Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN LUẬT sư và đạo đức NGHỀ LUẬT sư (học phần đạo đức nghề luật sưkỳ thi chính)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.32 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN
ffl

LUẬT SƯ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ
(Học phần: Đạo đức nghề luật sư/Kỳ thi chính)

ĐỀ TÀI: Vấn đề “Văn hóa nghề nghiệp” của Luật sư
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Họ và tên: DƯƠNG THỊ NGỌC ĐIỆP
Sinh ngày: 27 tháng: 02 năm: 1985
06 Lớp:
Luật sư
Khóa: 23 tại:SBD:
tỉnh Sóc
Trăng

Sóc Trăng, ngày 07 tháng 9 năm 2021

1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN MỞ ĐẦU:...............................................trang 1
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
Chương I: TÌNH HÌNH THỰC TRẠNG VĂN HĨA NGHỀ NGHIỆP
CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM............'...........’............trang 2


Chương 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VĂN HÓA NGHỀ NGIỆP LUẬT
SƯ.................................................................................trang 7
PHẦN KẾT LUẬN............................................trang 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc đời thay đổi khi chúng ta biết thay đổi nắm bắt cơ hội nhưng làm
sao chúng ta nhận định được điều hay ý đẹp, vẻ đẹp bên ngoài chúng ta nhận
diện được nhưng vẻ đẹp tâm hồn thì bắt đầu từ đâu tất cả đều phát huy truyền
thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, gia đình và xã hội.
Khi bắt đầu cắp sách đến trường môn đầu tiên mà cô giáo dạy tôi là môn
Đạo đức, học làm người đi cái đã rồi hả học văn hóa học chữ. Cũng như tơi bắt
đầu các mơn học đào tạo nghề Luật sư thì mơn đầu tiên các giảng viên dạy cho
tôi là môn Luật sư và Đạo đức nghề Luật sư. Đề tài lần này tôi chọn nhìn đề đã
biết bao la rộng lớn viết bao nhiêu trang giấy cho đủ với nét đẹp văn hóa truyền
thống đây, nhưng tư liệu vơ cùng khan hiếm, người có lịng nhân ái bao la thì đề
tài này vơ bờ người có lịng hẹp hịi ít kĩ thì khát tài liệu để viết. Chọn đề tài này
để thấy sự nhẫn nại trong ta, khi tác nghiệp hành nghề cũng vậy, có quá nhiều
áp lực chúng ta đang gánh lấy nhưng cuối cùng tự mình vươn lên để tìm thấy
nét đẹp văn hóa nghề nghiệp tìm ẩn trong mỗi cá nhân tư tin với nghành nghề
mình đã chọn.
Cố lên tơi ơi. Nào chúng ta đi sâu vào tìm hiểu đề tài.


Phần I:
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngành nghề nào cũng có nét đẹp văn hóa, lao động thì có nét đẹp lao động,

họa sỹ thì nét đẹp nghệ thuật, nơng dân nét đẹp của những giọt mồ hôi vất vả,
công nhân nét đẹp quật cường là người lãnh đạo cách mạng, trí thức là biểu hiện
cho nét đẹp có văn hóa của giống nịi dân tộc. Vậy luật sư là tầng lớp trí thức,
bao gồm cả bác sĩ, kỹ sư... mà đã trí thức thì phải đi đơi với văn hóa, người có
văn hóa nghe rất sướng tai, nhưng khi người khác nói người này vơ văn hóa gần
như khơng có học thức, người này khơng có đạo đức là hầu như khơng có tình
người ln các bạn. Vậy nếu khơng có văn hóa trong nghề nghiệp Luật sư làm
sao tạo dựng được uy tín, uy tín là cái cơ bản nhất để tạo dựng hợp đồng, Luật
sư khơng có khách hàng khơng có hợp đồng thì cịn hành nghề làm gì nữa phải
không các bạn, học để cho vui.
Nghề luật sư là một nghề góp phần duy trì cơng lý, bảo vệ pháp luật và bảo
vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức; vì vậy địi hỏi người hành nghề luật sư
phải có chun mơn giỏi, đạo đức tốt, văn hóa pháp luật trong sáng, xứng đáng
với bản chất nghề nghiệp đã được nêu trong quy tắc đạo đức hành nghề luật luật
sư, nghề luật sư là nghề cao quý. Khi sinh thời Hồ Chí Minh cho rằng, văn hố
có tác dụng “sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây
xã hội mới”. Văn hố có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân 1.
Với nghề luật sư cũng vậy, khi luật sư tuân thủ luật pháp, tự giác chấp hành quy
tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp đạt chuẩn mực cao sẽ nâng tầm hoạt động nghề
nghiệp luật sư lên phạm trù văn hóa luật sư.
Văn hóa luật sư là sự chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý
của luật sư cho khách hàng trong sự tôn trọng và tin cậy của khách hàng đối với
luật sư, gắn kết giữa khách với luật sư cùng niềm tin vào cơng lý trong q trình
sử dụng, vận dụng và thực thi luật pháp. Khi có các rắc rối pháp lý hay có xung
đột với pháp luật, văn hóa pháp lý là việc các cá nhân, công dân, cơ quan,tổ
chức ( gọi chung là khách hàng) sẽ tìm đến với dịch vụ pháp lý của luật sư để
được cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, được bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, được dẫn đến nơi an toàn pháp lý, được biết điều phải trái theo luật định,
hạn chế được thiệt hại hoặc tránh được hậu quả đáng tiếc xảy ra hoặc trong
trường hợp nhất định cũng được phán xét, phán quyết một cách công khai, công

