Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Bảo đảm quyền con người trong quyền công dân trong pháp luật thuế việt nam (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.8 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT THUẾ
VIỆT NAM

Chủ nhiệm: TS Nguyễn Văn Vân
Khoa Luật thương mại- Đại học Luật TP.HCM

TP HỒ CHÍ MINH, 12-2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT THUẾ
VIỆT NAM

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài
(ký, họ tên, đóng dấu)

Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ tên)



Nguyễn Văn Vân

TP HỒ CHÍ MINH, 12-2011


Lời cám ơn
Tác giả chân thành cám ơn ThS Phan Phương Nam và
ThS Trần Minh Hiệp, giảng viên bộ môn luật tài chính- ngân
hàng, khoa Luật thương mại, Đại học Luật Tp HCM là những
người nhiệt tình trợ giúp tác giả hồn thành đề tài này.
Xin cám ơn Bà Dỗn Thu Thủy, Phó phịng Kiểm tra 2,
Cục Thuế Tp HCM đã hỗ trợ tác giả thu thập số liệu, thông
tin.
Xin cám ơn Trung tâm nghiên cứu pháp luật quyền con
người, quyền công dân- Đại học Luật Tp HCM đã tài trợ kinh
phí nghiên cứu đề tài này!

Chủ nhiệm đề tài
TS Nguyễn Văn Vân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................................3
1. SỰ CẦN THIẾT VÀ GIÁ TRỊ ỨNG DỤNG....................................................................3
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU..................................................................3
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC BƯỚC THỰC HIỆN......................4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................................................................6
5. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG VÀ ĐỊA CHỈ ỨNG DỤNG .....................................................7
CHƯƠNG 1 ...........................................................................................................................9

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NHẬN DIỆN VÀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT THUẾ .........................................................................9
1.1 Khái quát quyền con người và quyền công dân trong pháp luật thuế .............................9
1.1.1. Nhận diện một số khái niệm liên quan.........................................................................9
1.1.2. Nhận diện quyền con người, quyền công dân trong pháp luật thuế...........................12
1.2.3. Thuế và quan hệ giữa công dân và nhà nước dưới góc độ pháp luật thuế ...............15
1.2. Nguyên tắc thiết lập và đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực thuế
..............................................................................................................................................19
1.2.1. Ngun tắc dung hịa lợi ích kinh tế giữa nhà nước và công dân trong pháp luật thuế
..............................................................................................................................................19
1.2.2. Ngun tắc cơng bằng, bình đẳng trong thực thi nghĩa vụ thuế ..............................23
1.2.3. Nghiêm cấm gia tăng gánh nặng thuế của công dân qua việc ban hành, đặt ra các
khoản thu trái luật.................................................................................................................28
1.3. Nội dung quyền của người nộp thuế trong pháp luật các nước và Việt Nam ..............30
1.3.1. Quyền của người nộp thuế tại các quốc gia hệ thống dân luật (civil law): ................31
1.3.2. Quyền của người nộp thuế tại các quốc gia hệ thống thông luật (common law):......32
1.3.3. Cộng Hòa Liên Bang Nga. ........................................................................................40
1.3.4. Pháp luật Việt Nam: ..................................................................................................41
CHƯƠNG 2. ........................................................................................................................43
THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ .............43
2.1 Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin và các phương tiện trợ giúp để kê khai, nộp thuế ...43
2.1.1. Cơ sở hình thành quyền tiếp cận thông tin và các phương tiện để kê khai, nộp thuế 43
2.1.2. Nội dung quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực thuế.............................................44
2.1.3 Các biện pháp đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin và thực tiễn áp dụng...........45
2.2.
Tôn trọng và bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp cơng dân trong khấu trừ, hồn thuế
51
2.2.1. Khái qt quyền được hoàn thuế của người nộp thuế................................................51
2.2.2. Những bất cập và hướng khắc phục trong các qui định pháp luật về hoàn thuế, khấu
trừ thuế GTGT......................................................................................................................53


1


2.2.3. Những bất cập và hướng khắc phục trong các qui định pháp luật về hoàn thuế thu
nhập cá nhân.........................................................................................................................55
2.3. Bảo đảm chống đánh thuế trùng (đánh thuế hai lần) đối với các khoản thu nhập cá
nhân ......................................................................................................................................57
2.3.1. Trường hợp trùng thuế do sự khác biệt về pháp luật thuế giữa các quốc gia ...........58
2.3.2 Trường hợp trùng thuế do quy định của pháp luật trong nước. .................................59
2.4. Đảm bảo quyền kinh tế, xã hội của con người khi xác định các khoản thu nhập không
chịu thuế, miễn giảm và chiết trừ gia cảnh ..........................................................................62
2.5. Cơ chế đảm bảo quyền khiếu nại, khởi kiện cán bộ thuế và cơ quan thuế ...................64
2.5.1. Khái quát quyền khiếu nại, khởi kiện trong lĩnh vực thuế.........................................64
2.5.2. Nội dung pháp lý về quyền khởi kiện quyền khiếu nại của công dân trong lĩnh vực
thuế.......................................................................................................................................65
2.5.3. Thực tiễn đảm bảo quyền khiếu nại, khởi kiện của người nộp thuế ..........................68
2.6. Bảo đảm quyền con người trong điều tra và tố tụng thuế .............................................69
2.7. Quyền được bảo mật thông tin và quyền riêng tư.........................................................74
KẾT LUẬN..........................................................................................................................76
TÀI LIỆU SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO ........................................................................77

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT VÀ GIÁ TRỊ ỨNG DỤNG
Nộp thuế là nghĩa vụ của công dân trong một xã hội có nhà nước. Nghĩa vụ
thuế là nghĩa vụ nặng nề xét về mức độ, lớn nhất xét về giá trị tiền tệ, bao quát nhất
nếu xét về phạm vi điều chỉnh. Nhà nước có quyền thu thuế và sẽ sử dụng tồn bộ

