin = chất hê-rơ-in; Methamfetamine = mê-tham-phê-tamin; Công ty THHH = Công ty trách nhiệm hữu hạn …
Đối với vụ án có nhiều Kiểm sát viên THQCT tại phiên tịa thì cần có sự
phân cơng cụ thể KSV công bố Bản cáo trạng, nên tự giới thiệu họ tên trước khi đọc
và nói đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc khi đã công bố xong Cáo trạng.
Sau khi công bố bản cáo trạng, KSV có thể trình bày ý kiến bổ sung nhưng chỉ để
làm rõ, bổ sung thêm nội dung của bản cáo trạng mà không làm thay đổi nội dung
bản cáo trạng, khơng được làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Thực tiễn thấy rằng

KSV thường phát biểu về các tình tiết, nội dung có lợi cho người bị buộc tội (bị
cáo) như bị cáo đã bồi thường, đã hợp tác với cơ quan điều tra tố giác đồng phạm,
người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do chuyển biến chính sách pháp
luật, nên hành vi của bị cáo phạm vào Điều luật nhẹ hơn…
- Xét hỏi để làm rõ tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án;
Khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, Kiểm
sát viên kiểm chứng, chứng minh sự buộc tội của VKS bằng việc xét hỏi bị cáo, bị
hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định;
xem xét, đối chiếu tài liệu của các cơ quan chuyên môn, xem xét vật chứng...để bảo
đảm rằng sự buộc tội là có căn cứ, các chứng cứ được thu thập ở các giai đoạn trước
đó là hợp pháp, khách quan và có liên quan đến vụ án nên cần phải được kiểm
chứng cơng khai để chứng minh tại Tịa án là đúng với nội dung bản cáo trạng đã
truy tố; đảm bảo các hành vi phạm tội phải được phát hiện xử lý, không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

25


Xét hỏi của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là việc KSV trực tiếp
xét hỏi bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, xem xét tại
chỗ, nhận xét và hỏi thêm những vấn đề có liên quan để xem xét, đánh giá chứng
cứ; các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm xác định
sự thật khách quan của vụ án. Việc xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện theo các
Điều 307, 308, 309, 310, 311, 312, 313, 314, 315, 316, 317, 318 BLTTHS năm
2015.
Phạm vi xét hỏi của KSV đối với những người nêu trên bao gồm mọi khía
cạnh liên quan đến vụ án, đó là: Những chứng cứ, tình tiết xác định có tội và vơ tội,
những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhân thân bị
cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội... đặc biệt, KSV cần chú ý hỏi để làm rõ

những dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt các tội danh thuộc nhóm xâm phạm
sở hữu ví dụ như cần làm rõ dấu hiệu đe dọa dùng vũ lực thì trong điều kiện hồn
cảnh đó có diễn ra ngay tức khắc khơng, có làm bị hại tê liệt ý chí kháng cự khơng
để phân định giữa tội cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản hoặc để làm rõ thủ đoạn
gian dối của bị cáo có trước hay sau khi nhận tài sản để phân định giữa tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc ngay sau khi trộm
tài sản mà bị phát hiện thì người phạm tội đã có hành vi chống trả người bắt giữ, khi
đó cần làm rõ mục đích chống trả làm nhằm tẩu thốt hay nhằm chiếm đoạt tài sản
để phân định có việc chuyển hóa tội danh từ trộm cắp tài sản thành tội cướp hay
không … Kết quả xét hỏi là cơ sở để HĐXX, KSV, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự xác định đủ căn cứ để kết tội bị cáo hay khơng. Nếu có thì
bị cáo phạm tội gì, theo quy định tại khoản, điều nào của Bộ luật hình sự, hình phạt
nào áp dụng đối với bị cáo, có thể áp dụng biện pháp tư pháp cũng như buộc bị cáo
và người có liên quan bồi thường cho bị hại hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan.
Sau khi xét hỏi, nếu việc buộc tội có căn cứ thì Kiểm sát viên bảo vệ cáo
trạng bằng luận tội; nếu việc buộc tội khơng chính xác tội danh thì tùy trường hợp
mà thay đổi tội danh bằng hoặc nhẹ hơn hoặc đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ để

26


điều tra bổ sung về tội danh nặng hơn cáo trạng truy tố; còn nếu xét thấy việc buộc
tội là khơng có căn cứ thì Kiểm sát viên có quyền rút quyết định truy tố.
- Thực hiện việc luận tội;
Luận tội là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VSKND khi THQCT
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm do KSV trực tiếp thực hiện ngay sau khi kết thúc
phần xét hỏi, mở đầu phần tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Vậy, “Luận tội” là gì, theo tác giả “Luận” có nghĩa “bàn luận”, “bình luận” trao đổi,
phân tích và nhận định về tình hình, vấn đề nào đó, dựa vào lý lẽ, ý nghĩa mà suy ra.

