Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

(Luận văn thạc sĩ) ĐỊNH tội DANH tội HIẾP dâm NGƯỜI dưới 16 TUỔI từ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ MỸ

ĐỊNH TỘI DANH TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM

Hà Nội, năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI
DANH TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ...................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận về định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi .............. 7
1.2 . Định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. .................................... 20
1.3 Phân biệt dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với
một số tội phạm khác có dấu hiệu pháp lý tương đồng hoặc ly lai................. 36
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI HIẾP DÂM
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG ......... 41
2.1. Tổng quan tình hình định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2016 đến năm 2020............................. 41
2.2. Thực trạng định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi của Cơ


quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử. ............................................................................... 46
Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẦM BẢO ĐẢM ĐỊNH
TỘI DANH ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI ............................................................................................................... 61
3.1. Giải pháp .................................................................................................. 61
3.2. Một số kiến nghị về hướng dẫn áp dụng pháp luật nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao chất lượng hiệu quả định tội danh Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi. .......................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐỊNH TỘI DANH TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
1.1. Cơ sở lý luận về định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh
1.1.1.1. Khái niệm của việc định tội danh
Định tội danh là vấn đề được cả người làm công tác thực tiễn cũng như
làm công tác nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, khái niệm định tội danh vô
cùng phong phú, mỗi khái niệm tập trung khai thác các tiêu chí khác nhau
nhưng dù thế nào thì khái niệm định tội danh cũng cùng chung mục đích là
làm sao định tội một hành vi được cho là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm theo đúng tội danh đã được quy định trong BLHS. Sau đây có thể viện
dẫn một số quan điểm khác nhau về khái niệm định tội danh.
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì “định tội danh là q trình
nhận thức lý luận có tính logic, là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên
cơ sở các chứng cứ các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án

hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do
Luật Hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan tức là đưa ra sự
đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá
thể hố và phân hố trách nhiệm hình sự một cách cơng minh, có căn cứ và
đúng pháp luật.” [9, tr 716].
Quan điểm trên đây đã khái quát được vấn đề định tội danh là gì và ý
nghĩa của việc định tội danh. Tuy nhiên, khái niệm này cịn dài, chưa mang
tính khái qt cao do đó việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn cịn có
những khó khăn nhất định.

7


+ Theo quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh: “định tội danh là một
dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới
chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể
của hành vi phạm tội được thực hiện nhận thức đúng nội dung quy định pháp
luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng với mối liên hệ tương
đồng giữa các dấu hiệu cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi
phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.” [34, tr
9-10]
Quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh về khái niệm định tội danh mang
tính khái quát cao, tập trung vào nội dung định tội danh do đó dễ hiểu, dễ
nhận thức hơn đặc biệt là đã làm rõ vấn đề định tội danh là gì? Cần phải có
phương pháp và phải trải qua các giai đoạn nhất định. Tuy nhiên khái niệm
này chưa đề cập đến mục đích và ý nghĩa của định tội danh.
+ Theo quan điểm của TS Dương Tuyết Miên: “định tội danh là hoạt
động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tồ án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp

luật để xác định một người có phạm tội hay khơng, nếu có phạm tội thì tội đó
là tội gì? Theo Điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là q trình
xác định tội danh cho hành vi nguy hiểm cho xã hội.” [3]
Quan điểm trên đây của TS Dương Tuyết Miên về khái niệm định tội
danh là ngắn gọn, dễ hiểu. Tuy nhiên, khái niệm này cịn đơn giản mang tính
thực tiễn chưa khái quát được các nội dung có liên quan đến định tội danh.
+ Theo Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội về định tội danh và
quyết định hình phạt thì: “định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nhằm cá biệt hoá các quy định của BLHS
vào từng trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể xảy ra được thực
hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của
hành vi được thực hiện và tình tiết khác của vụ án nhận thức đúng nội dung
8


quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và xác
định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định với
các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và các tình tiết khác của vụ án,
bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định” [23]
Quan điểm trên đây tương đối giống với quan điểm của GS.TS Võ
Khánh Vinh về định tội danh. Khái niệm này đã khái quát được nội dung của
định tội danh, căn cứ để định tội danh và yêu cầu khi định tội danh phải bằng
các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định. Tuy nhiên khái niệm
này cịn mang tính lý luận, tính khái qt chưa cao do đó việc nhận thức và
nắm vững cũng như áp dụng cịn gặp những khó khăn nhất định.
Từ sự nghiên cứu và phân tích một số quan điểm về khái niệm định tội
danh, chúng tôi thống nhất cao với quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm và quan
điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh. Theo đó, khái niệm định tội danh được hiểu
là: định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy

đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện nhận thức đúng nội
dung quy định pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng với mối
liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể
của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất
định, làm tiền đề cho việc cá thể hoá và phân hoá trách nhiệm hình sự.
1.1.1.2 Đặc điểm của định tội danh:
+ Định tội danh là hoạt động thực tiễn: Đây chính là việc CQĐT, VKS,
Toà án thực hiện các chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để
xác định người, pháp nhân đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi
là tội phạm. Hành vi phạm tội đó đã phạm vào tội phạm gì được quy định tại
điều, khoản nào của BLHS.

9


+ Định tội danh là hoạt động nhận thức: hoạt động nhận thức ở đây bao
gồm nhận thức về nội dung vụ án, các tình tiết liên quan đến vụ án cũng như
nhận thức các quy định của pháp luật có liên quan.
+ Định tội danh là q trình tư duy lơgic: q trình định tội danh là q
trình nhận thức. Việc nhận thức phải trên nguyên tắc tư duy lơgic. Nghĩa là,
đây là q trình nhận thức khách quan, đánh giá mọi vấn đề phải dựa trên quy
luật tự nhiên vốn có của nó.
+ Định tội danh mang tính khoa học, sáng tạo: định tội danh là việc các
chủ thể có thẩm quyền hoạt động độc lập dựa trên cơ sở tuân theo quy trình
chặt chẽ và theo trình tự thủ tục do pháp luật Tố tụng hình sự quy định.
1.1.1.3 Ý nghĩa của định tội danh.
- Định tội danh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là yêu cầu bắt buộc đối
với CQĐT, VKS, Toà án trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án
hình sự nói chung và các vụ án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng.
- Định tội danh đúng là thực hiện đúng chính sách hình sự của Đảng và

Nhà nước, thực hiện đúng ý chí của nhân dân. Góp phần bảo vệ cơng lý, bảo
vệ có hiệu quả quyền con người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân đồng thời góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
- Định tội danh đúng là cơ sở cho việc thực hiện các chế định tố tụng
khác trong khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, cụ thể như:
xác định đúng thẩm quyền, là căn cứ để áp dụng đúng các biện pháp ngăn
chặn, các biện pháp cưỡng chế và xác định đúng thời hạn trong tố tụng.
- Ngoài ra định tội danh đúng cịn có ý nghĩa trong tổ chức thi hành án,
giúp cho cơng tác thống kê xác định chính xác tình hình tội phạm để từ đó có
cơ sở đánh giá đúng diễn biến tội phạm và đề ra biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn hợp lý.

10


- Đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm việc định
tội danh đúng sẽ là yếu tố cấu thành niềm tin nội tâm trong quá trình áp dụng
pháp luật hình sự, nâng cao uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Đối với công dân, định tội danh đúng tức là công lý được thực thi là
biện pháp thuyết phục hữu hiệu nhất để người dân nghiêm chỉnh chấp hình
pháp luật có hiệu quả.
- Đối với người phạm tội, định tội danh đúng giúp cho họ nhận thấy tính
cơng bằng của các biện pháp áp dụng với mình, hình thành cho họ ý thức phải
chấp hành các biện pháp đó và cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội.
- Đối với hoạt động định tội danh sai: định tội danh sai sẽ dẫn đến một
loạt các hậu quả tiêu cực như: dẫn đến việc quyết định hình phạt khơng chính
xác, khơng cơng bằng, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt tội
phạm, xâm phạm đến danh dự nhân phẩm quyền con người và quyền công
dân. Mặt khác, định tội danh sai dẫn đến việc kháng cáo, kháng nghị kéo dài

thời hạn giải quyết vụ án và có thể gây ra trường hợp khiếu nại, tố cáo gây ra
bức xúc trong quần chúng nhân dân làm giảm uy tín của các cơ quan bảo vệ
pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể và các giai đoạn định tội danh Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi
1.1.2.1. Khái niệm định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Định tội danh nói chung là q trình hoạt động có tính tư duy lôgic, khoa
học và sáng tạo, định tội danh chính là việc đánh giá, xem xét và đối chiếu sự
phù hợp giữa hành vi tội phạm xảy ra trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội
phạm trong nội dung của từng điều luật cụ thể để xem xét có thoả mãn hay
khơng thoả mãn để từ đó có cách giải quyết phù hợp đưa ra hình phạt tương
ứng với mức độ hành vi phạm tội.
Tại Điều 142 BLHS, quy định chi tiết Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
cụ thể như sau: người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực
11


hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn
khác (Đây là dấu hiệu bắt buộc nếu nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi, tuy nhiên nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì hành vi trên khơng phải là
dấu hiệu bắt buộc), nhằm mục đích giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
khác trái với ý muốn của nạn nhân (thái độ của nạn nhân trên chỉ áp dụng đối
với nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, cịn nạn nhân dưới 13
tuổi thì dù trái ý muốn hay thuận tình đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm Tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi). Như vậy, việc định tội danh Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi tương tự như việc định tội danh một số loại tội phạm khác,
đó cũng là q trình hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng sử dụng các
quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cũng như các quy
định của pháp luật có liên quan từ việc đánh giá sự phù hợp giữa hành vi
khách quan của người phạm tội có thoả mãn các yếu tố cấu thành các Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 BLHS hay khơng, trên cơ
sở đó đưa ra nhận định chính xác về tội danh cũng như mức hình phạt mà
người thực hiện hành vi phải gánh chịu.
Như vậy: định tội danh Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi được hiểu là
các chủ thể có thẩm quyền trong q trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình đã áp dụng quá trình áp dụng pháp luật để nhận thức sự phù hợp giữa
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành
cụ thể của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142
BLHS để xác định chính xác hành vi nguy hiểm đó có phạm Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi hay khơng để từ đó buộc người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà họ gây ra.
1.1.2.2. Đặc điểm định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Một là: Hoạt động định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật. Hoạt động thực tiễn này phải đảm bảo đúng

12


nguyên tắc, đúng quy trình, chuẩn xác để đảm bảo việc định tội danh đúng,
tránh tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm trong thực tiễn.
Hai là, định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hoạt động có
tính tư duy lơgic, được tiến hành bởi CQĐT, VKS, Toà án và một số cơ quan
khác theo quy định của pháp luật. Tính tư duy lơgic được hiểu là các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành hoạt động xem xét, phân tích, đánh
giá, so sánh, đối chiếu với các dấu hiệu cấu thành của Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi.
1.1.2.3 Chủ thể định tội danh tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Hoạt động định tội danh là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai
đoạn tố tụng hình sự. Từ khi giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị
khởi tố đến giai đoạn khởi tố, truy tố và xét xử (các cấp xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án hình sự).
Định tội danh được bắt đầu từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố. Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra đối với Cơ quan điều tra và Cơ quan khác
có thẩm quyền điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên,
Chuyên viên đối với Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân đối với Tòa án qua nhiệm vụ quyền hạn của mình khi phát
hiện có các dấu hiệu tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ
án phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố và điều khoản của Bộ luật hình sự
được áp dụng.
Trong quá trình điều tra vụ án nếu Cơ quan điều tra thấy đủ căn cứ để
xác định một người, hoặc một pháp nhân đã thực hiện hành vi phạm tội thì ra
Quyết định khởi tố bị can đối với cá nhân hoặc pháp nhân đó. Trong quyết
định khởi tố bị can phải ghi rõ khởi tố về tội gì áp dụng Điều khoản nào của
Bộ luật hình sự. Kết thúc điều tra Cơ quan điều tra phải có Bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố bị can ở khoản nào điều nào của Bộ luật hình sự.
13


Trong giai đoạn truy tố, sau khi nhận được Bản kết luận điều tra và hồ sơ
vụ án của Cơ quan điều tra đề nghị truy tố, Viện kiểm sát xem xét toàn bộ tài
liệu chứng cứ cùng như quá trình tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra đúng
quy định của pháp luật thì ra Quyết định truy tố bằng Bản Cáo trạng, nội dung
cáo trạng thể hiện rất rõ truy tố bị can ở điểm nào, khoản nào, Điều nào của
Bộ luật hình sự.
Trong giai đoạn xét xử, ngay say khi nhận hồ sơ vụ án và Cáo trạng của
Viện kiểm sát truy tố, Thẩm phán được phân công thụ lý hồ sơ phải nghiên
cứu Bản cáo trạng và toàn bộ chứng cứ cùng như xem xét tiến hành tố tụng
của Cơ quan điều tra cũng như Viện kiểm sát có đúng theo quy định của pháp
luật hay khơng? Để từ đó đưa ra các Quyết định: Quyết định đưa vụ án ra xét