các cơng cụ quyền lực đặc biệt để thực thi quyền này. Ngược lại, các tổ chức, cá
nhân cịn lại có nghĩa vụ nộp thuế.
Quan niệm như vậy về thuế thể hiện hầu hết trong các sách giáo khoa, tài
liệu về thuế vì đó là quan điểm chính thống được xây dựng trên học thuyết về quyền
lực nhà nước. Quan điểm này khơng có gì phải bàn thêm dưới phương diện học
thuật lẫn thực tiễn áp dụng nếu như chúng ta khơng tuyệt đối hóa tính một chiều và
mặc nhiên trong nghĩa vụ thuế của công dân, đặc biệt là hiểu lệch lạc mối quan hệ
giữa nhà nước và công dân trong lĩnh vực thuế. Hệ quả tệ hại của hiện tượng này tất
yếu dẫn đến sự gia tăng gánh nặng thuế của công dân, những quyền lợi đối ứng và
phái sinh từ nghĩa vụ nộp thuế của công dân không được bảo vệ một cách thích
đáng và phù hợp. Tư duy này tạo cố tình đẩy người nộp thuế sang bên kia “chiến
tuyến”, đối trọng và xung đột lợi ích với nhà nước. Trầm trọng hơn khi thuế trở
thành gánh nặng cho người tuân thủ pháp luật, những cơng dân “ngoan”, ngược lại
thuế lại “ngồi vùng phủ sóng” đối với những tổ chức, cá nhân khác.
Đề tài này được nghiên cứu với kỳ vọng là nhận diện yếu tố quyền con
người, quyền công dân qua lăng kính, vị thế của người nộp thuế trong quan hệ pháp
luật thuế cùng cơ chế đảm bảo các quyền này trong thực tế. Khi chọn đề tài này
nhóm nghiên cứu cũng dự báo rằng yếu tố quyền con người, quyền cơng dân trong
pháp luật thuế khá mơ hồ vì chúng tồn tại gián tiếp và phái sinh từ nghĩa vụ nộp
thuế.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
a) Đối tượng nghiên cứu:
Quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực chính trị và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội như quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu về tài sản,
quyền học tập, quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh sáng chế, quyền tự
do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập hội, tự do tín
ngưỡng.. được thể hiện rõ nét trong pháp luật và các công ước, tuyên bố.về quyền

3



con người. Trong quan hệ thuế giữa nhà nước và cơng dân, quyền cơng dân thể hiện
qua hai hình thái:
i) Nhóm quyền trực tiếp phái sinh từ nghĩa vụ nộp thuế. Trong trường hợp
này quyền con người, quyền công dân thể hiện qua khái niệm “quyền của người nộp
thuế”;
ii) Nhóm quyền gián tiếp với tư cách là một công dân. Song hành với nghĩa
vụ nộp thuế, cơng dân đó có quyền được tiếp nhận và thụ hưởng toàn bộ các quyền
chính trị - xã hội- kinh tế theo nghĩa rộng.
Trong báo cáo này, yếu tố quyền con người, quyền công dân được nhận diện
và xem xét theo hình thái thứ nhất, tức là các quyền của người nộp thuế. Các quyền
công dân không gắn liền và không phát sinh trực tiếp khi tham gia quan hệ pháp
luật thuế nếu được đề cập chỉ là minh họa cho nhóm quyền thứ nhất.
b) Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân thể hiện xuyên suốt trong
tất cả giai đoạn của chu trình thuế; từ việc ban hành văn bản pháp luật thuế, tổ chức
thực thi pháp luật thuế, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, tài phán hành chính liên
quan thuế. Tuy nhiên, trong khả năng và giới hạn về các nguồn lực và thời gian,
chúng tôi lựa chọn đối tượng và giới hạn phạm vi của đề tài như sau:
-

Nghiên cứu các nội dung cơ bản trong nhóm quyền của người nộp thuế,
trong mối quan hệ với nghĩa vụ nộp thuế và ghi nhận trong pháp luật thuế
mà khơng xem xét các quyền chính trị, xã hội, kinh tế của công dân.

-

Trong báo cáo này cũng đề cập đến kinh nghiệm pháp luật nước ngoài. Việc
chọn mẫu để khảo sát giới hạn trong pháp luật các quốc gia thành viên

OECD và Cộng Hòa Liên Bang Nga.

3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC BƯỚC THỰC
HIỆN
Mục tiêu: nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, quyền con người, quyền cơng
dân khơng có bất kỳ giá trị hoặc ý nghĩa nào nếu khơng có một cơ chế đảm bảo thực
thi. Xét cho cùng, việc tiếp nhận và thụ hưởng các quyền con người, quyền công
dân chỉ hiện hữu khi được bảo đảm bằng công cụ và các phương thức cụ thể. Vậy
nên mục tiêu nghiên cứu của đề tài này:

4


a) Nhận diện và kiến nghị bổ sung các nội dung cấu thành quyền của người nộp
thuế;
b) Phân tích các biện pháp bảo đảm để người nộp thuế tiếp nhận và thụ hưởng
quyền này được một cách hiệu quả nhất trên thực tế.
Nhiệm vụ và các bước thực hiện: Để đạt được mục tiêu nói trên, nhóm
nghiên cứu xây dựng lộ trình thực hiện và các nhiệm vụ sau:

5


XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG, KẾ HOẠCH
LÀM VIỆC

GIAI ĐOẠN 1
THU THẬP TÀI LIỆU/ SỐ LIỆU/ BẢN
ÁN/ KHẢO SÁT SỐ LIỆU


ĐỀ
CƯƠNG/
BẢN
THUYẾT
MINH ĐỀ
TÀI

NHẬN DIỆN QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN TRONG PL
THUẾ

GIAI ĐOẠN 2

LÝ GIẢI SỰ TỒN TẠI, CƠ SỞ HÌNH
THÀNH VÀ NGUYÊN LÝ HÌNH
THÀNH QUYỀN CN, QUYỀN CD
TRONG PL THUẾ

CHƯƠNG
I
BÁO CÁO

NGHIÊN CỨU SO SÁNH CÁC NỘI
DUNG QUYỀN CỦA NGƯỜI NỘP
THUẾ THEO PL VN VA CÁC NƯỚC

PHÂN TÍCH CƠ SỞ HÌNH THÀNH
CÁC QUYỀN CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ

GIỚI THIỆU NỘI DUNG CÁC QUYỀN

CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ

GIAI ĐOẠN 3

CHƯƠNG
II
BÁO CÁO

KẾT LUẬN/ NHẬN ĐỊNH VỀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUYỀN NÀY

BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP KHẮC
PHỤC CÁC TỒN TẠI

HOÀN TẤT HỒ SƠ/ BÁO CÁO ĐỀ TÀI

GIAI ĐOẠN 4

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

6

HỒ SƠ/
BÁO CÁO
TÓM TẮT


- Để thực hiện các mục tiêu nói trên, nhóm nghiên cứu thống nhất vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và theo chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về nền nhà nước và pháp luật.

Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử được sử dụng để giải thích
những vấn đề về nhà nước và pháp luật, mối liên hệ giữa nhà nước và công dân,
nguồn gốc ra đời của nhà nước và thuế.
Cở sở lý luận hình thành quyền của người nộp thuế và các biện pháp bảo
đảm quyền này được xem xét, lý giải và đề xuất trong mối liên hệ, tương tác với các
yếu tố nghĩa vụ của cơng dân trong xã hội có nhà nước
Kết quả nghiên cứu cũng được hình thành trên cơ sở vận dụng phương pháp
so sánh pháp lý. Kinh nghiệm pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực bảo vệ quyền của
đối tượng nộp thuế được so sánh, đối chiếu và áp dụng có chọn lọc theo đúng chủ
trương hội nhập.
Nhóm thực hiện:
Đề tài được nghiên cứu và hoàn thành với sự trợ giúp và cung cấp tài liệu, số
liệu của:
ThS Phan Phương Nam, GV Đại học Luật Tp HCM
ThS Trần Minh Hiệp, GV Đại học Luật Tp HCM
Bà Dỗn Thu Thủy, Phó phịng Kiểm tra 2, Cục Thuế Tp HCM
Hỗ trợ kinh phí: Trung tâm nghiên cứu pháp luật quyền con người, quyền
công dân- Đại học Luật Tp HCM

5. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG VÀ ĐỊA CHỈ ỨNG DỤNG
Kết quả nghiên cứu nói trên có thể được sử dụng cho các chủ thể và các mục
đích sau:
- Cơ quan lập pháp để sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan quyền của đối
tượng nộp thuế trong Luật quản lý thuế và các văn bản pháp luật thuế Thu nhập cá
nhân, thuế GTGT;
-Tổng cục thuế, các cục thuế tỉnh và tổ chức thực hiện, thanh tra giám sát hoạt
động thu nộp thuế và giải quyết các tranh chấp liên quan;
-Các công ty và cá nhân là người nộp thuế theo Luật quản lý thuế nhằm nâng
cao nhận thức, hiểu và tiếp nhận các quyền của mình để tư bảo vệ tốt hơn, hiệu quả
hơn trong quan hệ thu nộp thuế;


7


-Các cơ sở đào tạo, học viên, sinh viên trong mục đích đào tạo, nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo, tài liệu giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo đại học, sau đại học các ngành luật thuế, tài chính.
Dự báo tác động:
-Kết quả nghiên cứu tập trung ở nội dung lý thuyết, có giá trị góp thêm quan
điểm về cách hiểu quyền cơng dân/ quyền của người nộp thuế.
-Một vài kiến nghị, giải pháp đề cập trong báo cáo này chỉ mới mục tiêu tạo sự
cơng bằng và bảo vệ lợi ích của người nộp thuế. Những giải pháp này có thể áp
dụng thành cơng và mang kết quả tích cực nếu được áp dụng trong bối cảnh kinh tế
ổn định, hoạt động đầu tư công mang lại hiệu quả, hệ thống pháp luật về tố tụng
hành chính hồn thiện và tự bản thân người nộp thuế hiểu và có nhu cầu tiếp nhận
các quyền của luật định của họ.
Bản Báo cáo này chia làm hai chương, cụ thể như sau:

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NHẬN DIỆN VÀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON
NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN TRONG PHÁP LUẬT THUẾ
1.1 Khái quát quyền con người và quyền công dân trong pháp luật thuế
1.1.1. Nhận diện một số khái niệm liên quan
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là quyền con người, quyền công dân
trong hệ thống pháp luật thuế Việt Nam. Vậy nên để cung cấp những cơ sở lý thuyết
ban đầu cho việc nghiên cứu, những khái niệm/ vấn đề được lựa chọn để khảo sát,
bao gồm: i) khái niệm quyền con người; ii) khái niệm quyền công dân. Qua đó xem

xét sự tương đồng và khác biệt trong hai khái niệm theo các quan điểm tồn tại trong
khoa học pháp lý.
Quyền con người và quyền công dân là những phạm trù gắn liền với lịch sử
đấu tranh giải phóng con người, nên cách tiếp cận và nội hàm có thể có sự khác
biệt, phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, thế chế chính trị và tư tưởng pháp lý.
a) Quyền con người

Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau. Theo thống kê của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con
người đã được công bố1. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định,
chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả
các thuộc tính của quyền con người.
Định nghĩa của Văn phịng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người
thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ
mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements)
và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người2.

1 United Nations: Human Rights: Question and Answers, Geneva, 1994.
2 United Nations, UNHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation,
New York and Geneva, 2006, tr.8.

9


Quyền con người là một tập hợp quyền không thể tách rời, mà mỗi người có
được khơng phụ thuộc vào chủng tộc, dân tộc, tơn giáo, giới tính, màu da, địa vị xã
hội hoặc bất kỳ dấu hiệu nào khác. Mỗi người ngang bằng trong tiếp nhận các
quyền này và được bảo đảm thực thi trên thực tế, không phân biệt đối xử. Các

quyền này gắn liền, phụ thuộc và thống nhất với nhau3
Theo các nghiên cứu đã công bố4, có hai trường phái trái ngược nhau về khái
niệm quyền con người:
Một là, học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights). Học thuyết này có ý
tưởng manh nha từ thời Hy lạp cổ đại. Thật vậy, nhà triết học Zeno (333-264 TCN)
đã phát biểu rằng, không ai sinh ra đã là một nô lệ hết cả, địa vị nô lệ là do họ bị
tước đoạt tự do vốn có của con người. Tư tưởng này sau đó được nhiều triết gia tái
khẳng định và phát triển, trong đó tiêu biểu nhất là Thomas Hobbes (1588–1679) và
Thomas Paine (1731–1809) cho rằng quyền con người chính là quyền được tự
nhiên, tạo hóa ban cho. Quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập qn,
truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng
đồng hay nhà nước nào; và không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban
phát hay tước bỏ các quyền con người.
Hai là, học thuyết về quyền pháp lý. Học giả tiêu biểu cho trường phái này
có thể kể đến là Edmund Burke (1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Thật
vậy, Edmund Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (1770), và
Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán học thuyết về các quyền tự nhiên, không
thể chuyển nhượng (1843) cùng cho rằng ý tưởng về các quyền tự nhiên là vô nghĩa
(nonsense upon stilts), và chẳng có quyền nào lại khơng thể chuyển nhượng được
(inalienable). Trường phái này cho rằng các quyền con người không phải là những
gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước quy định trong
pháp luật. Như vậy, theo học thuyết này, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định,
cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp
thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa...của các xã
hội.
Dù chưa có sự đồng nhất về nội hàm quyền con người trong học thuật song
nội dung các quyền con người thì khơng có sự khác biệt lớn trong nhận thức và cơ
chế pháp lý bảo vệ quyền con người. Thậy vậy, nội dung của quyền con người có
3 />4 Khoa Luật – ĐHQGHN, Giáo Trình Lý Luận Và Pháp Luật Về Quyền Con Người (2009), H, NXB Chính trị quốc gia.


