Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Bảo đảm quyền con người trong pháp luật dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình của việt nam hiện nay (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 157 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

KHOA LUẬT DÂN SỰ

TRUNG TÂM NHÂN QUYỀN

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

“BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
PHÁP LUẬT DÂN SỰ, LAO ĐỘNG,
HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY”

CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA KHOA LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH 12 - 2009


MỤC LỤC
1

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Trang
Nam về quyền con người
TS. Trần Thị Rồi

2

1

Quyền con người trong lĩnh vực dân sự và việc bảo vệ quyền con


người trong lĩnh vực dân sự bằng các biện pháp dân sự
ThS. Lê Minh Hùng

3

11

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của Nhà nước Việt Nam
– Nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người

4

5

TS. Nguyễn Thị Hoài Phương

44

Nguyễn Thanh Thư

59

Một số vấn đề về quyền được chết
Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hơn nhân, gia
đình
ThS. Lê Thị Mận

6

67


Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam
ThS. Trần Thị Hương

7

Vấn đề quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam
ThS. Đinh Thị Chiến

8

88

100

Pháp luật chống phân biệt đối xử về giới tại nơi làm việc ở Việt
Nam và Australia – Nghiên cứu so sánh
ThS. Đỗ Hải Hà

9

116

Bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật theo pháp luật Việt
Nam
Đồn Cơng n

10


Nữ quyền trong gia đình: Từ Bộ Luật Hồng Đức đến Pháp luật
hiện đại
Th.sỹ Lê Vĩnh Châu

2

134

145


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƢỜI
TS. Trần Thị Rồi*
Trong quá trình phát triển của nhân loại, quyền con người là vấn đề có tính
lịch sử và đặc biệt được quan tâm trong các cuộc cách mạng.
Sự ra đời chính thức của khái niệm quyền con người gắn liền với các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến vào những thế kỷ XVII,
XVIII. Ở Anh, sau khi Cách mạng tư sản thành công, quyền con người gồm các
quyền cơ bản là quyền được sống, quyền được tự do, được mưu cầu hạnh phúc,
quyền được xét xử, được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật... được ghi nhận
trong Luật về các quyền (1689). Ở Mỹ, các quyền đó được nêu trong Tun
ngơn độc lập (1776) và Hiến pháp. Ở Pháp, các quyền con người được thể hiện
trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1789).
Ở Việt Nam, một số người dân đã biết đến khái niệm quyền con người qua
sách báo từ bên ngoài đưa vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là người Việt
Nam đầu tiên đã nghiên cứu và có hệ thống quan điểm tồn diện về quyền con
người.
1- Sự hình thành và phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời.

Xét ở góc độ lịch sử, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền
con người hình thành từ những năm đầu thế kỷ XX, khi Việt Nam bị thực dân
Pháp xâm lược và thống trị. Sau khi thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm
lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta, hệ thống chính quyền của người Pháp
được thành lập. Bên cạnh đó, hệ thống chính quyền phong kiến vẫn được duy
trì. Thực dân Pháp và phong kiến tay sai cấu kết với nhau để áp bức, bóc lột, đàn
*

Phó Trưởng Khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
1


áp nhân dân. Cuộc sống người dân Việt Nam vô cùng cơ cực, bị đối xử bất
công. Trong hệ thống pháp luật thời Pháp thuộc khơng có Hiến pháp. Quyền con
người vi phạm nghiêm trọng, không được bảo đảm thực hiện.
Để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, giải phóng dân tộc, giải phóng con
người Việt Nam, vào năm 1911, Hồ Chí Minh đã ra nước ngồi nghiên cứu, tìm
hiểu tình hình thế giới, lựa chọn con đường cách mạng.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Người đã đến những nước tư bản
phát triển hàng đầu thế giới như Anh, Pháp, Mỹ và cũng đặt chân đến một số
quốc gia ở châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh…để nghiên cứu, khảo sát, tìm
hiểu về tình hình dân chủ, nhân quyền. Người đã nghiên cứu Tuyên ngôn độc
lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Người
tiếp thu và đánh giá cao lý luận về quyền con người của Cách mạng Pháp, Cách
mạng Mỹ. Nhưng khi so sánh giữa lý luận với với thực tế, Người thấy sau khi
cách mạng tư bản thành công, ngay tại các quốc gia tư bản, các quyền con người
cũng không được thực hiện một cách đầy đủ. Riêng đối với hệ thống thuộc địa,
các quyền con người bị chà đạp thô bạo.
Để đấu tranh cho quyền con người ở Việt Nam, trong quá trình hoạt động
cách mạng ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài đăng trên các tờ báo

như “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân”, tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp” tố cáo, lên án những hành vi vi phạm nghiêm trọng
quyền con người của chủ nghĩa thực dân đế quốc đối với nhân dân các nước
thuộc địa. Trong bài “Cơng lý”, Người viết “Ở Đơng Dương có hai thứ công lý.
Một thứ dành cho người Pháp, một thứ dành cho người bản xứ. Người Pháp thì
được xử như ở Pháp. Người An Nam thì khơng có hội đồng bồi thẩm, cũng
khơng có luật sư người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy
tờ, vắng mặt người bị cáo”. “Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam với người
Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết
người”… “Pháp luật. Công lý với người bản xứ ư?... Chỉ có ba toong, súng lục,
2


