Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Chế độ pháp lý về nhượng quyền thương mại theo quy định của luật thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.08 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

TRẦN MỸ LOAN

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT THƯƠNG MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2008

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TPHCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005

SVTH : TRẦN MỸ LOAN


Khóa: 29

MSSV:2920108

GVHD : Tiến sĩ PHAN HUY HỒNG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008
2


LỜI CAM ĐOAN
Phạm vi đề tài khóa luận rất rộng nhưng kiến thức tác giả có giới hạn nên
những điều trình bày trong khóa luận tất nhiên khơng thể tránh khỏi những sơ xuất,
thiếu sót nhất định. Đề tài có sử dụng nhiều tư liệu trên các sách báo, tạp chí, tuy
nhiên, tác giả cam đoan rằng đây là kết quả của quá trình nghiên cứu một cách
nghiêm túc và chưa từng được công bố trên bất kỳ phương tiện nào.

3


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Nhượng quyền thương mại

NQTM

Chuyển giao cơng nghệ

CGCN


Sở hữu trí tuệ

SHTT

Sở hữu cơng nghiệp

SHCN

Nhãn hiệu

NH

Hàng hóa

HH

Dịch vụ

DV

4


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ......... 4
1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3


Nhượng quyền thương mại là gì? ....................................................... 4
Khái niệm nhượng quyền thương mại ................................................ 4
Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
6
Phân loại nhượng quyền thương mại ................................................. 8

1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3

So sánh nhượng quyền thương mại và một số hoạt động khác ......... 9
Nhượng quyền thương mại và đại lý thương mại .............................. 9
Nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ .................... 11
Nhượng quyền thương mại và Lixăng nhãn hiệu............................. 13

1.3
1.3.1
1.3.2

Ưu điểm và hạn chế của nhượng quyền thương mại ....................... 15
Ưu điểm của nhượng quyền thương mại .......................................... 16
Hạn chế của nhượng quyền thương mại ........................................... 20

1.4
1.4.1
1.4.2
1.4.3


Thực trạng nhượng quyền thương mại tại Việt Nam ...................... 23
Thực trạng nhượng quyền thương mại của café Trung Nguyên ..... 23
Thực trạng nhượng quyền thương mại của Phở 24 ......................... 24
So sánh hệ thống nhượng quyền của café Trung Nguyên, Phở 24 .. 25

CHƯƠNG 2: NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM ............................................................................................................ 30
2.1
2.1.1
2.1.2

Điều kiện nhượng quyền thương mại ............................................... 30
Đối với bên nhượng quyền ................................................................ 30
Đối với bên nhận quyền .................................................................... 32

2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.2.4

Hợp đồng nhượng quyền thương mại .............................................. 33
Chủ thể của hợp đồng ....................................................................... 33
Hình thức của hợp đồng ................................................................... 34
Nội dung của hợp đồng ..................................................................... 34
Đối tượng của hợp đồng.................................................................... 41

2.3

Đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại ............................... 46


2.4

Nhượng quyền thương mại và vấn đề hạn chế cạnh tranh ............. 48

2.5

Trách nhiệm liên đới của bên nhượng quyền về chất lượng hàng hóa,
dịch vụ do bên nhận quyền cung ứng, sản xuất ............................... 52

KẾT LUẬN ............................................................................................. 55
5


LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhượng quyền thương mại ( NQTM) hay còn gọi là franchise là một mơ
hình kinh doanh đã gặt hái được nhiều thành công và được các quốc gia trên thế
giới thừa nhận một cách rộng rãi. Hình thức sơ khai của lối kinh doanh nhượng
quyền đã manh nha xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17–18 tại Châu Âu và được chính
thức thừa nhận tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19.
Ở Việt Nam, franchise được xem manh nha xuất hiện vào giữa thập niên 90,
khi mà đồng loạt xuất hiện hệ thống các quán café Trung Nguyên trên khắp mọi
miền đất nước. Trong thời gian đó thì khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được
luật hóa. Năm 1998, lần đầu tiên Thông tư 1254/1998/BKHCN hướng dẫn Nghị
định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao cơng nghệ (CGCN) có nhắc đến cụm từ “cấp
phép đặc quyền kinh doanh”. Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định
11/2005/NĐ-CP về CGCN, trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh
doanh cũng được xem là CGCN, do đó chịu sự điều chỉnh của luật này. Tiếp đến,