10


thể bao gồm nhiều nhóm với các đặc thù khác nhau, như: i) Nhóm quyền con người
trong lĩnh vực chính trị; ii) Nhóm quyền con người trong lĩnh vực kinh tế- xã hội;
iii) Nhóm quyền con người trong lĩnh vực tự do tơn giáo, tín ngưỡng, ….
Theo GS Hồng Văn Hảo thì vấn đề quyền con người, quyền cơng dân trở
thành một nội dung chính của lịch sử lập hiến. Luật về các quyền của Anh sau Cách
mạng 1689, Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Pháp, hiến pháp của tất cả các nước, dù ở chế độ xã hội nào (tư bản,
xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển) đều có chế định quyền con người,
quyền cơng dân. Đó là nội dung cơ bản nhất của mỗi hiến pháp, nội dung quan
trọng đến mức nếu khơng có chế định quyền con người, quyền cơng dân thì cũng
khơng thể có bản thân hiến pháp. Nội dung đó chi phối kết cấu của bản hiến pháp,
chế định quyền công dân thường được đặt lên hàng đầu trong hiến pháp của nhiều
nước5.
b) Quyền công dân
Trong các tài liệu, bên cạnh khái niệm quyền con người, cịn tồn tại khái
niệm quyền cơng dân (dân quyền). Quyền con người và quyền công dân là hai phạm
trù rất gần gũi nhưng không đồng nhất.
Về bản chất, các quyền cơng dân chính là những quyền con người được các
nhà nước thừa nhận và áp dụng cho cơng dân của mình. Với ý nghĩa là một khái
niệm gắn liền với nhà nước, được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc
biệt là quốc tịch. Cho nên, nội dung quyền công dân phụ thuộc vào thể chế chính trị,
hình thức nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước và công dân của mỗi quốc gia.
Nội dung quyền công dân bao gồm quyền bầu cử, quyền tự do cư trú, quyền được
lao động; quyền sở hữu; quyền tự do kinh doanh … Nội dung và phạm vi của quyền
này có thể thay đổi phụ thuộc vào từng quốc gia, từng thời điểm6.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, trong thời gian qua

Việt Nam luôn khẳng định và mục tiêu đảm bảo quyền con người. Thật vậy, Hiến
pháp năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người và
5 Hoàng Văn Hảo, Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân.: Trung tâm Nghiên cứu quyền con người
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Viện Raoul Wallenberg về Quyền con người và Luật nhân đạo – Đại học Lund –
Thụy Điển: Hiến pháp, pháp luật và quyền con người – Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, Hà Nội, 2001, tr. 148.
6 Khoa Luật, ĐH Quốc Gia Hà Nội [2010] Hỏi đáp về quyền con người, Hà Nội. NXB CAND.

11


khẳng định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tơn trọng, thể hiện ở các quyền
công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”.
1.1.2. Nhận diện quyền con người, quyền công dân trong pháp luật thuế.
Nhằm cung cấp các luận điểm cơ sở phục vụ cho các nội dung còn lại của đề
tài này, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là giải quyết các câu hỏi sau: Trong lĩnh vực
thuế cơng dân có những quyền gì? Nội dung và dạng thức tồn tại của quyền con
người, quyền công dân trong pháp luật thuế?
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quyền con người, quyền công dân trong pháp
luật thuế không được ghi nhận một cách trực tiếp như trong pháp luật hành chính,
pháp luật dân sự bằng những quy phạm pháp luật cụ thể mô tả các quyền cụ thể.
Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa rằng trong pháp luật thuế không hàm chứa
quyền công dân, quyền con người.
Trước đây, trên đường phố Việt Nam có thể dễ dàng nhìn thấy khẩu hiệu có
nội dung: “nộp thuế là quyền và nghĩa vụ của công dân”. Một số ý kiến mỉa mai
khẩu hiệu này vì cho rằng dễ dàng nhận thấy nộp thuế là nghĩa vụ của cơng dân
nhưng khó chứng minh rằng nộp thuế là quyền của công dân.
Trong pháp luật thực định Việt Nam trước đây, cho dù Hiến pháp hay bất kỳ
các văn bản pháp luật nào, kể cả các văn bản pháp luật thuế cũng thể hiện tư tưởng
quyền năng thu thuế của nhà nước và nghĩa vụ nộp thuế của công dân, mà không

ghi nhận trực tiếp bất cứ một hình thái quyền cơng dân nào trong lĩnh vực thuế.
Sau khi khảo sát và phân tích bản chất thuế, nghĩa vụ thuế của cơng dân,
nhóm nghiên cứu kết luận rằng:
Một là, không phủ nhận rằng quan hệ thu nộp thuế là quan hệ hành chínhkinh tế, ở đó nhà nước được quyền ban hành, ấn định các khoản thu thuế, công dân
phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Mục tiêu của pháp luật thuế là đảm bảo quyền thu
thuế của nhà nước, nội dung chủ yếu pháp luật thuế là thiết lập cơ chế hành chính pháp lý nhằm tận thu, tăng thu cho ngân sách nhà nước, chống thất thu thuế, chống
trốn thuế; thiết lập các chế tài cưỡng chế, trừng trị người nộp thuế khi vi phạm pháp
luật thuế. Hiến pháp Việt Nam 1992 chỉ quy định “Cơng dân có nghĩa vụ đóng thuế
và lao động cơng ích theo quy định của pháp luật”7

7 Điều 80 Hiến Pháp 1992

12


Hai là, không thể bác bỏ học thuyết quyền lực nhà nước khi cho rằng nhà
nước là chủ thể mang trong mình quyền lực nhà nước, trong đó có quyền năng đặc
biệt là quyền thu thuế của công dân.
Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa quan điểm quyền thu thuế của nhà nước có thể
dẫn đến những hệ lụy nhất định, cụ thể là quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân không được đảm bảo.
Chắc chắn rằng, việc lạm dụng quyền lực hành chính khi ban hành và thực
hiện pháp luật thuế mà không chú trọng đến yếu tố “khoan sức dân” thì hệ thống
thuế của quốc gia đó sẽ thất bại. Yếu tố quyền con người, quyền công dân phải
được chú trọng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khi ban hành, tổ chức thực thi một
sắc thuế
Vậy nên,cần một tư duy mới về nghĩa vụ thuế của cơng dân. Theo đó nghĩa
vụ nộp thuế của công dân phải song hành với quyền của công dân. Ngược lại, quyền
thu thuế của nhà nước được đánh đổi bởi các nghĩa vụ nhất định của nhà nước trước
công dân của mình.