súng trường”.1 Chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta bị
vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác đến thế. Trong “ Nước An Nam
dưới con mắt người Pháp”, Người tố cáo “mượn cớ đi trấn áp, nên quân lính
“được thể” tha hồ cướp phá, giết chóc,…khơng một viên chỉ huy nào mà miệng
không chửi rủa, không cầm dùi cui…”2
Vào năm 1919, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, với tên là
Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" đến Hội
nghị nguyên thủ các nước đế quốc thắng trận họp tại Véc-xây (Pháp). Bản Yêu
sách đề nghị thực hiện các vấn đề cơ bản về nhân quyền cho con người Việt
Nam trong khuôn khổ chế độ thuộc địa nhưng bị các nước đế quốc từ chối. Sau
sự kiện này, Người rút ra kết luận: những lời hứa hẹn về tự do, bình đẳng, bác ái
và nhân quyền của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc bị áp bức chỉ là lừa
bịp. Muốn có độc lập dân tộc, tự do các dân tộc thuộc địa phải tự mình đứng lên
đấu tranh "đem sức ta mà giải phóng cho ta" lật đổ chế độ thực dân, phong kiến.
Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng, Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức,
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính

quyền vào tháng 8 năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo
Tun ngơn độc lập và đọc tại Quảng trường vào ngày 2-9-1945. Trong Bản
Tuyên ngôn độc lập, lần đầu tiên các quyền cơ bản của con người Việt Nam
được ghi nhận, được công khai tuyên bố trước quốc dân và thế giới. Mở đầu
Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tun ngơn
độc lập năm 1976 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong
1

Hồ Chí Minh tồn tập- tập 1 (1919-1924)- Tập 1. NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995.Trang
420.
2
Hồ Chí Minh tồn tập- tập 1 (1919-1924)- Tập 1. NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995. Trang
427.
3


những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh
phúc”3 và Tuyên ngôn dân quyền và Nhân quyền của nước Pháp “ Người ta sinh
ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; phải ln được tự do, bình đẳng về quyền
lợi”4. Từ đó, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền của các dân tộc "Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do” Người khẳng định: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập”5. Dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc khác
trên thế giới cũng có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nghiên cứu và đánh giá cao thành tựu quyền
con người của Cách mạng tư sản Mỹ và Cách mạng tư sản Pháp và viện dẫn
những “lời bất hủ” “là chân lý, lẽ phải” trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ,
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp để mở đầu Tuyên ngôn

độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
quyền con người trong Tun ngơn độc lập năm 1945 là hồn tồn mới về nhân
quyền. Theo Hồ Chí Minh, quyền con người khơng chỉ là quyền của cá nhân mà
cịn là quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Hai quyền này thống nhất, có quan hệ
chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau. Khi đất nước mất độc lập, dân tộc phải chịu
cảnh nô lệ, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và tay sai thì quyền
sống của con người cũng bị đe dọa chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân
chủ. Vì vậy, quyền độc lập, tự do, quyền tự quyết của dân tộc là tiền đề quan
trọng để bảo đảm thực hiện quyền cho cá nhân.
Vào giai đoạn cuối cùng của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, sau khi
Nhật đảo chính Pháp đêm ngày 9-3-1945, Pháp mất quyền cai trị, Việt Nam nằm
dưới ách thống trị của phát xít Nhật. Khi Chiến tranh kết thúc, có 2 phương án
lịch sử để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn:

3

Hồ Chí Minh tồn tập- tập 4 (1945-1946)- NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995.Trang 1.
Hồ Chí Minh tồn tập- tập 4 (1945-1946)- NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995.Trang 1.
5
Hồ Chí Minh tồn tập- tập 4 (1945-1946)- NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995.Trang 4.
4

4


Một là, chờ quân Đồng Minh đến giải giáp quân Nhật, giúp dân tộc thoát
khỏi ách thống trị của phát xít Nhật và chịu sự tác động của phe Đồng Minh.
Hai là, chớp thời cơ, tự mình tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
lật đổ ách thống trị của phát-xít Nhật và phong kiến tay sai, giành lại độc lập tự
do, không để cho bất cứ một thế lực nào kịp can thiệp vào công việc của quốc

gia, kể cả lực lượng Đồng minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn con đường
thứ hai. Với sự lựa chọn này, các nước Đồng Minh và cả cộng đồng quốc tế phải
công nhận một sự thật là dân tộc Việt Nam đã tự đấu tranh giành độc lập, các
quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam phải được tôn trọng. Trong Tuyên ngôn
độc lập, Hồ Chí Minh nêu rõ: "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay
Nhật, chứ không phải từ tay Pháp... Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ
chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Người
khẳng định mạnh mẽ: “ Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.6
Trên phương diện lịch sử tư tưởng nhân loại, bản Tuyên ngôn độc lập năm
1945 của Việt Nam đã kế thừa, tiếp thu và phát triển lên một tầm cao mới tư
tưởng nhân quyền của thế giới, đặc biệt là tư tưởng nhân quyền của cách mạng
tư sản Mỹ và cách mạng dân chủ tư sản Pháp. Đồng thời, còn thể hiện sự vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là tư tưởng của Lênin về quyền tự
quyết dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc, xét về mặt pháp lý và đạo lý, là quyền
tự nhiên của các dân tộc mà cộng đồng quốc tế phải thừa nhận. Tuy nhiên, trong
thực tế, không một đế quốc nào lại tự nguyện trao lại độc lập cho các dân tộc
thuộc địa. Muốn có độc lập thật sự, các dân tộc bị áp bức phải đứng lên giành
6