bằng, đảm bảo công lý.

4


Trong văn hóa pháp lý của nghề luật sư, luật sư là hiện thân của giá trị văn
hóa pháp lý kết tinh trên cấp độ cao của nền văn minh pháp quyền . Đó là
mộtthiết chế được sinh ra trong nhà nước pháp quyền, để đảm bảo thực hiện
quyền
tự do,dân chủ các quyền,lợi ích hợp pháp của cơng dân. Một trong chức năng
của nhà nước pháp quyền với những đảm bảo cung cấp dịch vụ pháp lý của luật
sư để các công dân thực hiện đúng pháp luật,sự phản biện,thậm chí đối trọng
chống lại sự bất cơng,sự lạm quyền,sự lạm dụng luật pháp hay bất cứ một cách
nào khác, từ phía nào khác,từ thế lực cơng hay tư xâm phạm đến quyền,lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, cơng dân, cơ quan, tổ chức là khách hàng của luật sư
theo Hiến pháp và pháp luật. Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư,
tổ chức hành nghề luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức theo quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự
do,dân chủ của công dân,quyền,lợi ích hợp pháp của cá nhân,cơ quan,tổ
chức,phát triển kinh tế - xã hội,xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng ... Luật sư được xác định là một chức
danh trong hệ thống các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, được cơng nhận theo
quy định của pháp luật,có tư cách pháp lý độc lập,có đủ tiêu chuẩn và điều kiện
để nghe và đạo đức nghề nghiệp nhằm bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của khách
hàng trước Tòa án, các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác theo quy định của
pháp luật.
Văn hóa pháp lý của luật sư là động lực phát triển nghề luật sự bởi lẽ luật
sư càng cố gắng trau dồi, phấn đấu thực hiện và đạt được các tiêu chí văn hóa
nghề nghiệp của mình thì càng được xã hội đánh giá cao, càng có nhiều khách

hàng đến với luật sư để nhờ cậy bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp cho mình, góp
phần phát triển nghề luật sư một cách bền vững; từ những lý lẽ trên em xin chọn
đề tài “Vấn đề “Văn hóa nghề nghiệp” của Luật sư Việt Nam - Thực trạng và
giải pháp” để nghiên cứu cũng như nêu lên thực trạng và giải pháp cho vấn đề
văn hóa luật sư của nước ta.
*Phương pháp để chúng ta đi sâu vào nghiên cứu tham luận
Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp sưu tầm các nguồn tài
liệu từ các sách, tài liệu có liên quan đến vấn đề quản lý Nhà nước về nghề luật
sư, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và các trang web liên quan.
Sau đó người viết sử dụng các phương pháp đánh giá, tìm hiểu, chọn lọc và tổng
hợp., để hồn thành đề tài.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
Chương I: TÌNH HÌNH THỰC
LUẬT SƯ VIỆT NAM

TRẠNG VĂN HÓA NGHỀ NGHIỆP CỦA

5


Trong thời gian gần đây nước ta xuất hiện nhiều cụm từ “Văn hóa nghề
nghiệp”, ở đây văn hóa gắn liền với nhiều loại hình văn hóa mặc tích cực và văn
hóa tiêu cực nhưng văn hóa là gì? Chúng ta đi tìm hiểu cơ bản về vấn đề văn
hóa:
1. Khái niệm về Văn hóa:
Văn hóa là sản phẩm thuộc về con người, do con người tạo ra. Chúng ta
cùng đi tìm hiểu kĩ hơn về khái niệm văn hóa là gì qua các mục dưới đây.
Nói chung, bàn về văn hóa là gì sẽ có phạm vi rất rộng. Vì vậy, trong bài
viết này, chúng ta sẽ chỉ giải thích nội dung này một cách dễ hiểu nhất về
khái niệm và những nội dung liên quan.