Sau khi khảo sát, nghiên cứu để nhận diện các yếu tố quyền con người,
quyền công dân trong lĩnh vực thuế, nhóm nghiên cứu đề xuất các giả thuyết sau:
Thứ nhất, trong pháp luật thuế yếu tố quyền con người mờ nhạt và khơng có
ý nghĩa nhiều, song quyền công dân với tư cách là quyền người nộp thuế thể hiện
khá rõ ràng, cụ thể. Trong pháp luật thuế, khái niệm quyền con người sẽ mãi mãi
dừng lại là khái niệm lý thuyết nếu chúng không được đặt trong một quốc gia nhất
định, trong một hệ thống pháp luật nhất định và bên cạnh nghĩa vụ thuế. Hay nói
cách khác, quyền con người trong pháp luật thuế phải gắn liền khái niệm “quốc
tịch”, “quốc gia”, “pháp luật”, “nghĩa vụ thuế” của công dân. Một công dân quốc
gia A không thể khiếu nại yêu cầu nhà nước B đảm bảo cho mình các quyền cơng
dân tương tự các cơng dân của quốc gia B, bởi lẽ cơng dân đó không nộp thuế vào
ngân sách nhà nước quốc gia B giống như công dân của quốc gia B. Như vậy, nghĩa
vụ nộp thuế của công dân song hành với các quyền của công dân. Đa phần quyền
con người trong pháp luật thuế chính là quyền của người nộp thuế. Xét về bản chất
đây là quyền phái sinh từ nghĩa vụ nộp thuế.
Thứ hai, theo nghĩa hẹp, yếu tố quyền con người, quyền công dân trong
pháp luật thuế là các quyền phái sinh từ nghĩa vụ nộp thuế. Ví dụ: quyền được
hồn thuế, quyền được bảo mật thơng tin, dữ liệu thuế, quyền được yêu cầu cung
cấp biểu mẫu để kê khai, nộp thuế; quyền được cung cấp thông tin về thuế, quyền
13


được yêu cầu kiểm toán trong trường hợp bất đồng trong tính thuế, quyền được khởi
kiện quyết định hành chính8 và hành vi hành chính9 của cơ quan thuế và quan chức
ngành thuế. Quyền phái sinh từ nghĩa thuế tức là những quyền không mặc nhiên của
con người hay của mọi công dân mà chúng chỉ được trao cho người nộp thuế cụ thể
và chỉ phát sinh trong và sau tham gia quan hệ pháp luật thuế. Những cá nhân
không tham gia quan hệ pháp luật thuế, không đăng ký kê khai với tư cách là người
nộp thuế khơng có những quyền này.
Thứ tư, nếu hiểu yếu tố quyền con người, quyền cơng dân theo nghĩa rộng

hơn thì đó là các quyền của công dân liên quan đến lĩnh vực thuế. Ví dụ: quyền
được đối xử cơng bằng trước thuế, quyền được hưởng các chế độ miễn giảm thuế,
quyền được tiếp cận thông tin về thuế.
Thứ năm, nếu xem xét bản chất của quyền cơng dân thì là tồn bộ các quyền
với tư cách một công dân của một quốc gia song hành với nghĩa vụ thuế của công
dân, bởi nghĩa vụ thuế là nghĩa vụ quan trọng nhất của cơng dân. Phạm vi nhóm
quyền này có thể là quyền được hưởng các tiện ích và phúc lợi cơng cộng mà nhà
nước với tư cách là chủ thể quyền lực cung cấp. Những lợi ích vật chất hay tinh
thần mà nhà nước cung cấp là những giá trị đặc biệt mà khơng chủ thể nào trong xã
hội có khả năng thực hiện như: xây dựng các cơng trình cơng cộng, cung ứng phúc
lợi xã hội, ban hành pháp luật, thành lập các cơ quan quản lý, cơ quan tư pháp10.
Toàn bộ các quyền công dân được ghi nhận trong Hiến Pháp và các luật chuyên
ngành xét cho cùng chỉ đảm bảo thực hiện được nếu công dân thực hiện nghĩa vụ
đóng thuế.
Những nhận định nêu trên của chúng tơi khơng mới trong tư duy pháp luật
thuế và kỹ thuật hành thu thuế tại các nước. Tại Việt Nam quan niệm này được biết

8 Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các
cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với
một hoặc một số đối tượng cụ thể - Theo Đ 3 Luật Tố tụng hành chính đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ tám thơng qua ngày 24-11-2010.
9 Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong
cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc khơng thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Theo Điều 3 Luật Tố tụng
hành chính đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ tám thơng qua ngày 24-11-2010.
10 Phan Thị Thành Dương (2005) Một số vấn đề pháp lý về quyền của đối tượng nộp thuế, Tạp chí Khoa Học Pháp Lý, số 01
năm 2005

14



đến11 nhưng chỉ dưới phương diện lý thuyết mà chưa được luật hóa một cách cụ thể
rõ ràng trong văn bản pháp luật và trong cơ chế tổ chức thực thi pháp luật thuế.
1.2.3. Thuế và quan hệ giữa công dân và nhà nước dưới góc độ pháp luật thuế
Để cung cấp cơ sở lý luận cho những nhận định nói trên về quyền con người,
quyền cơng dân trong pháp luật thuế, cũng như để chứng minh rằng nhu cầu phải
đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong quan hệ thuế, nhóm nghiên cứu
tiến hành xem xét các vấn đề: i) thuế và bản chất của thuế; ii) mối liên hệ giữa nhà
nước và công dân trong pháp luật thuế.
Chúng tôi kỳ vọng rằng khi xem xét bản chất của thuế, bản chất nghĩa vụ thuế
của công dân đối với nhà nước sẽ góp phần chứng minh rằng cơng dân có những
quyền nhất định trong thuế, cho dù đó là những quyền phái sinh trực tiếp từ nghĩa
vụ nộp thuế hay gián tiếp từ bản chất quan hệ giữa nhà nước và công dân.
a) Thuế và bản chất của thuế.

Trên cơ sở các khái niệm về thuế trong các giáo trình, chun khảo trong và
ngồi nước, có thể khái quát thuế như sau: Thuế là khoản nộp bắt buộc mang tính
cưỡng chế bằng pháp luật mà các cá nhân, tổ chức phải nộp vào ngân sách nhà
nước. Các khoản nộp này khơng mang tính đối giá và khơng mang tính hồn trả
trực tiếp cho người nộp thuế12. Khảo sát các học thuyết cổ điển về thuế đều cho cho
thấy bản chất của thuế được thể hiện rõ nhất ở bốn điểm sau:
- Thuế là khoản trích nộp bằng tiền của tổ chức, cá nhân cho nhà nước;
- Thuế là khoản đóng góp bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước;
- Thuế là khoản thu khơng có hồn trả;
- Thuế là khoản thu khơng có đối khoản trực tiếp13.
Trong các tài liệu nghiên cứu, tồn tại nhiều khái niệm khác nhau, do các tác
giả tiếp cận từ góc độ kinh tế, pháp luật, xã hội học14.