tại Đ755 Bộ Luật Dân Sự năm 2005 quy định rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh
doanh là một trong các đối tượng CGCN. Năm 2005, Luật Thương mại ra đời và
NQTM chính thức được cơng nhận và luật hóa. Luật Thương mại đã chính thức
dành ngun Mục 8 Chương VI để quy định về hoạt động này. Đồng thời Chính
Phủ đã ban hành Nghị định 35/2005/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương Mại về
hoạt động NQTM, đến ngày 25/05/2005 Bộ Thương Mại ban hành Thông tư
09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM.
Có thể nói, cho đến hiện nay, chúng ta đã có khung pháp lý tương đối hoàn
chỉnh về vấn đề NQTM nhưng Việt Nam vẫn chưa có những nhà nhượng quyền tầm
cỡ mang tính xun quốc gia và việc thực hiện hoạt động nhượng quyền đa phần
mang tính thử nghiệm, chập chững. Nguyên nhân của hiện tượng trên do nhà nước
chưa có chính sách thúc đẩy phát triển hoạt động nhượng quyền và cịn có sự chồng
chéo, mâu thuẫn và bất hợp lý trong những quy định của pháp luật.
Từ tình hình thực tế của hoạt động nhượng quyền tại nước ta trong thời gian
vừa qua đã đặt ra nhu cầu cần nghiên cứu những quy định của pháp luật, tìm ra
những ưu điểm và hạn chế nhằm tạo ra hành lang pháp lý toàn diện, ưu việt để thúc
đẩy hoạt động nhượng quyền phát triển. Kết quả của việc nghiên cứu rất quan trọng
và cấp thiết trong hoàn cảnh hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO.
Trong bối cảnh Việt Nam mở cửa hội nhập với thế giới, cách cửa thị trường sẽ mở
rộng cho các tập đoàn quốc tế chuyên phân phối các sản phẩm, dịch vụ thông qua
kênh nhượng quyền tiến vào thị trường trong nước đồng thời đưa thương hiệu trong
nước tiếp cận thị trường nước ngồi thơng qua mơ hình franchise. Khi đó, một hệ
6


thống pháp luật hoàn chỉnh, rõ ràng là yếu tố hết sức cần thiết. Do đó, cơng tác
nghiên cứu những quy định của pháp luật sẽ giúp ta tìm ra những diểm mạnh, điểm
yếu, kịp thời sửa chữa và tạo cơ hội cho những bước tiến xa hơn trong hoạt động
nhượng quyền trong tương lai.
2.

Tình hình nghiên cứu
Cho đến hiện nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu
về vấn đề NQTM tại Việt Nam. Mặc dù hoạt động nhượng quyền thu hút sự quan
tâm của nhiều đối tượng trong xã hội từ các doanh nghiệp đến luật sư và những nhà
nghiên cứu nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc cung cấp những kiến thức khái quát về
NQTM và thực trạng nhượng quyền tại Việt Nam mà chưa đi sâu nghiên cứu những
quy định pháp luật về mơ hình khinh doanh này.
Tháng 01/2004, NXB CAND cho xuất bản cuốn sách Hợp đồng thương mại
quốc tế, trong đó có một chương do Tiến sĩ Duơng Anh Sơn viết về hợp đồng đặc
quyền thương mại nhưng chương này chỉ nêu lên một số vấn đề cơ bản nhất của
NQTM và xem xét hợp đồng NQTM dưới góc độ là một Hợp đồng thương mại
quốc tế. Tháng 8/2005, NXB Trẻ phát hành sách “Franchse – Bí quyết thành cơng
bằng mơ hình nhượng quyền kinh doanh” và năm 2007 cuốn “ Mua franchse – cơ
hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Lý Qúy Trung. Nội dung chủ
yếu của hai cuốn sách này tập trung vào vấn đề thương mại của nhượng quyền hơn
là vấn đề pháp lý. Luật thương mại cũng chỉ có một số điều quy định về NQTM .
Trước những thơng tin về tình hình nghiên cứu trên cho thấy, rõ ràng mơ
hình kinh doanh nhượng quyền chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức tại nước
ta. Vì vậy, việc nghiên cứu về NQTM dưới góc độ pháp lý là hết sức cần thiết, đặc
biệt là khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
3.