Hồ Chí Minh tồn tập- tập 4 (1945-1946)- NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995.Trang 4.
5


lấy quyền đó bằng con đường đấu tranh cách mạng và phải chấp nhận hy sinh để
bảo vệ độc lập dân tộc. Tương tự như vậy, quyền con người là quyền tự nhiên,
xã hội phải thừa nhận ngay khi con người được sinh ra. Nhưng muốn được đảm

bảo các quyền con người và được tự do thật sự thì phải đấu tranh, trước hết là
đấu tranh giành lấy những điều kiện cơ bản bảo đảm cho các quyền đó. Đối với
các dân tộc bị áp bức, điều kiện tiên quyết để đảm bảo quyền con người là độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và tồn vẹn lãnh thổ. Nói cách khác, quyền con
người không thể tách rời với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Sau khi đất nước độc lập, theo Người, độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Muốn vậy, phải xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, để
"trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc". Người nói:
“Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tộc bực, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy các quyền con người phải được
bảo vệ và phải được ghi nhận bằng Hiến pháp, pháp luật. Chỉ sau một ngày khi
đọc Tuyên ngôn độc lập, ngay hôm sau (ngày 3 tháng 9 năm 1945) trong phiên
họp đầu tiên của chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách là tiến hành tổng tuyển cử, xây dựng Hiến pháp.
Theo sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6-1-1946, Tổng
tuyển cử bầu Quốc hội đã được tiến hành trên phạm vi cả nước. Lần đầu tiên
trong lịch sử dân tộc, tồn thể cơng dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân
biệt nam nữ đều được thực hiện quyền bỏ phiếu để bầu đại biểu vào cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất.
Đến tháng 11-1946, Quốc hội đã thảo luận và thông qua Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ

6


Chí Minh là Trưởng ban soạn thảo đã ghi nhận: “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt

Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều
1). “ Công dân Việt Nam có quyền tự do ngơn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài
nước…”(Điều 10).
Về quyền của phụ nữ, trẻ em, người già cả, tàn tật được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng. Điều 9- Hiến pháp 1946 quy định: “Đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Điều 14 nêu rõ: “Những công dân già
cả hoặc tàn tật, khơng làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về
mặt giáo dưỡng”.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, ngay sau khi giành độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thi hành chính sách nhân quyền đối với
người nước ngoài, khoan dung đối với tù binh, những người lầm đường lạc lối.
Trong năm 1946, trong bối cảnh thực dân Pháp vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược
nước ta, trước khi Bản tuyên ngôn về nhân quyền (1948) của Liên hiệp quốc ra
đời, trong Quốc lệnh do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam ký, tại Điều 7 ghi rõ “Vô
cơ sát hại kiều dân ngoại quốc sẽ bị xử tử”7. Đây chính là tiền đề cho những quy
định về quyền dân sự của người nước ngoài trong Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ II (1951),
Người khẳng định: “Tính mệnh và tài sản của kiều dân nước ngoài tuân theo
pháp luật Việt Nam, phải được bảo hộ”.
Như vậy, là ngay cả trong điều kiện chiến tranh, quyền dân sự của ngoại
kiều vẫn được ghi nhận. Tư duy pháp lý về quyền con người của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thể hiện sự kế thừa truyền thống khoan dung nhân đạo cao cả của

7

Hồ Chí Minh tồn tập- Tập 4. (1945-1946) NXB Chính trị quốc gia, HN- 1995.Trang 164.
7



dân tộc trong việc xử lý đối với người nước ngoài. Quan điểm này cũng hoàn
toàn phù hợp với luật quốc tế về quyền con người.
Sau khi đất nước độc lập cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời,
những quan điểm về nhân quyền của Người tiếp tục được phát triển, hồn thiện.
Những tư tưởng đó khơng chỉ thể hiện qua Tuyên ngôn độc lập, trong 2 bản
Hiến pháp do Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo là Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959, được cụ thể hố qua hệ thống pháp luật về dân sự, hình sự, lao
động…mà còn được triển khai thực hiện ở thực tiễn trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng.
2- Những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con
ngƣời.
Tư tưởng nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất phong phú và sâu sắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự kế thừa truyền thống nhân ái
và dân chủ của dân tộc ta, tiếp thu những giá trị tiến bộ về quyền con người của
các nước phương Đông và các nước phương Tây. Đặc biệt, là sự vận dụng và
phát triển một cách có sáng tạo tư tưởng của Các Mác, Ph Ănghen và V.I Lênin.
Nhìn chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bao gồm những
nội dung cơ bản như sau:
- Quyền con người là thành quả sự phát triển liên tục của lịch sử. Các dân
tộc có thể kế thừa, chia sẻ những giá trị nhân quyền của nhau.
- Quyền và phẩm giá của cá nhân con người gắn liền với quyền và phẩm
giá của dân tộc.
- Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất
nước là tiền đề, là điều kiện tiên quyết của quyền cá nhân.
- Quyền con người là lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, là bản chất
của Nhà nước ta và của xã hội xã hội chủ nghĩa. Khơng có chế độ xã hội nào có