11 Phan Thị Thành Dương (2005) Một số vấn đề pháp lý về quyền của đối tượng nộp thuế, Tạp chí Khoa Học Pháp Lý, số 01
năm 2005
12 Khoa Luật Thương mại, ĐH Luật Tp HCM (2009) Tập Bài giảng Luật Thuế, NXB Đại học Quốc Gia TpHCM, Chủ biên TS

Nguyễn Thị Thủy
13 TS Nguyễn Văn Tuyến (2009) Bản chất của thuế – Sự tiếp cận từ các học thuyết thuế cổ điển và hiện đại Tạp chí Luật học,
Số 4/2009

15


Dưới góc độ pháp lý, thuế là nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước. Nghĩa
vụ này được thể hiện bằng pháp luật và đảm bảo thực thi bằng cơng cụ pháp luật.
Nhà nước tự trao cho mình “đặc quyền” thu thuế vàấn định nghĩa vụ nộp thuế của
các chủ thể khác.
Dưới góc độ kinh tế- xã hội, thuế là sự động viên của cải toàn xã hội để tái
phân phối lại hướng đến mục tiêu công bằng. Về bản chất kinh tế, thuế là giá cả mà
công dân phải trả khi sử dụng và hưởng lợi các lợi ích công công và dịch vụ công
và từ phía nhà nước. Vậy nên, thuế là quá trình chuyển dịch thu nhập xã hội từ khu
vực tư vào khu vực công. Thuế là quá trình chuyển chi tiêu tư thành chi tiêu cơng.
Một số học thuyết chính trị- tơn giáo trong lịch sử giải thích sự ra đời của
nhà nước và pháp luật là sản phẩm của đấng thần linh tối cao15. Theo đó, nghĩa vụ
nộp thuế của cơng chúng được ghi nhận như là một nghĩa vụ tự nhiên gắn liền với
thân phận của dân chúng, nghĩa vụ này được định đoạt bởi thượng đế và các đấng
thần linh tối cao. Quyền thu nhận, sử dụng các khoản cống nộp từ dân chúng là
quyền của vua chúa và được định đoạt bởi giới thần linh.
Nếu khảo sát nguồn gốc nhà nước dưới góc độ duy vật lịch sử cho thấy lịch
sử hình thành và phát triển nhà nước gắn liền với các hình thái kinh tế- xã hội cụ
thể. Thuế được qui định bởi nhà nước, hay cụ thể hơn là bởi những con người cụ thể
đứng đầu nhà nước đó. Thuế ra đời, tồn tại, phát triển gắn liền phạm trù nhà nước
và pháp luật. Việc ban hành, chấm dứt hay thay đổi một sắc thuế do con người
quyết định dựa trên cơ sở là các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và tương quan lợi
ích giữa nhà nước và cơng dân.
Tóm lại, thuế là hiện tượng tất yếu và gắn liền trong xã hội có nhà nước.

Thuế không là hiện tượng tự nhiên mà do con người xác lập và quy định. Nhận diện
đúng bản chất của thuế sẽ lý giải được mối quan hệ giữa nhà nước, công dân và
thuế, lý giải được bản chất của cặp đôi khái niệm “nghĩa vụ nộp thuế của công
dân” và “quyền công dân của người nộp thuế” ở phần tiếp theo.
14 Xem các tài liệu sau: Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và
đồ vật (như giao dịch, tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm điều tiết các
hoạt động kinh tế-xã hội (Nguyễn Hồng Thắng, (1998) Thuế, NXB Thống kê, Hà Nội, Tr 27.)
Theo E. Seligman: thuế là đóng góp cưỡng bách của mỗi người cho chính phủ để trang trải các chi phí vì quyền lợi chung,
khơng căn cứ vào các lợi riêng được hưởng (Nguyễn Hồng Thắng (tlđd))
15 Xem: Vengerơp A.B. (2000) Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật- Phần 1,. Matcơva, NXB Iuricprudensia; Xem
thêm: TS Đinh Văn Mậu- TS Phạm Hồng Thái, (1997) Lịch sử các học thuyết pháp lý, NXB TP HCM, Tr. 10-11.

16


b) Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân dưới phương diện thuế

Khảo sát mối liên hệ giữa nhà nước và cơng dân, hình thái và biểu hiện của
liên hệ này thơng qua nghĩa vụ thuế có thể làm sáng tỏ bản chất của nghĩa vụ thuế
của công dân. Từ đó có thể nhận diện cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân trong quan hệ pháp luật thuế.
Quan hệ giữa nhà nước và công dân dưới phương diện pháp luật thuế được
chúng tôi xem xét thông qua các nội dung dưới đây:
Một là, nhà nước và nghĩa vụ thuế của công dân là hai hiện tượng tồn tại
song hành, chi phối và hỗ trợ lẫn nhau.
Thuế và các nghĩa vụ tương tự thuế ra đời, tồn tại song hành với sự ra đời,
tồn tại của nhà nước. Nhận định này đã được khảo sát và chứng minh trong các tài
liệu nghiên cứu về lịch sử, nguồn gốc ra đời của nhà nước và thuế16. Tuy nhiên bản
chất của thuế phụ thuộc vào bản chất của nhà nước. Nếu một nhà nước dân chủ,
công bằng và nhân đạo thì hệ thống thuế của quốc gia đó cũng cơng bằng, nhân đạo

và quyền con người, quyền cơng dân tại quốc gia đó được chú trọng đúng mức và
ngược lại. Vì vậy, khi nghiên cứu nội dung quyền con người, quyền công dân trong
hệ thống pháp luật thuế không thể tách rời thuế ra khỏi quan hệ với nhà nước.
Các quan điểm về một xã hội có nhà nước nhưng khơng có thuế đã cố gắng
xây dựng trong lịng dân chúng hình ảnh xã hội khơng thuế nhằm lôi kéo sự ủng hộ
của dân chúng đối với các đường lối chính trị của đảng mình làm lu mờ hoặc phủ
nhận vai trị của chính phủ và nhà nước trong các hoạt động kinh tế và hoạt động xã
hội17. Những quan điểm này mang màu sắc chính trị nhiều hơn là một luận điểm
khoa học và lịch sử. Như vậy, khơng q khó để chứng minh rằng thuế và nhà nước
là hai hiện tượng song hành, chi phối, hỗ trợ lẫn nhau
Hai là, nghĩa vụ thuế của cơng dân đảm bảo nguồn lực tài chính để nhà nước
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thậy vậy, trong xã hội có nhà nước, bên cạnh thuế, mỗi cơng dân có thể cịn
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác như các khoản đóng góp cộng đồng, các
16 C.Mác đã viết “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước” (Mác-Ăng ghen tuyển tập, NXB sự thật, Hà nội, 1961); Ăng
ghen cũng đã viết “ Để duy trì quyền lực cơng cộng, cần phải có sự đóng góp của cơng dân cho nhà nước, đó là thuế” (Ăng
ghen: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước, NXB sự thật, Hà nội, 1962).
17 TS. Nguyễn Văn Tuyến, Tlđd; xem thêm: Michel Bouvier, Nhập môn luật thuế đại cương và học thuyết thuế, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 286