Phương pháp nghiên cứu
Nhằm mục đích làm sáng tỏ nội dung của đề tài, phương pháp so
sánh, phân tích, tổng hợp trên cở sở tìm hiểu và khai thác những quy định của pháp
luật, những tài liệu đề cập đến vấn đề này được sử dụng.
4.
Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm làm rõ các khái niệm, thuật ngữ, thực trạng nhượng
quyền tại Việt Nam để có thể nhận diện sự khác nhau giữa hoạt động NQTM và các

hoạt động khác. Ngoài ra, vì khóa luận chủ yếu tiếp cận NQTM dưới góc độ pháp lý
nên sẽ tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về
NQTM nhằm cung cấp những kiến thức pháp luật cần thiết cho những đối tượng có
nhu cầu nhượng quyền cũng như nhận quyền thương mại tại Việt Nam.

7


5.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm cung cấp những kiến thức nền tảng về mơ hình
kinh doanh NQTM, thực trạng hoạt động nhượng quyền tại nước ta và chế độ pháp
lý đối với hoạt động nhượng quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam. Qua đó
chúng ta sẽ thấy được những mặt tích cực và hạn chế trong quy định của pháp luật,
rút ra những kinh nghiệm, bài học quý báu về chính sách pháp luật và hoạt động
quản lý nhà nước đối với mơ hình kinh doanh này.
6.
Cơ cấu của khóa luận
Để đảm bảo đúng mục đích đã đặt ra, khóa luận được cơ cấu như sau:
Lời mở đầu
Mục lục
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI.
CHƯƠNG 2: NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

8


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1
Nhượng quyền thương mại là gì?
1.1.1 Khái niệm nhượng quyền thương mại
Trên thế giới, nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh mang
lại doanh thu rất lớn với tỉ lệ thành công rất cao. Mặc dù hoạt động này tương đối
mới ở Việt Nam nhưng được đánh giá là sẽ bùng nổ trong thời gian tới, đặc biệt là
khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Vậy “nhượng quyền thương mại” là gì?
Có thể hiểu một cách đơn giản NQTM như là một phương thức kinh doanh
mà doanh nghiệp nhượng quyền sẽ trao cho bên nhận quyền sử dụng mơ hình kinh
doanh, kỹ thuật, sản phẩm hay dịch vụ trên thương hiệu của mình. Đổi lại, bên nhận
quyền phải trả cho bên nhượng quyền một khoản tiền gọi là phí nhượng quyền.
Tổng thể hơn NQTM là phương pháp phân phối hàng hóa (HH) và dịch vụ
(DV) mà trong đó, bên nhượng quyền với một khoản phí được trả cho mình, cho
phép bên nhận quyền độc lập tiến hành kinh doanh bằng cách sử dụng các nhãn
hiệu (NH) hàng hóa, tên thương mại, dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại cũng như
phương pháp, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền và dưới sự hướng dẫn, trợ
giúp, kiểm soát chất lượng thường xuyên của bên nhượng quyền.
Với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động nhượng quyền kinh doanh,
nhiều định nghĩa về nó đã được đưa ra. Do sự khác nhau về quan điểm và mơi
trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia nên các định nghĩa này thường
khác nhau.
Theo từ điển Anh – Việt của Viện ngơn ngữ thì franchise là cho phép ai đó
chính thức được bán HH hay DV của một công ty ở một khu vực cụ thể nào đó. Từ
điển Webster của Anh thì định nghĩa franchise là một đặc quyền được trao cho một
người để phân phối hay bán sản phẩm của chủ thương hiệu.
Theo Hiệp Hội Nhượng Quyền Quốc Tế - IFA (International Franchise
Association) định nghĩa Frachise “ là một quan hệ tiếp diễn giữa bên nhựơng quyền
cung cấp quyền sử dụng đặc quyền (licensed privilege) kinh doanh cộng với sự giúp
đỡ trong việc tổ chức, huấn luyện và quản lý đối với người nhận quyền .”1 Theo

định nghĩa này, vai trò của bên nhận quyền thương mại trong việc đầu tư vốn và
điều hành doanh nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của bên
giao quyền.