8



nhiều khả năng, điều kiện bảo đảm quyền con người bằng xã hội xã hội chủ
nghĩa.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân là nhân tố cơ bản bảo đảm các quyền con người;
- Trách nhiệm bảo đảm quyền con người không chỉ là của Nhà nước mà
còn của tất cả các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị;
- Bảo vệ độc lập dân tộc và quyền con người của dân tộc ta, đồng thời phải
tôn trọng độc lập, chủ quyền và quyền con người của các dân tộc khác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là kết tinh những tư tưởng tiến
bộ nhất của các dân tộc trên thế giới, là nền tảng cho việc hoạch định chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con ngƣời.
Trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, từ khi ra đời cho đến nay, trong các văn kiện của Đảng luôn
khẳng định 2 nhiệm vụ đấu tranh độc lập dân tộc và quyền dân chủ của nhân dân
là hai nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Ngay từ năm 1930, Chính cương vắn tắt- Sách lược vắn tắt – Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng nêu rõ những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam
là “đánh đổ chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập” “ Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền.v.v.”.
Bên cạnh việc xây dựng, phát triển lý luận để đấu tranh cho quyền con
người, sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo quá trình xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền; hoàn
thiện hệ thống pháp luật; thực thi các biện pháp nhằm phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ về
vật chất, phong phú về tinh thần; được thụ hưởng các quyền công dân.

9



Trong các quyền của con người Việt Nam, quyền chính trị được đặt lên
hàng đầu, các quyền dân sự, kinh tế, văn hố, xã hội ln được chú trọng thơng
qua việc đề ra và triển khai hàng loạt chính sách tích cực và hiệu quả ở các lĩnh
vực y tế, giáo dục, văn hoá. Những thành tựu trong lĩnh vực xố đói, giảm nghèo
thời kỳ đổi mới của Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận là minh chứng
cho sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến các quyền cơ bản của con người.
Những kết quả của sự nghiệp đấu tranh bảo vệ và phát triển quyền con
người từ sau đất nước độc lập đến nay là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản chất
ưu việt, tiến bộ của chế độ XHCN với truyền thống nhân đạo, nhân văn của dân
tộc Việt Nam; giữa đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt
Nam luôn coi con người là trung tâm trong sự phát triển đất nước với việc thực
hiện nghiêm túc các chuẩn mực và nghĩa vụ được quy định trong các Công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Hiện nay, do khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát
triển… nên cách tiếp cận về quyền con người của mỗi quốc gia có thể khác
nhau. Trong thời kỳ hội nhập, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương tăng
cường hợp tác quốc tế trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tơn trọng, hiểu
biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau vì mục tiêu bảo vệ
và phát triển quyền con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã công khai thừa nhận những hạn chế,
khó khăn, bất cập trong thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Đồng thời,
Đảng khẳng định sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập với tư duy đổi mới, nhìn
thẳng vào sự thật, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, coi con
người là động lực quan trọng nhất trong q trình cơng nghiệp hố- hiện đại hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện mục tiêu, lý tưởng xây dựng một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

10



QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
VÀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
BẰNG CÁC BIỆN PHÁP DÂN SỰ
ThS. Lê Minh Hùng*
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Quyền con người, quyền công dân, quyền dân sự và mối quan hệ giữa các
loại quyền này với nhà nước và với pháp luật là những vấn đề lý luận và thực
tiễn phức tạp, nhạy cảm, là mối quan tâm hàng đầu của xã hội loài người qua
mỗi thời kỳ. Bởi thế, có học giả đã nhận xét: “mỗi bước tiến của nhân loại đều
gắn liền với q trình giải phóng con người nói chung. Đó là thành quả của của
các cuộc cách mạng xã hội, phản ánh quá trình nhân loại đấu tranh tự giải
phóng mình”.1
Về phương diện lập pháp, vấn đề quyền con người luôn được các nhà làm
luật chú trọng. Tùy theo bản chất của mỗi xã hội mà mức độ quan tâm tới quyền
con người có khác nhau, với những bình diện khác nhau, dành cho một nhóm
người hoặc tồn thể cơng chúng trong xã hội.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề quyền con người và các quyền công dân trong
một xã hội dân sự được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm và xem đó là cốt
lõi của q trình lập pháp. Bởi suy cho cùng, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của mọi cơng dân trong xã hội cũng chính là bảo vệ chính
sự tồn tại của chế độ xã hội đó. Trong mọi qui định của luật pháp, mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, con người luôn được đặt vào
“vị trí trung tâm”, được coi là mục tiêu và động lực của chính sự phát triển.2 Bảo

*

Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người, quyền công dân”, Nxb. CTQG, H.2004, tr.7.
2
Xem thêm: Chỉ thỉ số 12 ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta” và các Văn kiện
chính thức của Đảng.
1