17


nghĩa vụ tài chính của thành viên các tổ chức chính trị, xã hội, tơn giáo. Tuy nhiên,
nghĩa vụ thuế cho nhà nước là nghĩa vụ quan trọng, bắt buộc và lớn nhất về giá trị18.
Điều này có nghĩa, “thu nhập” của nhà nước có nhiều nguồn khác nhau nhưng
nguồn thu cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn nhất và thường xuyên là nguồn thu từ thuế.
Sự thật hiển nhiên rằng nếu công dân không thực hiện nghĩa vụ thuế, thiếu nguồn
lực tài chính cơng thì nhà nước khơng thể vận hành và thực thi các chức năng của
mình. Như vậy, nghĩa vụ thuế của công dân tồn tại song hành và chi phối đến hiệu

quả vận hành của nhà nước. Trong một chừng mực nhất đinh có thể khẳng định
rằng, nghĩa vụ thuế của công dân quyết định sự tồn tại của nhà nước vì nhà nước
khơng thể tồn tại và vận hành nếu thiếu các nguồn lực tài chính.
Ba là, nghĩa vụ thuế của cơng dân là tiền đề để công dân tiếp nhận và thụ
hưởng các quyền của mình.
Thậy vậy, quỹ ngân sách nhà nước được sử dụng để phân phối lại cho công
dân và đảm bảo hoạt động của nhà nước. Mặc dù các khoản chi ngân sách nhà nước
được chia làm nhiều khoản, mục chi với tên gọi khác nhau, trong đó có chi đầu tư
phát triển, chi hoạt động quản lý nhà nước và chi trực tiếp cho công dân, tuy nhiên,
xét mục tiêu cuối cùng, chủ thể được thụ hưởng từ mọi khoản chi của ngân sách nhà
nước vẫn là công dân. Công dân có thể là người thụ hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
từ các khoản chi ngân sách nhà nước. Các khoản chi đầu tư phát triển, chi quản lý
nhà nước, chi an ninh quốc phịng…. thì người hưởng lợi cuối cùng là người dân19.
Một trong những người đề xuất cơ sở lý thuyết ban đầu về quyền cơng dân,
có thể kể đến nhà triết học John Locke (1632-1704). Với tư tưởng của trường phái
triết học “khai sáng” ông đã khái quát quan hệ giữa nhà nước và công dân qua khái
niệm “khế ước xã hội”. Xét dưới phương diện nguồn gốc của nhà nước và thuế, có
thể nhận thấy: trong quan hệ với nhà nước, quyền và nghĩa vụ của cơng dân song
hành với nhau. Khơng phải khơng có cơ sở khi các học giả của “học thuyết khế

18 Theo kế hoạch cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2015, Bộ Tài Chính cơng bố ngày 18 tháng 10 năm 2011 “Tỷ lệ động
viên thu NSNN bình quân đạt 23% GDP (không bao gồm yếu tố tăng giá, do giá dầu thô ở mức cao và thu từ đất đai) trong đó
động viên từ thuế và phí vào NSNN bình quân đạt 22% GDP so với mục tiêu Chiến lược cải cách hệ thống đến năm 2010 đặt ra
là 20-21% GDP.
19 Chúng tơi khơng phủ nhận tính khơng đối giá và khơng hồn trả trực tiếp của thuế. Nhưng xét cho cùng, trong một nhà nước
dân chủ, các khoản thuế thu từ dân và chi cho dân. Xem thêm: Trường ĐH Luật Tp HCM (2009) Tập Bài giảng Luật thuế, NXB
Đại Học Quốc Gia, 2009, Tr. 17

18



ước” khi giải thích sự ra đời và tồn tại của nhà nước là một thỏa thuận tương tự
quan hệ hợp đồng20.
Bốn là, tiền thuế của công dân hỗ trợ để nhà nước đảm bảo quyền con người,
quyền công dân của chính họ.
Tất cả các quyền con người ghi nhận trong bất kỳ bản hiến chương, tuyên
ngôn hay điều ước quốc tế sẽ trở nên vô nghĩa, phù phiếm, xa sỉ trong bối cảnh
quốc gia nghèo đói, lạc hậu, ngân sách nhà nước èo uột và kiệt quệ. Các nhà nhân
quyền học trong các diễn đàn ở khách sạn 5 sao sẽ khơng bao giờ lý giải được vì
sao người ta sẵn sàng đổi quyền bầu cử để lấy 01 bánh mì. Trong các tun ngơn,
chúng ta nói nhiều về các các quyền trong lĩnh vực chính trị, tơn giáo, quyền lao
động, quyền học tập, quyền tư do ngôn luận.... nhưng ít khi quan tâm cơng cụ để
đảm bảo thực quyền này như thế nào nếu tự bản thân nhà nước thiếu những nguồn
lực tài chính để thực thi. Có thể kết luận rằng, nghĩa vụ thuế của công dân là tiền đề
để công dân tiếp nhận và thụ hưởng các quyền con người, quyền cơng dân. Hay nói
khác, quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể đảm bảo thực thi trong một nhà
nước với hệ thống pháp luật thuế hồn hảo để đảm bảo rằng mọi cơng dân tuân thủ
nghĩa vụ thuế của mình.

1.2. Nguyên tắc thiết lập và đảm bảo quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực thuế
1.2.1. Ngun tắc dung hịa lợi ích kinh tế giữa nhà nước và công dân trong
pháp luật thuế
a) Dẫn nhập

Chúng tôi cho rằng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực thuế không đồng
nghĩa với việc nhà nước hủy bỏ nghĩa vụ nộp thuế hoặc giảm thuế cho người nộp
thuế hoặc gia tăng cho những đối tượng này những lợi ích kinh tế nhất định nào đó.
20 Học thuyết này cho rằng luôn tồn tại sự “thỏa thuận ngầm” hay “hợp đồng thuế” giữa nhà nước (người thu thuế) với cơng dân
(người đóng thuế) về số tiền thuế mà họ phải nộp cho nhà nước để nhận lấy những gì được coi là dịch vụ và hàng hố cơng cộng

mà bản thân họ không thể tự tạo ra được. Các đại biểu nổi tiếng cho học thuyết thuế-trao đổi vào thế kỉ XVIII, XIX là John
Locke, Jean – Jacques Rousseau, Adam Smith và Montesquieu, với tư tưởng về “hợp đồng thuế” hay “khế ước thuế”. Những
quan niệm đầu tiên về khế ước xã hội đã xuất hiện từ thời cổ đại; đến thế kỉ 17, 18, đã phát triển thành học thuyết về nhà nước
và pháp quyền tương đối hồn chỉnh, khi bắt đầu có cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến và chính thể quân chủ
chuyên chế Xem: TS Nguyễn Văn Tuyến, Tlđd;
xem thêm: />
19