1

/>
9


Định nghĩa của Theo Hội Đồng Thương mại Liên Bang Hoa Kỳ - FTC
(Federal Trade Comisssion ) lại nhấn mạnh tới việc bên nhượng quyền hỗ trợ và
kiểm soát bên nhận quyền trong hoạt động, theo đó “ Franchise là một hợp đồng
hay một thỏa thuận giữa ít nhất hai người, trong đó người mua franchise đuợc cấp
quyền bán hay phân phối sản phẩm, DV theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp
thị của người chủ thương hiệu. Hoạt động kinh doanh của người mua franchise phải
triệt để tuân theo kế hoạch hay hệ thống tiếp thị này gắn liền với NH, thương hiệu,
biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu chí, quảng cáo và những biểu tượng thương mại khác
của chủ thương hiệu. Người mua franchise phải trả một khoản phí, trực tiếp hay
gián tiếp, gọi là phí franchise.”2
Cộng đồng chung Châu Âu EC ( nay là liên minh Châu Âu EU ) lại
định nghĩa NQTM theo hướng nhấn mạnh tới quyền của bên nhận quyền khi sử
dụng một tập hợp quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Mặc dù ghi nhận vai trị của thương
hiệu và hệ thống, bí quyết kinh doanh của bên giao quyền nhưng định nghĩa này
không đề cập tới những đặc điểm khác của nhượng quyền. EC định nghĩa quyền
thương mại là một “tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) và SHTT
liên quan tới NH hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản
phẩm, hoặc cung cấp DV tới người sử dụng cuối cùng”3. NQTM có nghĩa là việc
chuyển nhượng quyền thương mại được định nghĩa như trên.

Luật Thương mại do Quốc Hội nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam Khóa XI, kỳ họp thứ VII thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 có hiệu lực thi
hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2006 đã lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về NQTM như
sau: “ NQTM là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu
cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán HH, cung ứng DV theo các yêu
cầu sau đây:
1. Việc mua bán HH, cung ứng DV được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với NH hàng hóa, tên
thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo của bên nhượng quyền ;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm sốt và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
Định nghĩa theo Luật Thương mại 2005 tuy có cách tiếp cận gần giống với
quy định của các nước và đã nêu lên được những nét chính, đặc trưng của NQTM
nhưng định nghĩa này đã bỏ qua yếu tố chính của nhượng quyền là phí nhượng
quyền. Do NQTM là một hoạt động thương mại, hai bên tham gia quan hệ nhượng
2

Lý Qúy Trung, [15], trang11

3

/>
10


quyền là hai bên độc lập, khơng có quan hệ về vốn với nhau và đều là thương nhân.
Mà mục đích chính của thương nhân khi tham gia vào bất kỳ một hoạt động thương
mại nào là lợi nhuận, vì vậy, việc quy định phí nhượng quyền là cần thiết. Mặt khác,
việc quy định NH hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh

doanh, biểu tượng kinh doanh “của” bên nhượng quyền là khơng phù hợp vì không
phải lúc nào bên nhượng quyền cũng là chủ sở hữu đối với các đối tượng trên, chỉ là
chủ sở hữu trong trường hợp đó là bên nhượng quyền sơ cấp.
Như vậy, nên chăng NQTM ở Việt Nam nên được định nghĩa như sau:
“NQTM là một hoạt động thương mại theo đó thơng qua một hợp đồng bên
nhượng quyền cho phép bên nhận quyền độc lập tiến hành việc mua bán HH, cung
ứng DV theo một phương thức kinh doanh và gắn liền với các đối tượng SHTT do
bên nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm soát, bên nhượng quyền tiến hành việc hỗ trợ
và kiểm soát thường xuyên đối với việc kinh doanh của bên nhận quyền, đổi lại bên
nhận quyền sẽ trả cho bên nhượng quyền một khoản phí.”4
1.1.2 Đặc điểm của nhượng quyền thương mại.
Tiếp cận NQTM ở góc độ định nghĩa chỉ cho ta hiểu biết khái quát. Việc tìm
hiểu những đặc điểm của NQTM sẽ giúp ta hiểu biết sâu hơn về hoạt động này.
Thứ nhất, nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại.
Việc khẳng định NQTM là một hoạt động thương mại có ý nghĩa trong việc
xác định rõ bản chất của hoạt động nhượng quyền cũng như luật áp dụng để điều
chỉnh là Luật Thương mại. Điều này rõ ràng là rất quan trọng, đặc biệt trong điều
kiện pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định thống nhất về NQTM.
Tháng 02/2005, Chính Phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về CGCN
(NĐ11), trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng được xem
là CGCN, do đó chịu sự điều chỉnh của Nghị định này. Tiếp đến, tại Đ755 Bộ luật
Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh
doanh là một trong các đối tượng CGCN. Tuy nhiên theo Đ7 Luật CGCN 2006 (có
hiệu lực từ ngày 01/07/2007) thì cấp phép đặc quyền kinh doanh khơng thuộc phạm
vi đối tượng CGCN, CGCN chỉ có thể là một phần trong hợp đồng NQTM (Đ12
Luật CGCN). Đây chính là điểm mâu thuẫn nghiêm trọng giữa Luật CGCN, Luật
Thương mại với Bộ Luật Dân Sự 2005.
Tuy nhiên, qua quy định của Luật Thương mại và Luật CGCN cũng như qua
những phân tích về NQTM sẽ được tiếp cận ở những phần tiếp theo, cần khẳng định
đây là một hoạt động thương mại. Các bên tham gia quan hệ này đều là thương

nhân. Ngoài mối quan hệ về hợp đồng NQTM, giữa các bên cũng có thể có các
4

Vũ Ngọc Long [18], trang 11

11


quan hệ pháp luật khác như quan hệ về CGCN. Hiểu đúng bản chất của NQTM sẽ
xác định đúng luật áp dụng và thẩm quyền quản lý của cơ quan nhà nước đối với
hoạt động này.
Thứ hai, bên nhượng quyền là bên nắm giữ đặc quyền thương mại, đặc
quyền này được chuyển giao cho bên nhận quyền bao gồm quyền được tiến hành
việc kinh doanh theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhuợng quyền quy định
và gắn liền với quyền được sử dụng các đối tượng SHCN. Các đối tượng này trong
sự kết hợp với nhau hợp thành một tổ hợp các quyền giúp bên nhận quyền đạt được
mục đích của hợp đồng NQTM. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng việc nắm giữ đặc
quyền thương mại khơng có nghĩa là tạo ra tư cách chủ sở hữu đối với đặc quyền đó
của bên nhượng quyền. Chỉ trong trường hợp chuyển giao lần thứ nhất từ bên
nhượng quyền ban đầu sang bên nhận quyền thì bên nhượng quyền này mới là chủ
sở hữu đặc quyền thương mại đó. Trong trường hợp nhượng quyền thứ cấp thì bên
nhượng quyền chỉ là bên có quyền kiểm sốt đồi với đặc quyền đó mà thơi. Như
vậy, bên nhượng quyền cần được hiểu theo nghĩa rộng và tùy từng trường hợp để
xác định có phải là chủ sở hữu hay chỉ là bên kiểm soát đặc quyền thương mại.
Thứ ba, bên nhận quyền chịu sự kiểm tra, giám sát của bên nhượng quyền
để đảm bảo hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền đáp ứng các chuẩn mực mà
bên nhượng quyền yêu cầu trong kinh doanh, đảm bảo sự thống nhất của hệ thống
NQTM, tạo sự ổn định về chất lượng HH, DV.
Một trong những yếu tố đảm bảo sự tồn tại và thành cơng của hệ thống
nhượng quyền là việc duy trì tính đồng bộ. Điều này rất quan trọng và có ý nghĩa