11


vệ quyền con người chính là tiền đề quan trọng trong việc bảo vệ sự tồn vong và
hưng phế của mọi triều đại và mọi chế độ xã hội. Đất nước ta được giải phóng
và khẳng định chủ quyền, dân tộc ta được độc lập, nhân dân được bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, quyền dân sự là thành quả vĩ đại nhất mà các
cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã mang lại. Bởi vậy, quyền
con người, quyền công dân, quyền dân sự của cá nhân cần được ghi nhận, như
đã từng được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các đạo luật quan
trọng khác của nhà nước ta, và cũng được phản ánh sâu sắc trong lịch sử lập
hiến của đất nước.
Ở Việt Nam, quyền con người được bảo hộ bằng Hiến pháp và bằng cả hệ
thống pháp luật. Mỗi ngành luật khác nhau đều qui định và bảo hộ quyền con
người phù hợp với phạm vi, đối tượng điều chỉnh của từng ngành luật đó. Về
phương diện dân sự, quyền con người được cụ thể hóa thành các quyền dân sự
cụ thể trong các nhóm quyền như quyền kinh tế, quyền về tinh thần, quyền tham
gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. Có thể thấy các quyền này đều đã được
nhà nước ta qui định tương đối đầy đủ, cụ thể và toàn diện trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau, mà đặc biệt là Bộ luật Dân sự 2005. Tuy vậy, vấn đề nhận
thức về quyền con người trong xã hội ta hiện nay là chưa tương xứng với tính
chất đặc biệt của loại quyền quan trọng bậc nhất này, cũng như cơ chế đảm bảo
thực hiện các quyền này chưa được quan tâm đúng mức. Thực tiễn cũng cho
thấy, ở đâu đó, vào một vài thời điểm nào đó, vấn đề quyền dân sự của con
người vẫn chưa được bảo đảm thực hiện một cách có hiệu quả và triệt để.
Bài viết sau đây bàn về vấn đề quyền con người trong lĩnh vực dân sự, thể

hiện qua các quyền dân sự cụ thể của chủ thể, phương thức bảo vệ các quyền
dân sự bằng các biện pháp dân sự, nêu lên một số điểm bất cập của pháp luật và
định hướng hoàn thiện.

12


2. QUYỀN CON NGƢỜI VÀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LĨNH VỰC
DÂN SỰ (HAY CÒN GỌI LÀ QUYỀN DÂN SỰ)
2.1. Quyền con ngƣời
Quyền con người là một giá trị vĩ đại của nhân loại được nhiều nhà tư
tưởng của mọi thời đại quan tâm. Theo các học giả, vấn đề quyền con người
được các nhà tư tưởng quan niệm theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng có thể diễn
đạt tựu trung bởi hai quan niệm.3 Quan niệm thứ nhất mà đại diện là Spinôđa
(1682 – 1677), Locke (1632 – 1704), Kant (1724 – 1804) cho rằng, quyền con
người là đặc quyền tự nhiên, bao gồm các quyền cơ bản của con người như
quyền sống, quyền được tự do và quyền có tài sản. Đặc quyền này do có pháp
luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định.4 Quan niệm thứ hai cho
rằng, quyền con người cũng như con người là tổng hịa các mối quan hệ xã hội.5
Theo đó, quyền con người là một giá trị nhân loại, đồng thời là một khái niệm
có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung những
nội dung mới qua các thời đại khác nhau. Aristốt khẳng định con người, với tính
cách là “động vật chính trị”, luôn cần đến xã hội để tồn tại và phát triển. C. Mác
xuất phát từ quan niệm con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật – xã
hội”, là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội”.
Theo C. Mac, “con người - xã hội” là sự “tổng hòa những quan hệ xã hội”.6
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam, từ các bậc tiền nhân
cho đến cách nhà cách mạng đương đại đều rất quan tâm đến vấn đề “con
người”, với ý nghĩa đây là “trung tâm” của việc lập quốc và kiến thiết quốc gia.
Sinh thời, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn luôn đề cao tư tưởng: “Dân vi


3

Đào Trí Úc, Hành trình của quyền con người, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 5/2009, tr. 810.
4
Xem thêm: Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người, quyền công dân, Sđd, tr.10.
5
Xem thêm: Trần Ngọc Đường, Sđd, tr. 12-15.
6
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, H. 1995, tr. 11.
13


bản”.7 Trong những giai đoạn thịnh trị, các triều đại phong kiến khác cũng chịu
ảnh hưởng lớn bởi tư tưởng này. Trong Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi đã từng
viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, và ông cũng từng có câu nói bất hủ: Nhà
nước như là thuyền, dân như nước. Nâng thuyền cũng là nước, làm lật thuyền
cũng là nước. Thế mới biết sức dân mạnh như sức nước. Ngày nay, tư tưởng ấy
đã được Bác Hồ nâng lên thành hệ tư tưởng của thời đại ta. Bác Hồ đã từng nói
rằng: “Dân là bức tường thành xung quanh Tổ quốc. Có dân là có tất cả”. Tư
tưởng ấy thể hiện tập trung nhất, sinh động nhất trong Tuyên ngôn độc lập của
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Bác đã đọc vào ngày 02 tháng 9 năm
1946 tại Ba Đình lịch sử:
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải
ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Trả lời câu hỏi vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu Bản Tun ngơn
Độc lập của mình bằng hai câu trích dẫn trên, nhà sử học Dương Trung Quốc
viết:“Câu trả lời cho thấy Hồ Chí Minh ln đặt sự nghiệp cách mạng của dân
7