Còn “tội” trong quy định “luận tội” của BLTTHS có nghĩa là tội trạng của bị cáo,
người phạm tội. Do đó, “Luận tội” là “bàn luận về hành vi phạm tội của bị cáo tại
phiên tòa”, để từ đó KSV căn cứ đề nghị mức án cho phù hợp, giúp HĐXX có căn
cứ ra bản án, quyết định đúng quy định của pháp luật.
Luận tội luôn là một vấn đề được quan tâm không chỉ đối với cán bộ, KSV
Ngành Kiểm sát mà còn đối với cả các cơ quan tư pháp, thậm trí là với cả các cơ
quan truyền thông và dư luận xã hội. Bởi nội dung luận tội ln thể hiện xúc tích
nhất những đánh giá, nhận định, quan điểm xử lý đối với vụ án của VKS. Nếu luận
tội có chất lượng khơng những thể hiện được trình độ nghiệp vụ của cá nhân KSV
mà còn thể hiện được vai trò, vị thế của Ngành Kiểm sát trong cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm. Vì vậy, để có được một luận tội có chất lượng thì KSV cần
phải có kỹ năng để xây dựng một bản Dự thảo luận tội thật toàn diện. Xây dựng Dự
thảo luận tội là một trong những hoạt động thể hiện thao tác nghiệp vụ mà KSV
phải làm để chuẩn bị cho việc THQCT tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Dự thảo luận tội được KSV thực hiện trong giai đoạn truy tố và có thể được chỉnh
sửa, bổ sung tùy theo diễn biến tại phiên tòa, đến trước khi thực hiện việc luận tội
tại phiên tòa.
Tại phiên tòa, Luận tội phải phân tích đánh giá các tài liệu, vật chứng được
thu thập, xác minh trong quá trình điều tra vụ án đúng trình tự, thủ tục tố tụng,
khách quan và liên quan đến vụ án để khẳng định các tài liệu, vật chứng đó là chứng
cứ và có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội. Việc phân tích, đánh giá các

27


chứng cứ phải toàn diện, đầy đủ để xác định bị cáo có tội hay khơng có tội, phân
tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nguyên
nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và các yếu tố khác có ý nghĩa cho việc
giải quyết đúng đắn vụ án; có thể nói luận tội là biện pháp bảo vệ cáo trạng VKS đã

truy tố nên KSV phải phân tích, đánh giá chứng cứ, viện dẫn các chứng cứ đã được
kiểm tra công khai tại phiên tòa, đảm bảo sự buộc tội của VKS (bản cáo trạng) là có
căn cứ.
Luận tội của VKS là cơ sở tranh luận giữa VKS với bị cáo, người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố
tụng khác, đồng thời là căn cứ để các bên đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về
tồn bộ nội dung vụ án. Đây là giai đoạn đấu lý quan trọng nhất, giai đoạn làm việc
cực lực của Kiểm sát viên tại phiên tòa phải nên kiểm sát viên phải tập trung, nhạy
bén. Trên cơ sở luận tội, HĐXX sẽ xem xét, quyết định để đưa ra phán quyết đối
với toàn bộ vụ án và người phạm tội.
- Tranh luận với bị cáo, bị hại, nhân chứng, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác.
Đối đáp, tranh luận là một trong những nhiệm vụ quan trọng của KSV khi
THQCT tại phiên tịa sơ thẩm hình sự. Để thực hiện tốt việc đối đáp, tranh luận tại
phiên tòa, KSV phải nhiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm ra những vấn đề còn mâu thuẫn,
những chứng cứ còn yếu, đặc biệt phải xem xét đến các chứng cứ buộc tội, gỡ tội
một cách đầy đủ, đảm bảo tính khách quan. Bên cạnh đó, KSV cịn cần phải xây
dựng kế hoạch xét hỏi gắn liền với kế hoạch tranh luận, dự kiến các tình huống có
thể xảy ra để chuẩn bị các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật
còn hiệu lực phục vụ tốt cho dự thảo nội dung tranh luận.
Tại phiên tịa, KSV phải tích cực tham gia xét hỏi để đấu tranh làm rõ
những chứng cứ, tình tiết chưa rõ nhưng cũng phải tập trung cao độ để theo dõi, ghi
chép đầy đủ các câu hỏi của Hội đồng xét xử, người bào chữa, các câu trả lời của bị
cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để phán đoán hướng bào chữa; từ