xử hay Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay Quyết định tạm đình chỉ,
Quyết định đình chỉ. Tất cả các quyết định đưa ra của Thẩm phán đều căn cứ
vào việc định tội danh. Vấn đề định tội danh của Hội đồng xét xử thể hiện rất
rõ trang Bản án. Định tội danh trong Bản án có ý nghĩa rất lớn. Vì khơng ai có
thể bị coi là có tội và phải chịu hành phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật. Nội dung của Bản án thể hiện rất rõ bị cáo phạm
tội gì, điều, khoản, điểm nào của Bộ luật hình sự.
Trong giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm việc xem xét định
tội danh cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1.1.2.4 Các giai đoạn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Việc định tội danh Tội hiếp dâm dưới 16 tuổi phải trải qua các giai đoạn
sau đây.
Giai đoạn thứ 1:
Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội dựa vào các hành vi khách quan
của các chủ thể thực hiện hành vi.
Đối với giai đoạn này chủ thể tiến hành tố tụng phải tận dụng tối đa các
biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép kết hợp với kinh nghiệm, kỹ năng
14


nghề nghiệp, với kiến thức lý luận, thực tiễn, bám sát vào các văn bản quy
phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn đối với loại tội phạm này để đưa ra
kết luận hành vi khách quan đó có phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội hay
không, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội nhưng đã đến mức buộc phải truy
cứu trách nhiệm hình sự hay chỉ bị xử lý vi phạm hành chính.
Giai đoạn thứ 2:
Đối chiếu hành vi người phạm tội thực hiện đến mức buộc phải chịu
trách nhiệm hình sự với các dấu hiệu cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi quy định tại Điều 142 BLHS.
Sau khi xem xét chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người đủ năng lực

trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì tiếp tục đối
chiếu, so sánh một cách lôgic tư duy vật chất chặt chẽ với các dấu hiệu cấu
thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có thoả mãn hay khơng. Nếu đã thoả
mãn yếu tố cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì hành vi đó thoả
mãn khoản nào của Điều 142 BLHS.
Giai đoạn thứ 3:
Ban hành các văn bản pháp luật phát sinh sau khi xác định đúng tội danh
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, đúng chủ thể thực hiện hành vi.
1.1.3. Cơ sở pháp lí của việc định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
1.1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự
Các điều luật phần chung của BLHS quy định nhiệm vụ của Bộ luật, cơ
sở trách nhiệm hình sự; nguyên tắc xử lý, quy định hiệu lực áp dụng của
BLHS, quy định các chế định của pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm.
Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho người định tội lấy làm căn
cứ để thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật của mình.
Điều 142 BLHS năm 2015, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy
định như sau:
“Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
15


1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự
vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý
muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới
13 tuổi.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm:
a) Có tính chất loạn ln;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây rối loạn tâm thần
và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 20
năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Đối với người dưới 10 tuổi;
d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây rối loạn tâm thần
và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
16


4. Người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”
1.1.3.2. Các văn bản pháp luật khác có liên quan về định tội danh Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi.
Nghị quyết số 06/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao về việc “hướng dẫn áp dụng quy định từ Điều 141 đến Điều
147 BLHS và việc xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi”.
Theo quy định tại Điều 3, Điều 4 và Điều 6 của Nghị quyết. Về một số tình

tiết định tội, về một số tình tiết định khung và về nguyên tắc xử lý đối với
người phạm tội xâm hại tình dục đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
được quy định cụ thể như sau:
Điều 3. Về một số tình tiết định tội
1. Giao cấu quy định tại khoản 1 Điều 142 của BLHS là hành vi xâm
nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ
xâm nhập nào.
Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không
phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.
2. Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 142 của
BLHS là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng
bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân,
lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn
của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các
hành vi sau đây:
a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người
khác;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...),
dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người
khác…
17


7. Lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân quy định tại
khoản 1 Điều 142 của BLHS là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người
bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác:
a) Người bị hại khơng thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn,
bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến khơng thể chống cự được);
b) Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng

điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây
mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh
tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức,
khả năng điều khiển hành vi).
8. Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 142 của BLHS bao gồm các
thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê,
uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình
trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học,
đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác.
9. Trái với ý muốn của nạn nhân quy định tại điểm a khoản 1 Điều 142
của BLHS là người bị hại khơng đồng ý, phó mặc hoặc khơng có khả năng
biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý của người phạm
tội…
Điều 4. Về một số tình tiết định khung
1. Có tính chất loạn ln quy định tại điểm a khoản 2 Điều 142 của
BLHS là một trong các trường hợp sau đây:
a) Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em
cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;

18


b) Phạm tội đối với cơ ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu
ruột;
c) Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;
d) Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ
kế;
đ) Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.

2. Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 142 của
BLHS là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần
trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự.
3. Nhiều người hiếp một người quy định tại điểm b khoản 3 Điều 142
của BLHS là trường hợp 02 người trở lên hiếp dâm 01 người. Cũng được coi
là “nhiều người hiếp một người”, nếu có từ 02 người trở lên cùng bàn bạc,
thống nhất sẽ thay nhau hiếp dâm 01 người, nhưng vì lý do ngồi ý muốn mới
có 01 người thực hiện được hành vi hiếp dâm.
Không coi là “nhiều người hiếp một người”, nếu có từ 02 người trở lên
câu kết với nhau tổ chức, giúp sức cho 01 người hiếp dâm (trường hợp này là
đồng phạm).
Điều 6. Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội xâm hại tình dục
1. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình
sự.
2. Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm luân
thường, đạo đức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng nghề nghiệp, công
việc; xâm hại người dưới 13 tuổi.
3. Áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của BLHS và
các đạo luật khác có liên quan. Trong trường hợp cần thiết có thể cấm đảm
nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan đến người dưới 16 tuổi.

19


Trong thực tiễn điều tra truy tố xét xử các vụ án hiếp dâm người dưới 16
tuổi, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm được giao nhiệm vụ
giải quyết vụ án khi định tội danh trước hết phải căn cứ vào Điều 8, Điều 142
BLHS để xác định hành vi xảy ra có dấu hiệu của Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, thuộc khoản nào của Điều 142

BLHS. Tuy nhiên, khi định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thuộc
khung cơ bản (khoản 1), các khung tăng nặng của Điều 142 BLHS và khi
quyết định hình phạt đối với tội phạm này thì phải áp dụng các quy định của
Nghị quyết số 06/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao để bảo đảm việc định tội danh đúng không bỏ lọt tội phạm,
người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.2 . Định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
1.2.1. Định tội danh trong các trường hợp thông thường.
1.2.1.1. Xác định khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành
tội phạm cũng là dấu hiệu định tội. Khách thể của tội phạm là căn cứ pháp lý
quan trọng để xác định hành vi xảy ra có phạm tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi hay khơng. Nếu khơng có khách thể bị xâm hại thì khơng có cấu thành tội
phạm. Ngồi ra, khách thể của tội phạm còn là căn cứ để phân biệt các tội
phạm trong BLHS. Tuy nhiên, không phải bất kỳ quan hệ nào cũng được xem
là khách thể của tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội
phạm bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của Luật hình sự. Con người
với tư cách là chủ thể của quan hệ xã hội có thể trở thành đối tượng tác động
của tội phạm.

20


Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 Chương
XIV BLHS: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của
con người. Khách thể của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là quyền được bảo
vệ về thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, sự phát triển lành mạnh của trẻ

em. Hành vi xâm phạm đến các quyền được bảo vệ về thân thể, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, sự phát triển lành mạnh của trẻ em đều bị pháp luật
nghiêm cấm, xã hội lên án vì nó làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường
về tâm, sinh lý của trẻ em, trật tự xã hội, đi ngược lại thuần phong mỹ tục, văn
hoá của người Việt Nam để lại hậu quả xấu cho người bị hại và gia đình của
họ cũng như các hệ luỵ xấu khác cho xã hội.
Độ tuổi của nạn nhân là dấu hiệu bắt buộc phải chứng minh của cấu
thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên trong thực tế việc xác định
độ tuổi của người bị hại cũng là vấn đề khó khăn trong quá trình chứng minh
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xác định độ tuổi trước hết trên cơ sở
giấy Khai sinh đúng hạn, còn nếu giấy khai sinh quá hạn thì căn cứ vào Giấy
chứng sinh, trường hợp khơng có giấy khai sinh, giấy chứng sinh hoặc mất
những giấy tờ trên thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng tất cả các
biện pháp có thể có được để xác định tuổi thật của người bị hại.
1.2.1.2 Xác định mặt khách quan của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Tội phạm là thể thống nhất giữa các yếu tố thuộc mặt chủ quan và mặt
khách quan. Nếu mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm lý bên trong của
tội phạm thì mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan.
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi nguy
hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ giữa hành vi và
hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như: thời gian,
phương tiện, cơng cụ, hồn cảnh phạm tội…
21