Có nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng phổ biến và được nhiều người cơng
nhận là văn hóa bao gồm tất cả những giá trị tinh thần và vật chất mà con
người tạo ra trong quá trình lao động, sinh sống thực tiễn suốt chiều dài
lịch sử. Qua văn hóa, người ta có thể đánh giá trình độ phát triển của xã hội
qua các thời kì lịch sử cụ thể.
Nói chung, hiểu một cách đơn giản như theo Hồ Chí Minh định nghĩa về
văn hóa như sau đại ý như sau vì con người cần phải sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống nên phát minh và sáng tạo ra chữ viết, ngôn ngữ,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo, khoa học cũng như văn học nghệ thuật, sáng
tạo ra các công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn ở, mặc cùng các phương thức
sử dụng. Tất cả những điều mà con người phát minh và sáng tạo ra chính là
văn hóa.
Như vậy, văn hóa do con người sáng tạo ra để phục vụ lợi ích của mình.
Văn hóa là của con người và được cộng đồng giữ gìn qua các thế hệ, được
dùng để phục vụ đời sống con người có tính lưu truyền và kế thừa từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
Nói cách khác khái niệm về văn hóa: Văn hóa hiện có nhiều khái niệm
khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống
và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Trong khái
niệm này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền
với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian
dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ qt, đồng thời có tính đặc thù
của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc.

6


Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi

người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày
vềmặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa”. Định nghĩa trên giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ
hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn
và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành
những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền
từ đời này qua đời khác thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi
cộng đồng, góp lại mà thành di sản văn hóa của tồn nhân loại. Cịn ở góc độ
khác người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương tác
giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do
con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn,
sử dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Từ những lập luận trên chúng ta có khái niệm chung về văn hóa là tất cả
những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn
hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên
quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Văn hóa bao
gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai
khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngơn ngữ, tư tưởng, giá trị và
các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía
cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa 2. Đối với loại
văn hóa phi vật thể gắn liền với đời sống chúng ta hiện hiện nay là pháp luật,
pháp luật đều chỉnh mọi mối quan hệ trong xã hội tạo nền tảng cho mọi hoạt
động trong đời sống; việc xử sự có văn hóa vơ hình chung là xử sự theo pháp
luật.
Có thể nói văn hóa pháp luật là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo cảu
con người trong lĩnh vực pháp luật, thể hiện thông qua xây dựng, giữ gìn những
giá trị pháp lý. Văn hóa pháp luật của cá nhân chính là trình độ ý thức pháp luật,

trình độ của mỗi các nhân hiểu biết và sử dụng pháp luật trong các hoạt động
thực tiển của mình. Văn hóa pháp luật của xã hội là toàn bộ lĩnh vực vật chất và
tinh thần của văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp lý trong các giai đoạn lịch sử.
văn hóa pháp luật xã hội là trạng thái và đặc thù của ý thức pháp luật, hệ thống
thơng tin pháp luật, trình độ phát triển của pháp luật, tình trạng pháp chế trong
xã hội. Đối với Nhà nước và xã hội, có văn hóa pháp luật nghề nghiệp, đạo đức
nghề nghiệp là một phần trong văn hóa pháp luật.
2. Tình hình thực trạng văn hóa nghề nghiệp Luật sư:
2

7


Văn hóa nghề thể hiện trên các gốc độ: nhận thức về nghề; thái độ đối với
nghề; hành vi ứng xử của con người cùng với nghề trong quá trình lao động,
sảnxuất mà rõ nét nhất là quan hệ người với người trong quá trình tổ chức lao
động
- xã hội. Văn hóa nghề là nền tảng, là tài sản qúy giá của người hành nghề mà
cốt lõi trong đó chính là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Nghề luật sư được xem là một nghề cao quý, vì vậy để điều chỉnh cách xử
sự văn hóa nghề nghiệp luật sư Nhà nước ta sớm ban hành nhiều chính sách, quy
tắc xử sự nghề nghiệp; quy tắc nghề luật sư được xem là thước đo văn hóa đối
với nghề luật sư của nước ta hiện nay. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 nêu một
nguyên tắc hành nghề luật sư là phải “tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp
luật sư”
Điều 2: Quy tắc bước đầu được thể hiện dưới hình thức những điều cấm
đối với luật sư:
1. Bào chữa cho các bị can, bị cáo hoặc bảo vệ cho các đương sự có
quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ án;
2. Cố tình cung cấp chứng cứ giả; xúi giục bị can, bị cáo, đương sự khai