Nhận định trên được minh chứng dưới góc độ kinh tế rằng: các nguồn lực của cải xã
hội thể hiện dưới hình thái tiền tệ là hữu hạn, chúng chỉ được chuyển dịch và phân
phối lại trong các chu kỳ của hoạt động kinh tế. Trong quá trình chu chuyển này nếu
lợi ích của một nhóm nào đó tăng lên thì lợi ích của nhóm cịn lại giảm tương ứng.
Hay nói cách khác, nếu ngân sách nhà nước tăng thì lợi ích vật chất của người nộp
thuế giảm và ngược lại.
Theo chúng tơi, dưới góc độ kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích của cơng dân
trong lĩnh vực thuế thực chất là dung hịa lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế.
Nhà nước không thể nhân danh lợi ích nhà nước để lạm thu, tận thu dẫn đến bần
cùng hóa tình trạng vật chất của cơng dân.
b) Ngun tắc này được đề xuất dựa trên các cơ sở sau đây:

Một là, khả năng nộp thuế và nguồn lực tài chính của người nộp thuế là hữu
hạn, nhu cầu chi ngân sách nhà nước là vô hạn. Không thể căn cứ nhu cầu chi tiêu
của nhà nước mà tăng gánh nặng thuế của người nộp thuế. Thiết nghĩ nên tìm kiếm
một “điểm dừng” hợp lý trong nghĩa vụ thuế để dung hịa lợi ích giữa nhà nước và
người nộp thuế. Điểm dừng đó là ở đâu, cơ sở xác định điểm dừng đó khơng phải là
nội dung pháp lý nên chúng tôi không đề cập trong báo cáo này. Tuy nhiên, chúng
tôi cho rằng những đại lượng như thuế suất, khởi điểm chịu thuế…..trong một dự
thảo luật thuế không phải là sự “ngẫu hứng” hay “ước lượng” của nhà làm luật.
Những con số này phải là kết quả tính tốn khoa học từ các số liệu kinh tế, tài

chính, giá cả, lạm phát, chỉ tiêu tăng trưởng, hiệu quả đầu tư, mức sống, hệ số lợi
nhuận…của nền kinh tế.
Hai là, gánh nặng thuế quá lớn sẽ triệt tiêu khả năng nộp thuế của người nộp
thuế. Thậy vậy, đối mặt với mức thuế cao, những doanh nghiệp, cá nhân có hai lựa
chọn: i) sẽ chấm dứt, thu hẹp các hoạt động sản xuất, kinh doanh làm phát sinh
nghĩa vụ thuế (trong khi đó, chính hoạt động sản xuất kinh doanh của họ mới là
động lực và cơ sở cho sự tăng trưởng và cường thịnh của quốc gia); ii) gian lận, câu
kết, hối lộ cho người có thẩm quyền và quan chức ngành thuế để giảm thiểu nghĩa
vụ nộp thuế. Như vậy cả hai trường hợp trên đều dẫn đến những hậu quả khôn
lường cho ngân sách nhà nước, cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia.

20


Ba là, hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư của khối tư nhân luôn luôn cao
hơn khối nhà nước21. Thay vì nộp thuế vào ngân sách nhà nước để nhà nước sử
dụng nguồn lực tài chính này để đầu tư, kinh doanh (thông qua hệ thống doanh
nghiệp nhà nước) thì hệ số lợi nhuận và hiệu quả đầu tư khơng cao. Trong khi đó
nếu nguồn lực tài chính đó giữ lại cho chính người dân và doanh nghiệp để họ tự
đầu tư, kinh doanh thì hiệu quả cao hơn nhiêu. Số liệu sau đây chứng minh cho
nhận định này22 . Đầu tư công từ ngân sách nhà nước chỉ nên dừng lại ở những lĩnh
vực nhằm tạo lập cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà khối kinh
tế tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư.
HỆ SỐ ICOR TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH
TẾ (GIAI ĐOẠN 2000-2007)- ĐVT: LẦN
7.8

8
5.2


6
3.2

4
2
0
KINH TẾ NGỒI NHÀ NƯỚC

KT CĨ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI

KINH TẾ NHÀ NƯỚC

Bốn là, trong những quốc gia mà hiệu quả thu thuế thấp do chi phí thu thuế
quá lớn23 thì tốt nhất khơng thu thuế. Chi phí thu thuế quá lớn do kỹ thuật thu thuế
lạc hậu, thủ công, bộ máy cơ quan thuế cồng kềnh và số lượng cán bộ ngành thuế
khổng lồ dẫn đến số tiền thuế thu được chỉ đủ để “nuôi” bộ máy cơ quan thuế thì tốt
nhất khơng nên thu thuế. Minh họa cho nội dung này là trường hợp thuế thu nhập cá
21 Hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio) thể hiện để tăng một đồng GDP cần đầu tư bao nhiêu đồng. Hệ số ICOR
càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại. Về mặt ý nghĩa kinh tế, hệ số ICOR tính cho một giai đoạn sẽ phản ánh
chính xác hơn việc tính ICOR cho hàng năm, vì trong một thời gian ngắn (một năm) có một lượng đầu tư chưa phát huy tác
dụng và cũng không phản ảnh được nếu đầu tư dàn trải.
22 Bùi Trinh & Dương Mạnh Hùng (2009) Hiệu quả đầu tư thông qua hệ số ICOR Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo Số 7 (Số 447)
năm 2009
23 Hiệu quả thu thuế được xác định theo tiêu chí tỷ lệ chi phí phải bỏ ra để thu 01 đồng tiền thuế. Nếu mức chi phí này cao thì
hiệu quả thu thuế thấp

21


nhân hiện nay: Nếu hạ thấp khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân, số lượng người

nộp thuế sẽ tăng lên đáng kể, chi phí thu thuế sẽ tăng tương ứng nhưng số thuế thu
được không cao.
c) Nguyên tắc dung hịa lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế thể hiện qua các nội
dung sau:

Thứ nhất, thiết lập vị thế cân bằng trong nghĩa vụ thuế, nhà nước chia sẻ
gánh nặng thuế với người nộp thuế.
Nếu như những năm 1990, nguồn thu của Việt Nam chỉ chiếm 15 - 17%
GDP, đến năm 2000 khoảng 20 - 22% GDP thì đến nay con số này đã lên tới 28 30% GDP. Trong khi tỷ lệ tương ứng của các nước đang phát triển là 15% - 17%,
Trung Quốc khoảng 19-20%24.

Bảng: Tỷ lệ % giữa thu NSNN so với GDP và tỷ lệ đầu tư công so với GDP của
các nước trong khu vực
(nguồn ADB)

35

33
30

30

25
23

25
19 19

19 19


19

17

20

15

15
8

10
5
0

VIỆT NAM

TRUNG QUỐC

Ấn Độ

THU NS/GDP

THAI LAN

INDNESIA

MALAYSIA

ĐẦU TƯ TỪ NS/GDP


Bảng……: Tỷ lệ thu ngân sách so với GDP và tỷ lệ đầu tư từ nguồn vốn ngân sách
so với ngân sách của Việt Nam và một số nước trong khu vực năm 2007

24 Nguyên Hằng (2011) />
22


×