Hành vi khách quan của tội phạm là những xử sự của con người được thể
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định, gây ra
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự

bảo vệ.
- Hành vi khách quan có những đặc điểm sau:
+ Hành vi khách quan của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi phải có tính
nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội được thể hiện ở việc hành vi phạm tội phải gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại cho các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ.
+ Hành vi khách quan của tội phạm phải là hoạt động có ý thức và có ý
chí của người phạm tội.
+ Hành vi khách quan của tội phạm phải là hành vi trái pháp luật hình
sự: Hành vi khách quan của tội phạm phải là những hành vi bị BLHS cấm và
quy định hành vi đó là tội phạm. Đặc điểm này xuất phát từ một trong những
nội dung của nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự và tính trái pháp luật của
tội phạm.
- Hành vi khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có thể thơng
qua các hình thức sau:
+ Hành động phạm tội: Là hình thức biểu hiện của hành vi phạm tội làm
biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại cho khách thể thông qua việc chủ thể đã làm một việc bị
pháp luật cấm.
+ Không hành động phạm tội: là hình thức biểu hiện của hành vi phạm
tội làm biến đối tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại
hoặc đe doạ gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể không làm một việc
mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
- Hành vi khách quan của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bao gồm các
hành vi cụ thể sau đây:
22


+ Hành vi dùng vũ lực: là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào
cơ thể của nạn nhân như trói tay, chân, bịp mồm, bóp cổ, đánh đấm, xô đẩy,

giữ, xé quần áo,… chủ yếu làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để người
phạm tội thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của bị hại.
+ Hành vi đe doạ dùng vũ lực: đây là hành vi của một người dùng lời nói
hoặc dùng hành động uy hiếp tinh thần của người dưới 16 tuổi, làm cho người
bị đe doạ sợ hãi như: doạ giết, doạ đánh, doạ bắn… làm cho người bị hại sợ
hãi để cho người phạm tội giao cấu trái ý muốn của mình. Khi định Tội danh
hiếp dâm người dưới 16 tuổi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm cần chú ý, thủ đoạn này phải đủ mạnh để làm tê liệt hồn tồn ý chí
kháng cự của người dưới 16 tuổi, làm nạn nhân sợ hãi phải để cho người
phạm tội giao cấu trái ý muốn của họ. Việc đánh giá hành vi đe doạ dùng vũ
lực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như hành vi của người phạm tội như thế
nào, mức độ quyết liệt của hành vi ra sao và tâm lý của bị hại lúc đó… mới có
đủ cơ sở để đánh giá.
+ Hành vi lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân là
trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng nếu như bị người khác giao cấu thì
khơng thể chống cự lại được. Tình trạng này, có thể do chính người phạm tội
gây ra cho nạn nhân để thực hiện việc giao cấu trái ý muốn của nạn nhân.
Cũng có trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng không thể tự vệ được do
những lý do khách quan khác không do người phạm tội gây ra cho nạn nhân,
nhưng người phạm tội đã lợi dụng tình trạng đó để giao cấu với nạn nhân trái
ý muốn của họ.
- Lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của người dưới 16 tuổi là
việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những
hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác:
+ Người bị hại khơng thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn,
bị ngất, bị trói, bị khuyết tật…dẫn đến không thể chống cự được);
23


+ Người bị hại bị hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều

khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê,
ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm
thần hoặc bị bệnh khác… dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả
năng điều khiển hành vi)
- Hành vi dùng thủ đoạn khác. Đây là quy định mở nhằm đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Hành vi dùng thủ đoạn khác như: đầu
độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia
hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả
năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi
biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác.
- Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới
hay khác giới tính sử dụng bộ phân sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví
dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận
sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập
nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
+ Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người
khác;
+ Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…),
dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu mơn của người
khác.
So với q trình sửa đổi bổ sung nội dung các Điều luật trong BLHS
nước ta qua các thời kì thì hành vi khách quan của Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi ngày càng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện thêm quy định về hành vi
khách quan trong cấu thành loại tội phạm này. Việc sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện quy định về hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm, giúp cho việc
24