sống còn đối với bất kỳ hệ thống nhượng quyền nào. Hình ảnh đồng bộ của một
thương hiệu là một trong những chìa khóa thành cơng khi xây dựng mơ hình kinh
doanh nhượng quyền , một hệ thống franchise thành công là một hệ thống không
dựa vào một cửa hàng riêng lẻ quá nổi bật mà phải dựa vào khả năng đồng đều của
nhiều các nhân xuất sắc. Diễn giả quốc tế về franchise – Albert Kong – đã định
nghĩa nửa đùa nửa thật về thuật ngữ “ franchise” trong phần trình bày của ơng tại
hội chợ triễn lãm quốc tế về franchise đầu tiên tại Việt Nam rằng franchise là nhân
bản vơ tính.5 Câu nói này chỉ đúng một phần nhưng cũng đã phản ánh phần nào đặc
điểm nổi bật của của các hệ thống franchise: Đó là sự đồng bộ.
Vì vậy, bên nhượng quyền trong suốt quá trình hoạt động phải ln ln
thường xun kiểm tra, giám sát hoạt động của bên nhận quyền để đảm bảo sự
thống nhất, đồng bộ là hết sức cần thiết.

5

Lý Qúy Trung, [16], trang 11.

12


Thứ tư, về phí nhượng quyền.
Khác với các hoạt động mua bán thơng thường, phí trong NQTM khơng phải
trả để nhận về một HH, DV cụ thể mà là để duy trì đặc quyền thương mại được bên
nhượng quyền chuyển giao. Chính vì tính chất an tồn và hiệu quả của hoạt động
NQTM đã thúc đẩy các chủ thể có nhu cầu gia nhập hệ thống nhượng quyền thay vì
bắt đầu thử nghiệm mơ hình kinh doanh lần đầu và NH thì chưa ai biết đến. Khi gia
nhập vào hệ thống nhượng quyền, kinh doanh dưới một NH đã có sẵn và đã có
những thành cơng nhất định thì bên nhận quyền phải trả một mức phí nhất định. Phí
nhượng quyền là biểu hiện của sự trao đổi ngang giá đối với đặc quyền thương mại
mà bên nhận quyền nhận được. Tùy theo ngành nghề kinh doanh, mức độ nổi tiếng

của NH mà mức phí này sẽ cao hay thấp, thơng thường chủ thương hiệu có thể tính
ít nhất là hai khoản phí franchise, đó là phí franchise ban đầu (thanh tốn một lần)
và phí franchise hàng tháng.
1.1.3 Phân loại nhượng quyền thương mại.
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể có rất nhiều cách phân loại NQTM.
Phân loại theo tiêu chí lãnh thổ.
- Nhượng quyền từ nước ngoài vào Việt Nam.
- Nhượng quyền từ Việt Nam ra nước ngoài.
- Nhượng quyền trong nước.
Phân loại theo ngành nghề.
- NQTM trong lĩnh vực dịch vụ (service franchise): bên nhượng quyền chuyển
giao cho bên nhận quyền một hệ thống cung cấp DV, bên nhận quyền cung cấp DV
này cho người khác dưới tên thương mại và NH của bên nhượng quyền và phải tuân
thủ những hướng dẫn của bên này.
- NQTM trong lĩnh vực sản xuất (production franchise): bên nhận quyền sản
xuất và bán HH dưới NH của bên nhựơng quyền, quá trình sản xuất này tuân thủ
theo những hướng dẫn của bên nhượng quyền.
- NQTM trong lĩnh vực tiêu thụ HH (distribution franchise): theo đó bên nhận
quyền bán HH mang NH của bên nhựơng quyền.
Phân loại theo đối tượng chuyển giao.
Đây là cách phân loại phổ biến nhất hiện nay, gồm hai hình thức nhượng
quyền cơ bản: Nhượng quyền phân phối sản phẩm (product distribution franchise)
và nhượng quyền sử dụng mơ hình kinh doanh (business format franchise). Đa số
các thương hiệu franchise đều là loại nhượng quyền sử dụng mơ hình kinh doanh.