Có thể hiểu là “Dân là gốc”. Đây được xem là quan điểm cơ bản của Khổng Tử về vấn đề
“Trị quốc” và “Nhân sinh”. Tư tưởng của Khổng Tử đã được Mạnh Tử phát triển thêm một
bước trong câu “dân vi quý, xã tắc thứ chi, qn vi khinh” – Dân thì q, xã tắc là thứ yếu, cịn
nhà vua cũng là bậc thường mà thơi.
14


tộc Việt Nam gắn liền với thời đại. Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với
lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh
nhân loại, mà cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và cách mạng tư
sản Pháp 1789 là những cái mốc lớn của lịch sử lồi người. Đó là nền tảng để
vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân
tộc Việt Nam đã giành được vào mùa thu năm 1945 là bước tiếp, đồng thời cũng
là một cái cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người, vì đó là
mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ của cuộc đấu tranh giải phóng các dân
tộc nhỏ yếu thốt khỏi ách của chủ nghĩa thực dân cũ và mới”.8
Dưới góc độ pháp lý, vấn đề quyền con người đã được nêu trong Tuyên
ngôn Nhân quyền năm 1948 của Liên hiệp quốc. Các nội dung quyền con người
trong Tuyên ngôn 1948 đã được cụ thể hóa bằng hai cơng ước quốc tế là Cơng
ước về các quyền dân sự và chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa (Thơng qua vào 16/12/1966 và có hiệu lực vào ngày 23/3/1976). Nội

dung hai Công ước này ghi nhận và cụ thể hóa quyền con người, tích cực bảo vệ
quyền con người, trở thành chuẩn mực chung của các quốc gia trong việc định
chế về quyền con người trong pháp luật của mỗi quốc gia.
Trong lịch sử lập pháp hiện đại của nhà nước ta, vấn đề quyền con người
được pháp luật đề cập gián tiếp bằng việc công nhận các quyền cụ thể của con
người. Nhưng khái niệm “quyền con người” được ghi nhận chính thức lần đầu
tiên trong Hiến pháp 1992: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tơn trọng,
thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”.9

8

P.M.K - B.C.B, Bác Hồ & Tư tưởng lớn của Bản Tuyên ngôn Độc lập,
/>9
Điều 50 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị quyết 51/2001/NQ-QH11 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa XI (sau đây được viết tắt
là Hiến pháp 1992).
15


So với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện
một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với việc
khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50) cũng như
bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực.
Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan
trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản
(bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và
từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được thông tin theo luật định;
quyền bình đẳng của các tơn giáo; quyền khơng bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội

của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngồi ra, Hiến pháp năm 1992 còn đề cập
đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Cùng với khái niệm quyền con người, các khái niệm có liên quan khác như
quyền bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em…10 cũng được chính thức đề cập
trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.
Nói tới “quyền” được hiểu theo góc độ pháp lý, “đó có thể được hiểu là
điều mà pháp luật công nhận cho người có quyền được hưởng, được làm, được
địi hỏi”.11 Con người với tính cách là một sinh vật - tự nhiên –xã hội, có những
u cầu, địi hỏi về điều kiện sinh tồn và được tự do, được bảo đảm tơn trọng
danh dự, nhân phẩm, sự sống của mình. Quyền của con người là những quyền
hành xử của con người để mang đến những bảo đảm thật sự cho các giá trị đó.
Qua các qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, có thể hiểu
quyền con người là các quyền lực của cá nhân con người được thừa nhận và
được bảo đảm bởi các thiết chế xã hội và luật pháp để con người đó được sinh
10

Thể hiện qua các đạo luật, như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bảo vệ bà và trẻ em, Luật
Bình đẳng giới…
11
Hồng Thế Liên (Cb), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, tập I, Nxb. CTQG, H.
2008, tr. 56.
16


ra, được sống, được tự do hành xử, lựa chọn và thụ hưởng các lợi ích chính đáng
nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, được mưu cầu hạnh
phúc, và thậm chí là được chết trong sự toàn vẹn, tự do và danh dự.
Theo GS.TS Trần Ngọc Đường, trong xu thế tồn cầu hóa ngày nay, quyền
con người có một số thuộc tính cơ bản sau đây: (i) quyền con người là những giá

trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành
viên xã hội. Nó vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân
tộc, công đồng; (ii) là những giá trị đã được xã hội hóa bằng cách thể chế hóa
thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người, không
phân biệt các yếu tố xã hội; (iii) quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của
con người, vừa là những giá trị nảy sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với
một nhà nước cụ thể, với chế độ chính trị, pháp luật cụ thể. Thông qua pháp luật,
các quyền con người từ trạng thái tự nhiên trở thành những quyền pháp lý được
pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.12
2.2. Quyền con ngƣời trong lĩnh vực dân sự
Khoa học pháp lý chia quyền con người thành các nhóm quyền: quyền tự
do dân chủ về chính trị (tham gia quản lý nhà nước và xã hội, bầu cử, ứng cử,
quyền bình đẳng, quyền tự do ngơn luận, báo chí, biểu tình…), các quyền trong
lĩnh vực dân sự (quyền dân sự, quyền tự do cá nhân: bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, tự do đi lại, bất khả xâm phạm về chỗ ở…),
các quyền kinh tế - xã hội (tự do kinh doanh, được học tập, được phát minh sáng
tạo, quyền tự do lao động...).
Quyền con người trong lĩnh vực dân sự (quyền dân sự) được ghi nhận trong
Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác của nhà nước. Trong
đó, Bộ luật Dân sự 2005 là nguồn cơ bản và chủ yếu của pháp luật về quyền dân
sự của con người:
12