nhận thức và áp dụng pháp luật của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Hội thẩm được thống nhất, dễ dàng và thuận tiện hơn chứ không làm bản chất
thay đổi.
- Hành vi giao cấu trái với ý muốn của người dưới 16 tuổi:
+ Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận
sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
+ Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không
phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.
- Trái với ý muốn của người dưới 16 tuổi: dấu hiệu trái ý muốn của
người dưới 16 tuổi là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng dấu
hiệu này chỉ có ý nghĩa đối với trường hợp người bị hại từ 13 tuổi trở lên, còn
đối với trường hợp người bị hại chưa đủ 13 tuổi thì dù trái ý muốn hay khơng,
người có hành vi giao cấu với họ đều là phạm tội. Việc nhà làm luật quy định
người dưới 13 tuổi nếu có đồng ý để người phạm tội thực hiện giao cấu thì
hành vi giao cấu này vẫn bị coi là hành vi phạm Tội hiếp dâm nguồi dưới 16
tuổi xuất phát từ luận điểm: người chưa đủ 13 tuổi là người chưa phát triển
đầy đủ về tâm sinh lý, chưa ý thức được hành vi, việc làm của mình, là nhóm
đối tượng dễ bị dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo nên cần được bảo vệ một cách đặc
biệt nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường, lạnh mạnh của các em và cần
trứng trị nghiêm khắc đối vời hành vi lạm dụng.
- Hậu quả của hành vi Hiếp dâm người dưới 16 tuổi chính là thiệt hại mà
người thực hiện hành vi gây ra cho nạn nhân. Về mặt thể chất: Là sự biến đổi
trạng thái bình thường của thực thể tự nhiên của con người (thân thể con
người). Thiệt hại về thể chất là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ do hành vi
phạm tội gây ra cho người bị hại. Thiệt hại phi vật chất: là những thiệt hại về
danh dự, nhân phẩm, tâm sinh lý của nạn nhân. Bởi vì nạn nhân là trẻ em nên
hậu quả của tội phạm này đặc biệt nghiêm trọng.

25



- Mối quan hệ nhân quả được hiểu là mối liên hệ giữa một hiện tượng là
hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội đóng vai trị là ngun nhân với
một hiện tượng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trị là kết quả. Hành
vi phạm tội xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian. Giữa
hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ
nội tại, tất yếu. Để quá trình định tội danh được đúng, tránh oan sai và tránh
bỏ lọt tội phạm. Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, để buộc một chủ
thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội đối với
hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải
chứng minh được hậu quả đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra.
1.2.1.3 Xác định mặt chủ thể của tội phạm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Chủ thể của tội phạm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là người có năng
lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cụ thể. Chủ thể của tội phạm là con người cụ
thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Chủ thể của tội phạm phải
là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự là hai dấu hiệu
bắt buộc của mọi chủ thể của tội phạm nói chung và hiếp dâm người dưới 16
tuổi nói riêng. Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội
phạm, với vai trị là người thực hiện hành vi được mơ tả trong mặt khách quan
của cấu thành tội phạm. Vì vậy, nếu khơng có chủ thể của tội phạm thì sẽ
khơng có hành vi khách quan của tội phạm, khơng có trạng thái tâm lý của
người thực hiện hành vi ấy và cũng khơng có quan hệ xã hội bị xâm hại hay
nói cách khác là khơng có chủ thể thì khơng có mặt khách quan, mặt chủ quan
của tội phạm và khơng có khách thể của tội phạm. Vì vậy việc xác định chính
xác đúng đắn vấn đề chủ thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định tội danh.

26



Bên cạnh hai dấu hiệu là tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách
nhiệm hình sự chủ thể của tội phạm cịn có các đặc điểm khác về xã hội, tâm
lý, sinh học (như: nghề nghiệp, giới tính, trình độ văn hố, thái độ làm việc,
quan hệ cộng đồng, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự,….) Nếu những
đặc điểm này có ý nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm
hình sự của người phạm tội thì tổng hợp những dấu hiệu đó trở thành dấu hiệu
nhân thân của người phạm tội. Một số dấu hiệu nhân thân người phạm tội
được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt như dấu hiệu “tái phạm nguy
hiểm”, một số dấu hiệu nhân thân của người phạm tội là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tái phạm, người
phạm tội là người già,…, nhân thân của người phạm tội là căn cứ quyết định
hình phạt, nhân thân của người phạm tội cũng là yếu tố để xét đến khi cân
nhắc các biện pháp xử lý hình sự đối với người phạm tội như áp dụng án treo,
áo dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ, áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS, áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa
thành niên phạm tội…Nhân thân của người phạm tội giúp ta xác định chính
xác lỗi, động cơ, mục đích của người phạm tội…
Dựa vào cấu thành của tội phạm của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là
bất cứ người nào đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm
hình sự đầy đủ đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều
12 BLHS tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Người từ
đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Bộ luật hình sự 2015 quy định mở rộng chủ thể thực hiện hành vi quan
hệ tình dục: BLHS năm 1885 và BLHS năm 1999 trước đây quy định chủ thể
thực hiện hành vi phạm Tội hiếp dâm được hiểu chỉ là nam giới, nữ giới
không thể nào trở thành chủ thể của Tội hiếp dâm thông thường bởi đi ngược