sai sự thật hoặc khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo khơng có căn cứ;
3. Tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi
hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc quy tắc đạo đức
nghề
nghiệp luật sư, pháp luật có quy định khác;
4. Sách nhiễu khách hàng;
5. Nhận bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất nào khác từ khách hàng
ngoài khoản thù lao và chi phí mà văn phịng luật sư hoặc cơng ty luật hợp
danh
đã thỏa thuận với họ;
6. Thực hiện các hành vi khác vi phạm pháp luật”.
Tuy chưa có bộ quy tắc ứng xử nghề nghiệp cụ thể nhưng nghề luật sư
xem đây là tiêu chuẩn nghề nghiệp, là văn hóa nghề đối với tất cả các luật sư.
luật sư phải giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp; trong hành nghề phải độc
lập, trung thực và tận tụy; phải có cách ứng xử đúng mực và có văn hóa; phải
tích cực thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo... Luật sư phải
bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng, tích cực, khẩn trương giải quyết vụ việc
của khách hàng; phải từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý đối với yêu cầu vi phạm
pháp luật, trái đạo đức xã hội; phải giữ gìn bí mật cho khách hàng; không hứa
8


hẹn trước kết quả. Luật sư phải có thái độ lịch sự và tôn trọng các cơ quan tố
tụng và các cơ quan nhà nước; khơng móc nối, lơi kéo họ vào việc làm trái pháp
luật; không cung cấp chứng cứ sai sự thật. Luật sư phải tôn trọng và hợp tác
với thái độ thân ái, giúp đỡ đồng nghiệp; khơng xúc phạm hoặc hạ thấp uy tín
đồng nghiệp...

9



Căn cứ bản quy tắc, từng đoàn luật sư đã vận dụng mô phỏng nội dung
quy tắc mẫu của Bộ Tư pháp và bổ sung thêm một số chi tiết cần thiết. Chẳng
hạn bản quy tắc đạo đức của Đoàn Luật sư TP.HCM năm 2004 bổ sung thêm
một số quy tắc đạo đức như: “Luật sư không được tự quảng cáo hoặc nhờ người
khác quảng cáo sai sự thật hoặc có tính chất lố bịch, khơng phù hợp với phong
cách của luật sư”; “Luật sư khơng được có hành động gián tiếp hay trực tiếp lôi
kéo, tranh giành khách hàng. Khi được khách hàng nhờ một vụ việc, nếu biết
trước đó khách hàng đã nhờ một luật sư khác thì luật sư sau cần trao đổi với luật
sư tiền nhiệm để bảo vệ, giải quyết quyền lợi hợp pháp của luật sư tiền nhiệm”
Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân là một quyền thiêng liêng, cao
cả, quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong hiến pháp. Luật sư là một nghề
chuyên môn nhưng không phải là nghề kinh doanh thuần túy với mục đích chủ
yếu là kiếm tiền. Ngay từ ban đầu nó đã mang sứ mệnh của một “hiệp sĩ” góp
phần bảo vệ cơng lý. Ngày nay công việc của luật sư phải đáp ứng hai yêu cầu:
Một mặt vừa bảo vệ tối đa quyền lợi của khách hàng; một mặt phải làm việc trên
cơ sở tuân thủ pháp luật, bảo đảm công lý, phát huy đạo đức xã hội... Điều 65
Luật Luật sư năm 2006 nêu rõ: “Tổ chức luật sư toàn quốc ban hành và giám sát
việc tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư”.
Ngày 20/7/2011 Hội đồng luật sư toàn quốc đã ban hành quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp luật sư, đây được xem là cột mốc quan trọng quy định
chung trong việc xử sự hành nghề luật sư tại Việt Nam. Nhằm bắt kịp xu hướng
tình hình mới, Hội đồng luật sư tồn quốc đã điều chỉnh, bổ sung một số số điều
của quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư và quyết định ban hành Bộ
quy tắc ứng xử nghề nghiệp luật sư năm 2019, Bộ quy tắc này điều chỉnh tốt các
mối quan hệ như ứng xử, hậu quả của việc vi phạm quy tắc xử sự chung của luật
sư.
Khi luật sư tuân thủ luật pháp,tự giác chấp hành quy tắc đạo đức ứng xử
nghề nghiệp đạt chuẩn mực cao sẽ nâng tầm hoạt động nghề nghiệp của luật sư
lên phạm trù “văn hóa luật sư”. Vậy văn hóa luật sư là một loại hình văn hóa