Trần Ngọc Đường, Sđd, tr. 20-21.
17


Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách
ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hơn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân
sự).
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng; bảo đảm sự bình
đẳng và an tồn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.13
Theo qui định của Hiến pháp 1992, Điều 15 Bộ luật Dân sự 200514 và các
văn bản pháp luật liên quan, quyền dân sự của cá nhân con người được thể hiện
ở các nội dung sau đây:
2.2.1. Các quyền nhân thân hay tinh thần
Theo Hiến pháp 1992, các quyền tinh thần cơ bản của công dân được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ.15 Trên cơ sở Hiến pháp, đặt cơ sở pháp lý chung cho
các quyền nhân thân, Bộ luật Dân sự 2005 (sau đây được viết tắt là BLDS 2005)
qui định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác”16, và được cụ thể hóa thành các nhóm quyền
sau:

13

Điều 1 Bộ luật Dân sự 2005.
Điều 15 Bộ luật Dân sự 2005 qui định cá nhân có: (1) các quyền nhân thân không gắn với
tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; (2) Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền
khác đối với tài sản; (3) Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ
đó.
15
Hiến pháp 1992 ghi nhận các quyền nhân thân cụ thể. Đó là các quyền tư do cá nhân, như
quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 68), quyền bất khả xâm phạm (Điều 72)…
16

Điều 24 BLDS 2005.
14

18


2.2.1.1. Nhóm quyền liên quan tới nguồn gốc cá nhân: Quyền của cá nhân đối
với họ, tên (Điều 26 BLDS 2005); Quyền thay đổi họ, tên (Điều 27 BLDS
2005); Quyền xác định dân tộc (Điều 28 BLDS 2005); Quyền được khai sinh
(Điều 29 BLDS 2005); Quyền được khai tử (Điều 30 BLDS 2005); Quyền đối
với quốc tịch (Điều 45 BLDS 2005);
2.2.1.2. Nhóm quyền liên quan tới thân trạng của cá nhân: Quyền của cá nhân
đối với hình ảnh (Điều 31 BLDS 2005); Quyền được bảo đảm an tồn về tính
mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32 BLDS 2005); Quyền hiến bộ phận cơ thể
(Điều 33 BLDS 2005); Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34
BLDS 2005); Quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35 BLDS 2005); Quyền
xác định lại giới tính (Điều 36 BLDS 2005); Quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín (Điều 37 BLDS 2005); Quyền bí mật đời tư (Điều 38 BLDS 2005);
2.2.1.3. Nhóm quyền liên quan tới quan hệ hơn nhân và gia đình: Quyền kết hơn
(Điều 39 BLDS 2005); Quyền bình đẳng của vợ chồng (Điều 40 BLDS 2005);
Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình (Điều 41
BLDS 2005); Quyền ly hơn (Điều 42 BLDS 2005); Quyền nhận, không nhận
cha, mẹ, con (Điều 43 BLDS 2005); Quyền được nuôi con nuôi và quyền được
nhận làm con ni (Điều 44 BLDS 2005);
2.2.1.4. Nhóm quyền tự do dân sự, tự do lao động và sáng tạo: Quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở (Điều 46 BLDS 2005); Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
(Điều 47 BLDS 2005); Quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Điều 48 BLDS 2005);
Quyền lao động (Điều 49 BLDS 2005); Quyền tự do kinh doanh (Điều 50 BLDS
2005); quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 51 BLDS 2005);
Trên đây là những quyền nhân thân của cá nhân, là căn cứ pháp lý quan

trọng để mọi cá nhân có khả năng thực hiện những xử sự nhằm thỏa mãn các lợi
ích nhân thân chính đáng của mình. Trên cơ sở các quyền này có thể đảm bảo
cho mỗi cá nhân phát huy tối đa mọi năng lực của mình trong phạm vi và khả

19


năng có thể, chủ động và tự mình đảm bảo thực hiện các nhu cầu cơ bản về
quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc, và thụ hưởng các lợi
ích nhân thân khác.
2.2.2. Các quyền kinh tế và tài sản
Trên cơ sở qui định của Hiến pháp 1992:
Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước
mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị
trường thế giới.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà
pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh
tranh theo pháp luật.
Nhà nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện
các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.17
Điều 58 Hiến pháp 1992 cũng qui định: “Cơng dân có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn
và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với
đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.