13


- Nhượng quyền phân phối sản phẩm: đối với hình thức này bên mua franchise
thường không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ bên bán franchise ngoại trừ việc

được phép sử dụng NH, biểu tượng, khẩu hiệu và phân phối sản phẩm hay DV của
bên chủ thương hiệu trong một phạm vi khu vực và thời hạn nhất định. Có nghĩa là
bên nhận quyền sẽ quản lý điều hành cửa hàng nhượng quyền của mình khá độc lập,
ít bị ràng buộc nhiều bởi những quy định từ bên nhượng quyền. Hình thức nhượng
quyền này tương tự với kinh doanh cấp phép (licensing) mà trong đó chủ thương
hiệu quan tâm nhiều đến việc phân phối sản phẩm của mình và không quan tâm
mấy đến hoạt động hằng ngày hay tiêu chuẩn hình thức của cửa hàng nhượng
quyền.
- Nhượng quyền sử dụng mơ hình kinh doanh: theo đó, hợp đồng nhượng quyền bao
gồm cả việc chuyển giao kỹ thuật kinh doanh và công thức điều hành quản lý. Các
chuẩn mực của mơ hình kinh doanh phải tuyệt đối giữ đúng. Mối liên hệ giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền phải rất chặt chẽ và liên tục.
1.2

So sánh nhượng quyền thương mại và một số hoạt động khác

NQTM trong một chừng mực nhất định có sự giao thoa hoặc có những tương
đồng với các hoạt động trong các lĩnh vực khác nên có người cho rằng NQTM là
một dạng CGCN đặc thù hoặc là một dạng đặc thù của hợp đồng đại lý. Ngay cả
trong quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa có sự phân biệt rạch rịi và hiểu
đúng bản chất của hoạt động NQTM. Vì vậy, tiến hành so sánh NQTM và các hoạt
động khác nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt , ưu điểm và hạn chế
của hoạt động này là cần thiết.
1.2.1 Nhượng quyền thương mại và đại lý thương mại.
Đại lý thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên giao đại lý và bên
đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán HH cho bên giao
đại lý hoặc cung ứng DV của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao
(Đ166 Luật Thương mại 2005).
Đại lý thương mại và NQTM có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là đối với
trường hợp nhượng quyền phân phối sản phẩm. Vì vậy, trong một số trường hợp dễ

lầm tưởng NQTM là một dạng đặc thù của họat động đại lý.

NQTM và Đại lý thương mại có những điểm tương đồng sau
- Cả hai hoạt động trên đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại.
- Các bên trong NQTM và Đại lý thương mại đều phải là thương nhân.

14


- Trong mối quan hệ với bên thứ ba, bên đại lý / bên nhận quyền nhân danh
chính mình và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ này ràng buộc bên đại lý / bên nhận
quyền với bên thứ ba.
- Bên đại lý / bên nhận quyền chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý /
bên nhượng quyền.

Khác nhau
Thứ nhất, về vấn đề quyền sở hữu.
Trong quan hệ đại lý, bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với HH hoặc tiền giao
cho bên đại lý dù trên thực tế, HH và quyền định đoạt đối với HH đã được chuyển
giao cho bên đại lý và bên đại lý là người chiếm hữu trực tiếp tiền hoặc HH đó.
Việc giao HH cho bên đại lý và thông qua hành vi bán HH của bên đại lý, bên giao
đại lý đạt được mục đích tiêu thụ HH của mình, đổi lại bên đại lý nhận được thù lao.
Điều này giống như hành vi của bên giao đại lý ủy quyền định đoạt HH của mình
cho bên đại lý. Chính điều này đã khẳng định quyền sở hữu của bên giao đại lý. Vì
là chủ sở hữu nên căn cứ vào quy định tại Đ166 BLDS 2005, bên giao đại lý phải
chịu rủi ro khi tài sản bị tiêu hủy hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy có nghĩa
là, nếu pháp luật có quy định hoặc trong hợp đồng có thỏa thuận cụ thể về việc chịu
rủi ro thì thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc theo như thỏa thuận trong hợp
đồng, nếu khơng thì chủ sở hữu (trong trường hợp này là bên giao đại lý) phải chịu