pháp lý văn hóa của cộng đồng những người hành nghề luật sư chuyên nghiệp,
cung cấp và được nhận dịch vụ pháp lý, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, công dân, cơ quan, tổ chức theo quy định pháp luật. Văn hóa luật
sư là sự chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cho
khách hàng trong sự tôn trọng và tin cậy cảu khách hàng đối với luật sư, gắn kết
giữa khách hàng với luật sư cùng niềm tin công lý trong quá trình sử dụng, vận
dụng và thực thi pháp luật.

1
0


Văn hóa của luật sư vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển nghề luật
sư. Là mục tiêu bởi lẽ nghề luật sư là một trong các nghề cao quý trong xã hội,
đội ngũ luật sư nói chung và mỗi luật sư nói riêng phải khơng ngừng nâng
caochất lượng dịch vụ, sự chuyên nghiệp, trao dồi đạo đức nghề nghiệp đảm bảo
tính liêm chính xứng đáng với sự tin cậy của xã hội khi sử dụng dịch vụ pháp lý
của luật sư , phù hợp với tiêu chuẩn và yêu cầu đặc ra ngày càng cao của nền
văn hóa pháp lý trong mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Văn
hóa pháp lý của luật sư là động lực phát triển nghề luật sư, bởi lẽ luật sư càng cố
gắn trao dồi, phấn đấu thực hiện và đạt được các tiêu chí văn hóa nghề nghiệp
của mình thì càng được xã hội đánh giá cao, càng có nhiều khách hàng đến với
luật sư để nhờ cậy bỏa vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, góp phần phát
triển nghề luật sư một cách bền vững.
Chương 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VĂN HÓA NGHỀ NGIỆP LUẬT
SƯ:
1. Một số giải pháp về văn hóa nghề luật sư:
Từ những tình hình thực trạng Văn hóa nghề nghiệp Luật sư nêu trên
chúng ta áp dụng một số giải pháp thực tiễn như sau:
Thứ nhất việc đào tạo nghề luật sư là một trong những giải pháp hoàn

thiện là lực lượng bổ trợ tư pháp, nên cần bổ sung thêm thời gian và những buổi
ngoại khóa nhằm để trao đổi học hỏi thêm về đạo đức văn hóa nghề luật sư,
thơng qua đó góp phần đảm bảo việc luật sư thực hiện tốt các công tác xã hội,
tham gia vào các nhóm Luật sư giỏi để nghiên cứu tranh luận phát huy tối đa để
công suất từng vụ án.
Thứ hai, cần quan tâm nâng cao nhận thức sâu sắc về chức năng xã hội
của luật sư và thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới quá trình đào tạo nghề nghiệp luật
sư theo quy trình và phạm vi thích hợp, bồi dưỡng, giáo dục về chính trị, đạo
đức và văn hóa nghề nghiệp cho luật sư; xây dựng hạt nhân chính trị nịng cốt
trong tổ chức hành nghề luật sư nhằm giúp cho mỗi luật sư nhận thức được đầy
đủ trách nhiệm xã hội, trách nhiệm nghề nghiệp và đủ bản lĩnh chính trị vận
dụng đúng đắn trong hoạt động nghề nghiệp của mình, xây dựng và nâng cao uy
tín cá nhân nói riêng và của đội ngũ luật sư nói chung, trên tinh thần tự lực cánh
sinh, học nữa học mãi, mỗi năm đạo luật mỗi thay đổi nên chúng ta cũng cần
phải thay đổi để trao đổi tư duy văn hóa kịp thời nắm bắt tiến triển thay đổi luật
để chúng ta thay đổi các biện pháp lõi thời trước đó mà chúng ta đã từng áp
dụng.