17

Điều 16 Hiến pháp 1992, được sửa đổi bởi khoản 7 Điều 1 Nghị quyết 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 của Quốc hội khóa 10.
20


Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Trong BLDS 2005, quyền kinh tế của cá nhân được pháp luật bảo vệ ở các
khía cạnh các quyền cụ thể như quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế và các
quyền khác đối với tài sản.18
2.2.2.1. Quyền sở hữu tài sản của tư nhân – cá nhân
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của cá nhân đối với các loại tài sản,
vốn, tư liệu sản xuất mà họ có tồn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.19
Đây là quan niệm sở hữu manh tính chất định hướng về mục đích sử dụng quyền
sở hữu đối với các đối tượng của quyền sở hữu, không phân biệt môi trường
thực hiện quyền sở hữu.20
Các quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản bao gồm chủ yếu là các
quyền sở hữu tư nhân được qui định tại các Điều 211 – Điều 213 BLDS 2005 và
các qui định liên quan khác. Theo qui định này, mọi cá nhân đều được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản, lợi ích vật chất, các khoản thu
nhập hợp pháp của mình. Nội dung quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản là
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản. Đối tượng
của quyền sở hữu tư nhân là mọi tài sản không hạn chế về số lượng và giá trị, trừ
những tài sản mà pháp luật qui định không thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức
(đất đai, rừng núi, sông hồ, tài nguyên thiên nhiên… và các loại vũ khí, quân
trang qn dụng, khí tài quốc phịng, an ninh…).21 Quyền sở hữu của tư nhân có
thể bị hạn chế trong những trường hợp do pháp luật qui định.22 Quyền sở hữu


18

Khoản 2 Điều 15 BLDS 2005.
Điều 211. Xem thêm: Nguyễn Văn Thạo-Nguyễn Hữu Đạt, Một số vấn đề về sở hữu ở nước
ta hiện nay, Nxb. CTQG, H. 2004, tr. 55.
20
Nguyễn Như Phát, Quyền sở hữu của cá nhân - Cội nguồn của tự do kinh doanh trong kinh
tế thị trường – Trích “Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội” –
Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, H. 2009, tr. 86
21
Các Điều 212 và Điều 200 BLDS 2005.
22
Điều 199 BLDS 2005.
19

21


của cá nhân đối với tài sản được xác lập và chấm dứt dựa trên căn cứ do pháp
luật qui định.23
2.2.2.2. Quyền thừa kế của cá nhân
Quyền thừa kế của cá nhân đối di sản là một cách thức để duy trì và củng
cố quyền sở hữu tư nhân. Quyền thừa kế là quyền của cá nhân được để lại di sản
của mình sau khi chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, quyền được hưởng di
sản thừa kế của người khác để lại, quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp
việc từ chối đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trước người thứ ba.
Quyền thừa kế của cá nhân được qui định từ các Điều 631 – Điều 687
BLDS 2005. Theo đó, nhà làm luật xác định rõ khái niệm di sản, người thừa kế
và điều kiện để được hưởng thừa kế, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người thừa kế, thời hiệu khởi kiện thừa kế, việc lập di chúc để định đoạt di sản

theo ý chí cá nhân, việc để lại di sản theo pháp luật, việc thanh toán nợ từ di sản,
việc phân chia và hạn chế phân chia di sản.
Ngoài ra, luật còn bảo vệ những người yếu thế trong gia đình, dựa trên
ngun tắc “củng cố tình thương u đồn kết trong gia đình” để qui định cho
một số người thừa kế trong các trường hợp đặc biệt như: cha, mẹ, vợ hoặc
chồng, con chưa thành niên, con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động
đẻ ni sống mình và khơng được người chết dành phần di sản thỏa đáng, thì
vẫn có thể nhận di sản thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc (Điều 669
BLDS 2005); hoặc ủng hộ quá trình duy trì quyền tư hữu thông qua các qui định
về hàng thừa kế (Điều 676), thừa kế thế vị (Điều 677), thừa kế chuyển tiếp, cũng
như cho phép tòa án „tước quyền thừa kế‟ của những người bất xứng (Điều 643
BLDS 2005)…

23

Điều 170 và Điều 171 BLDS 2005.
22


2.2.2.3. Quyền của cá nhân được tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự,
được hưởng quyền, gánh gác nghĩa vụ và chịu trách nhiệm phát sinh từ các
quan hệ đó
BLDS 2005 là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng chủ yếu để các cá
nhân thực hiện các quyền tự do sản xuất kinh doanh, quyền lao động tạo ra của
cải vật chất cho bản thân, gia đình, và xã hội, thơng qua việc thừa nhận cá nhân
có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự, các hợp đồng dân sự để thỏa mãn
các nhu cầu vật chất, tinh thần của mình.
BLDS 2005 đặt nền tảng pháp lý cho cá nhân xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự, bằng cách qui định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
(Điều 122 – Điều 138) và qui định về quá trình xác lập, thực hiện các nghĩa vụ

dân sự và hợp đồng, pháp luật cho phép cá nhân có thể tự mình tham gia vào các
quan hệ pháp luật hoặc có thể tham gia thông qua người đại diện hợp pháp, như
người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp khác24. Ví dụ: đại diện theo pháp
luật (như cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên, người giám hộ đại diện cho
người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đại diện cho người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự…), hoặc diện theo ủy quyền (dựa trên hợp đồng ủy
quyền hợp pháp).
Cá nhân có thể giao kết, thực hiện, sửa đổi, bổ sung các hợp đồng do các
bên tự nguyện tham gia, dựa trên các điều kiện do pháp luật qui định, như các
hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản,
hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng
dịch vụ, hợp đồng gia công, hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng vận chuyển, hợp
đồng bảo hiểm, hợp đồng ủy quyền… (từ các Điều 388 – 593 BLDS 2005).

24

Chế định đại diện được qui định rải rác trong phần chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự,
trong các loại việc cụ thể và được qui định tập trung trong phần đại diện, từ Điều 139 – Điều
149 BLDS 2005.
23


×