28


đó bổ sung vào dự thảo những ý kiến đối đáp, tranh luận. Nội dung đối đáp, tranh
luận của KSV tại phiên tòa phụ thuộc vào nội dung lời bào chữa của người bào

chữa, của bị cáo, bị hại… Khi đối đáp, tranh luận, KSV phải vận dụng, tổng hợp
những hiểu biết, kiến thức của mình về Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và
các văn bản pháp luật liên quan như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND
tối cao, Thơng tư, Nghị định của Chính phủ, Liên ngành Trung ương … để xác định
chính xác tội danh, điều, khoản áp dụng hình phạt, trách nhiệm dân sự,… Trên cơ
sở các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã
được xét hỏi cơng khai tại phiên tịa, KSV phải đối đáp, tranh luận với người bào
chữa, bị cáo, bị hại những người tham gia tố tụng khác nhằm chứng minh luận điểm
của VKS là có căn cứ, đúng quy định để bác bỏ những luận điểm không đúng,
không đầy đủ, không trung thực của bị cáo, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác ...
- Kháng nghị phúc thẩm:
Sau khi việc tranh luận kết thúc, bị cáo nói lời sau cùng Hội đồng xét xử sẽ
tiến hành nghị án để tuyên bản án sơ thẩm đối với các bị cáo. Tuy nhiên, việc xét xử
của Hội đồng xét xử khơng phải lúc nào cũng đúng, khó tránh khỏi những thiếu sót,
sai lầm khơng khắc phục được, gây nên tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để
tránh những thiếu sót, sai lầm ấy thì cần thiết phải đảm bảo quyền “chống án” của
“bên buộc tội” và “bên gỡ tội” nên việc ra đời chế định kháng nghị phúc thẩm là
cần thiết. Vì vậy, Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014, điểm c khoản 1 Điều
266 BLTTHS năm 2015 quy định khi THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự,
VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong
trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội”.

Theo tác giả Trần Thị Minh Ngọc: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền
năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho Viện kiểm sát các cấp thực hiện
thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Tồ án
cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông qua việc kháng nghị phúc

29



thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời nhằm khắc phục
các vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tồ
án chưa có hiệu lực pháp luật” [28, tr24].
Khi thực hiện chức năng THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự,
VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan,
sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Theo tác giả Trần Thị Quỳnh Anh: khái niệm “oan” có thể được hiểu là
“Trường hợp khơng có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, do bị
vu cáo, dựng vụ án giả hoặc hành vi do người khác thực hiện, nhưng một người vẫn
bị điều tra, truy tố, xét xử và kết tội”. Khái niệm về “sai” có thể được hiểu là trường
hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình
sự một cách khơng khách quan, khơng đầy đủ, trái với những quy định của pháp
luật. Việc để xảy ra sai trong xét xử vụ án hình sự với các biểu hiện như việc áp
dụng pháp luật hình thức, pháp luật nội dung không đúng, không đầy đủ, khơng
khách quan, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với một người phạm tội chưa chính xác [2, tr25].
Bỏ lọt tội phạm, người phạm tội: là trường hợp VKS truy tố người có hành
vi phạm tội nhưng vì lý do nào đó, Tịa án lại cho rằng khơng có sự việc phạm tội
hoặc người bị truy tố không phạm tội (bỏ lọt) và không bị một chế tài nào trừng
phạt mà vẫn “nhởn nhơ” ngồi vịng pháp luật.
Tồn bộ nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm
sở hữu chính là việc Kiểm sát viên, đại diện cho VKSND thực hiện tổng hợp các
quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để thực hiện buộc
tội người phạm tội xâm phạm sở hữu tại phiên tòa ở cấp xét xử thứ nhất.

30


Tiểu kết Chương 1

Q trình phát triển và hồn thiện chế định quyền công tố gắn liền với bản
chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, gắn
với điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người của mỗi quốc
gia, bộ máy nhà nước được thiết lập khác nhau. Do đó, quyền cơng tố, THQCT
cũng có sự khác biệt nhất định.
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS
đối với người phạm tội, quyền này được Nhà nước giao cho cơ quan VKS để phát
hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. THQCT là chức năng của
VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự. Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ được thu thập, VKS xác định tội phạm và người
phạm tội, quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tồ án và bảo vệ quyết định
truy tố tội đó trước phiên toà.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm của q trình tố tụng, có ý
nghĩa rất quan trọng, quyết định thành quả các hoạt động tố tụng trước đó nên khi
THQCT này, VKS phải sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để buộc tội người phạm tội tại phiên tịa ở cấp xét xử thứ nhất. Q
trình này, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố
(theo thủ tục rút gọn) cùng hồ sơ vụ án hình sự sang tịa và kết thúc khi Tòa án ra
quyết định, bản án hoặc quyết định đình chỉ có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng
cáo kháng nghị. Để thực hiện tốt công tác THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án xâm phạm sở hữu cần phải xác định rõ: Tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền sở hữu được nhà nước
thừa nhận. Nhận dạng đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu thông qua việc nghiên
cứu cấu thành tội phạm của nhóm tội này, điểm đặc trưng riêng biệt của tội này với
tội khác để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố.

31



×