11


Thứ ba là, cần quan tâm hoàn thiện pháp luật về luật sư trong hoạt động
tư vấn, tham gia tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác... nhằm phủ kín các phạm
vi hoạt động nghề nghiệp trên thị trường dịch vụ pháp lý trong và ngoài nước,
cho các đối tượng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, vùng
biên giới, hải đảo, các khu công nghiệp mới... Cần xây dựng chiến lược dài hạn
nhằm phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu
hộinhập quốc tế, tạo điều kiện cho các luật sư tham gia nhiều hơn vào việc hòa
giải
và xử lý các loại hình tranh chấp trong nội bộ nhân dân, các tranh chấp kinh tế,

giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội; đồng thời khuyến khích cho phép các tổ
chức hành nghề và cá nhân luật sư thành lập các chi nhánh ở nước ngoài, tham
gia cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý quốc tế; tăng cường giám sát hoạt
động của các tổ chức luật sư nước ngồi hành nghề tại Việt Nam, có những vụ
chúng ta thu lợi nhuận quá nhiều nhưng chúng ta có những vụ làm phi lợi nhuận,
từ thiện không phải là lấy của giàu cho dân nghèo mà chúng ta dùng tư duy pháp
luật để lấy được về tài sản cho nhân dân đó cũng là một nghệ thuật tạo dựng uy
tín tạo nét đẹp văn hóa trong cuộc đời hoạt động nghề nghiệp.
Thứ tư là, nghề luật sư là nghề biện hộ “nghề nói ” do đó việc tham gia
tranh tụng hay tư vấn pháp luật việc trình bày của luật sư và việc làm quan
trọng, do đó cần xem xét kỹ năng nói “hùng biện” là một trong những cơng tác
chính trong đào tạo nghề luật sư; việc nói ngồi nói đúng pháp luật, cịn truyền
cảm hứng cho người nghe, khơng dùng ngơn từ khó nghe, thiếu văn hóa trong
mọi hoạt động giao tiếp. Rèn luyện giọng nói sao cho nhỏ nhẹ im tai đi sâu vào
lòng người. Luật sư là một đọc giả, khách hàng là một thính giả, cơ quan tư
pháp là người tuyên truyền pháp luật sáng tư duy cho chúng ta. Lúc nào hùn hồn
tạo uy thế hùn biện nhưng khi lúc nào khẩn cầu tha thiết thì phải từ tốn, đừng tạo
độ trầm như vậy người nghe vô cùng chán với Luật sư.
Thứ năm là, cần xây dựng hệ thống các tiêu chí và giá trị văn hóa nghề
nghiệp luật sư, đảm bảo cho các tổ chức hành nghề luật sư và mỗi luật sư hoạt
động có hiệu quả, phù hợp với chức năng xã hội của luật sư. Trong mỗi tổ chức
hành nghề luật sư, cần xây dựng các chuẩn mực cho tổ chức hành nghề luật sư
vận hành thống nhất, truyền bá tinh thần cộng đồng gánh vác trách nhiệm trong
một niềm tin sâu sắc về lý tưởng của nghề luật sư, với độ tin cậy cao về phẩm
giá, đạo đức nghề nghiệp và một chuẩn mực chung về ứng xử văn hóa. Trong
quy chế hoạt động của mỗi tổ chức hành nghề hoặc hợp đồng hợp tác giữa các
luật sư, cần đưa thêm một số nội dung quy định trong Luật Luật sư, Quy tắc đạo
đức nghề nghiệp và một số tiêu chí ứng xử văn hóa, nhất là sự ràng buộc về
trách nhiệm bảo đảm uy tín nghề nghiệp, các điều cấm và trách nhiệm về tài sản
đối với tổ chức hành nghề luật sư khi xảy ra việc khách hàng khiếu nại mà tổ

chức hành nghề luật sư đã phải giải quyết với khách hàng (nếu có); nghĩa vụ
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư và đóng bảo hiểm xã hội cho các
1
2


thành viên của tổ chức hành nghề luật sư.