với bản chất của giao cấu. Nữ giới chỉ có thể trở thành chủ thể của Tội Hiếp
27


dâm trong trường hợp đồng phạm với vai trò là người giúp sức. Tuy nhiên,
BLHS năm 2015, do công nhận các hành vi quan hệ tình dục khác nên chủ thể
của Tội hiếp dâm nói chung và người dưới 16 tuổi nói riêng khơng chỉ là nam
giới mà cịn cả nữ giới. Như vậy, nữ giới cũng có thể trở thành chủ thể của tội
hiếp dâm trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, việc nữ giới dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng khơng thể tự vệ được của nam giới để thực hiện hành vi giao cấu hoặc
trái với ý muốn của họ là điều khó có thể xảy ra. Tuy nhiên hành vi dùng "thủ
đoạn khác" để giao cấu hoặc quan hệ tình dục trái với ý muốn của nạn nhân có thể
là hành vi được thực hiện bởi nữ giới. Ví dụ như cho nạn nhân uống thuốc kích
dục, ... Do đó trong trường hợp này thì hành vi của nữ giới có thể coi là tội phạm
và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, chủ thể là nữ giới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
hiếp dâm trong trường hợp đồng phạm. Dù khơng phải là người thực hành thì
nữ giới cũng có thể bị coi là phạm tội nếu có hành vi cố ý cùng thực hiện tội
hiếp dâm với vai trò là người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức.
1.2.1.4

Xác định mặt chủ quan của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Nếu mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngồi của tội
phạm, thì mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội liên quan đến việc thực hiện tội phạm. Trên thực tế mặt chủ quan
của tội phạm không tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn với mặt khách quan
của tội phạm, thể hiện sự liên kết thống nhất giữa hai mặt vấn đề tội phạm.
Mặt chủ quan của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là mặt bên trong của tội

phạm, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích. Trong đó lỗi là dấu hiệu bắt buộc
(dấu hiệu định tội). Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội là dấu hiệu định
tội trong cấu thành của loại tội phạm này.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vô ý. Về nguyên tắc, thái độ tâm lý của một người có thể được đặt ra
28


đối với bất cứ hành vi nào của con người. Tuy nhiên trong Luật Hình sự, lỗi chỉ
thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả
cho xã hội mà chúng được qui định trong cấu thành tội phạm chứ không phải đối
với bất cứ hành vi hậu quả nào mà người phạm tội đã thực hiện. Điều đó cũng có
nghĩa là lỗi bao giờ cũng đi liền với hành vi nguy hiểm cho xã hội và khơng thể
nói đến lỗi khi khơng có hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Khi phân tích lỗi thì bao gồm 2 yếu tố: lý trí và ý chí. Căn cứ vào đặc
điểm về lý trí và ý chí trong nội dung của lỗi, Luật hình sự Việt Nam chia lỗi
thành 2 loại: cố ý và vơ ý. Lỗi cố ý gồm hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý
gián tiếp. Lỗi vơ ý gồm 2 hình thức là lỗi vơ ý vì q tự tin và lỗi vơ ý vì cẩu
thả. Đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, người phạm tội thực hiện do lỗi
cố ý trực tiếp. Hình thức lỗi có ý nghĩa trong việc định tội danh cũng như ảnh
hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do đó mức độ
trách nhiệm hình sự cũng nghiêm khắc hơn. Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả xảy ra.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra kết luận về mặt chủ quan của
tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi như sau: Người thực hiện hành vi phạm tội
thực hiện hành vi với lỗi cố ý, ở cấu thành của tội phạm này khơng địi hỏi
dấu hiệu về mục đích, động cơ của hành vi phạm tội.

1.2.2 Định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong một số trường
hợp đặc biệt.
1.2.2.1 Định tội danh đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong trường
hợp phạm tội chưa đạt.
Tại Điều 15 Bộ luật hình sự: Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội
phạm nhưng khơng thực hiện được đến cùng vì những ngun nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm chưa đạt.
29


×