1
3


Thứ sáu là, Luật sư cần thực hiện các quy định của Liên đoàn luật sư và
các thành viên của mình chủ động, tích cực tham gia các hoạt động đóng góp
cho sự nghiệp chung, tham gia quan trọng vào việc xây dựng và phổ viến tuyên
truyền pháp luật cũng như cơng tác phản biện xã hội khác, có tiếng nói tích
cựctrong các sự kiện quan trọng của đất nước; tham gia vào các buổi tuyền
truyền
pháp luật, tham gia vào các thành viên của hội luật gia tuyền truyền pháp luật
giúp người dân có cách nhìn đúng về pháp luật, thực hiện rõ ràng khơng khuất
mắc.
Muốn duy trì sự vận hành nhất quán và thông suốt, tạo ra mặt bằng chung
của văn hóa nghề nghiệp, người đứng đầu tổ chức hành nghề luật sư phải gương
mẫu trong việc tuân thủ các chuẩn mực do mình đề ra, tạo khơng khí sinh hoạt
dân chủ nhưng nghiêm khắc trong kỷ luật hành nghề, hạn chế tối đa những rủi ro
có thể xảy đến do những vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Trên cơ sở
sự phân công trách nhiệm, quản trị tốt nguồn thu nhập và phân phối, cần có
chính sách phân phối hợp lý như một địn bẩy tích cực; từng bước xây dựng hệ
thống đánh giá một cách công bằng về hiệu quả, chất lượng cung cấp dịch vụ,
củng cố uy tín của bản thân luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, có chế độ kiểm

tra định kỳ, chấn chỉnh khuyết điểm, nâng cao mặt tích cực, sáng tạo. Mỗi tổ
chức hành nghề cần tạo các địn bẩy kích thích lịng say mê nghề nghiệp, ý thức
tu dưỡng, rèn luyện; vừa chú trọng khen thưởng về vật chất, vừa khuyến khích
khen thưởng về tinh thần thơng qua việc bình chọn điển hình tiêu biểu, tham gia
các hoạt động xã hội, từ thiện hoặc ứng cử vào các tổ chức dân cử; ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quản trị tổ chức hành nghề luật sư; xây dựng
chương trình đào tạo tại chỗ, nâng cao trình độ ngoại ngữ, cử luật sư tham gia
các khố đào tạo ngắn hạn và dài hạn ở nước ngoài.
Trên cơ sở đó, cần thiết lập các tiêu chuẩn nhằm xét bình chọn và tổ chức
khen thưởng danh hiệu “luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tiêu biểu về văn hóa
nghề nghiệp luật sư”, thống nhất trang phục của luật sư khi hành nghề, hướng
dẫn các nguyên tắc và nội dung của giới thiệu, quảng cáo trên báo chí hoặc danh
thiếp được coi như một công cụ giao tiếp văn hóa; xây dựng cơ sở dữ liệu các
văn bản tư vấn và bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp điển hình của các luật sư
trong cả nước; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật và xử lý vi phạm
pháp luật từ phía các cơ quan quản lý hành chính tư pháp và tổ chức xã hội nghề
nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư về phạm vi hành nghề, thực hiện các quyền,
nghĩa vụ được quy định trong pháp luật và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.
2. Những mặc hạn chế trong Văn hóa nghề nghiệp luật sư:
Luật Luật sư ra đời tạo điều kiện cho đội ngũ luật sư ở Việt Nam tăng
nhanh chóng, đáp ứng được mục tiêu đặt ra là phát triển đội ngũ luật sư vừa tăng
về số lượng nhưng phải đảm bảo về chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
1
4


quốc tế và cải cách tư pháp của nước ta. Tuy nhiện việc tăng về số lượng, chất
lượng, chung 1ta cần phải quan tâm hơn nửa vấn đề đạo đức, văn hóa nghề
nghiệp luật, đều này là cần thiết là yếu tố sống còn của nghề luật sư.


1
5


Đa số luật sư Việt Nam hiện nay tuân thủ các quy tắc đạo đức, ứng xử
nghề nghiệp luật sư và các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hành
nghề luật sư. Tuy nhiên, việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật
hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý
thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống.
Trên thực tế, vẫn còn một số luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi
phạm các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, thậm chí cịn có vài luật sư vi
phạm pháp luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế do quy định điều kiện
về miễn đạo tạo nghề luật sư, nên vẫn còn hạn chế trong việc đào tạo bài bản.
gần một nửa số luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng
hành nghề. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn
thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá
trình bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên tồ. Một số luật sư
cịn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh
hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư.

PHẦN III:
PHẦN KẾT LUẬN
Thời gian giúp phân biệt văn hóa là sản phẩm của một q trình mà con
người tạo ra. Tính lịch sử của văn hóa cho thấy văn hóa được tích lũy qua nhiều
thế hệ, có những giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử của văn hóa tạo nên
chiều sâu, bề dày cũng như giúp văn hóa phải điều chỉnh, phân loại lại các giá trị
một cách thường xuyên. Truyền thống văn hóa sẽ là cốt lỗi trong lịch sử phát

triển của lĩnh vực này. Truyền thống văn hóa gồm các giá trị khá ổn định được
tích lũy và phát triển theo thời gian của một cộng đồng người, sau đó được đúc
kết thành khuôn mẫu xã hội, lưu truyền dưới dạng ngôn ngữ, nghi lễ, tập quán,
phong tục và dư luận, luật pháp...

1
6


Đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã làm tốt công tác tư tưởng, giám sát
luật sư trong việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
của luật sư nhưng chỉ là tự phát do họ lo ngại việc ảnh hưởng đến uy tín, thương
hiệu của tổ chức mình. Tuy nhiên, một số tổ chức hành nghề luật sư chưa thực
sự quan tâm đến cơng việc này, đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong việc quản
lý các luật sư của tổ chức mình, để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm pháp luật,
quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà tổ chức không biết hoặc bỏ qua. Do luật cầnquy
định cụ thể, chặt chẽ khâu kiểm tra, giám sát và báo cáo định kỳ của tổ chức
hành nghề luật sư và các chi nhánh, văn phòng giao dịch của luật sư. Đặc biệt về
chế tài xử lý vi phạm ở các lỗi vi phạm này cịn chưa cụ thể và khơng nghiêm.
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên do luật khơng quy
định bắt buộc nên hiện nay vẫn cịn có nhiều luật sư tinh thần học hỏi, trau dồi
về chuyên môn nghiệp vụ kém, bảo thủ, dấu dốt và còn mang nặng tư tưởng đố
kỵ “ta cũng là luật sư việc gì phải đi học, đi nghe các vị luật sư khác nói”... Một
số luật sư chưa thực sự quan tâm và có ý thức tuân thủ quy tắc đạo đức, ứng xử
nghề nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Vì vậy có nhiều luật sư
chưa ý thức được trách nhiệm cũng như hậu quả của việc mình vi phạm.3
Về chất lượng đội ngũ luật sư: Để năng cao chất lượng đội ngũ luật sư thì
vấn đề bồi dưỡng thường niên về nghiệp vụ và đạo đức luật sư đã đến lúc luật
cần quy định bắt buộc và những người không thực sự hoạt động nghề và không
tham gia bồi dưỡng thường niên theo tiêu chí luật quy định thì cần có hình thức

tạm đình chỉ hoạt động hoặc rút thẻ vĩnh viễn.
Để vấn đề văn hóa pháp lý nghề luật sư được đảm bảo tốt hơn cần phải có
định chế pháp lý điều chỉnh và cơ quan, tổ chức đứng ra chịu trách nhiệm mỗi
khi họ vi phạm và bảo vệ họ mỗi khi quyền của họ khơng được tơn trọng hoặc bị
xâm phạm.
Bản thân cần hồn thiện lên từng ngày tạo đẹp tâm hóa nghề nghiệp trong
tâm tưởng, cũng học cách làm giàu nhưng làm giàu dựa vào cơng sức thực có
bỏ ra trong từng vụ việc, cũng có những vụ thua nhưng chúng ta lấy đó làm
động lực cho những vụ án sắp tới. Cách hành xử với cách hàng, với đồng
nghiệp, với cơ quan nhà nước và xã hội luôn đúng phẩm giá và đúng giá trị có
chừng mực để tạo dựng nguồn uy tín. Chức năng quan trọng của văn hóa để
con người, cộng đồng người khơng ngừng hồn thiện hơn. Văn hóa là cái đẹp,
làm cho con người đẹp hơn lên. Các ngành nghệ thuật được tạo ra nhằm tôn
vinh cái đẹp là vì vậy. Nghệ thuật ln hướng tới cái đẹp, hướng tới tình cảm và
khát vọng mà con người ln hướng tới để tác động vào lý trí, tình cảm của con
người giúp họ có những hành động đúng đắn. Nghệ thuật có các hình tượng,
biểu tượng nhằm thể hiện nhu cầu của con người với khả năng tác động tới xã
hội rất lớn.

1
7


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pháp lệnh Luật sư năm 2001;
2. Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012;
3. Quy tắc đạo đức của Đoàn Luật sư TP.HCM năm 2004;
4. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư năm 2011;
5. Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật
sư toàn quốc ban hành bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư

Việt
Nam;
6. Giáo trình Luật sư và nghề Luật sư Nhà xuất bản Tư pháp.
Trang Wed:
/>
1
8



×