rủi ro.
Trong khi đó, đối với NQTM, mặc dù HH, DV mang NH của bên nhượng
quyền nhưng lại do bên nhận quyền tự mình sản xuất, tự mình tiến hành việc mua
bán HH, cung ứng DV bằng chính tài sản của mình nên HH, DVdo bên nhận quyền
sản xuất, cung ứng vẫn thuộc quyền sở hữu của bên này.
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng.
Trong quan hệ đại lý, bên đại lý chỉ đơn thuần là người bán HH, cung ứng
DV mang NH của bên giao đại lý, điều này có nghĩa là trong hợp đồng đại lý, HH,
DV trở thành đối tượng của hợp đồng. Trong khi trong quan hệ NQTM, bên nhượng
quyền chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHCN cho bên nhận quyền để bên
này trực tiếp hoạt động kinh doanh dưới cùng một NH, tên thương mại của bên
nhượng quyền. Như vậy, trong hợp đồng NQTM, quyền thương mại là đối tượng
của hợp đồng bao gồm quyền sử dụng các đối tượng SHCN được bảo hộ và không
được bảo hộ.
Ngay cả trong hợp đồng nhượng quyền phân phối sản phẩm – cũng là việc
bên nhượng quyền giao cho bên nhận quyền bán HH mang NH của bên nhượng
quyền (điều này gần giống với đại lý) nhưng khác biệt ở chỗ bên nhận quyền sử
15


dụng tên thương mại của bên nhượng quyền để giao dịch và nhờ vào NH nổi tiếng
để bán HH, thu lợi nhuận và lợi nhuận này thuộc về bên nhận quyền. Còn trong
quan hệ đại lý, bên đại lý chỉ bán HH cho bên giao đại lý dưới NH của bên giao và
lợi nhuận thuộc về bên giao đại lý, bên đại lý chỉ được trả thù lao dưới hình thức
hoa hồng hoặc hưởng phần chênh lệch giữa giá bán và giá giao.
Thứ ba, mối liên hệ giữa các bên.
Trong một chừng mực nhất định, bên đại lý có sự phụ thuộc vào bên giao đại
lý. Bên đại lý có nghĩa vụ chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và có trách
nhiệm báo cáo tình hình hoạt động của bên đại lý với bên giao. Đổi lại, bên giao có
quyền được bên đại lý cung cấp thông tin và chỉ dẫn kịp thời. Điều này gần giống

với NQTM nhưng quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong NQTM
bền chặt hơn rất nhiều bởi bên nhận quyền không phải là người bán HH, cung ứng
DV cho bên nhượng quyền mà bán HH của mình dưới NH của bên nhượng quyền.
Chính vì kinh doanh dưới cùng một NH nên khả năng bị ảnh hưởng dây chuyền là
điều khơng tránh khỏi. Do đó, để bảo vệ tính tồn vẹn cho hệ thống và cũng là bảo
vệ chính mình, bên nhượng quyền khơng chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin và
chỉ dẫn mà trong suốt q trình chuyển giao đặc quyền cịn phải có nghĩa vụ đào
tạo, huấn luyện, hỗ trợ, tư vấn về mọi mặt và ở mức độ chi tiết cách thức vận hành
cơ sở mới để đảm bảo được tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền cả về kiểu
dáng, chất lượng HH, cách bài trí…Ngược lại bên nhận quyền cũng phải chịu sự
kiểm tra, giám sát rất chặt chẽ từ bên nhượng quyền. Nếu xét về mức độ chịu sự
kiểm tra thì mức độ này ở bên nhận quyền cao hơn nhiều so vơi bên đại lý bởi vì chỉ
cần bên nhận quyền điều hành cơ sở nhượng quyền theo cách thức riêng của mình
sẽ ảnh hưởng đến tồn bộ hệ thống nhượng quyền.
1.2.2 Nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ.
Quan hệ gần gũi nhất với NQTM là CGCN. Hợp đồng CGCN cũng điều
chỉnh sự chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHTT. Nghĩa là đối tượng của
hai loại hợp đồng này trong một chừng mực nhất định có sự trùng lắp. Do đó, có
quan điểm cho rằng NQTN là một dạng của CGCN. Tuy nhiên, mặc dù có những
điểm chung những giữa chúng vẫn có những khác biệt cơ bản.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì “cơng nghệ là giải pháp, quy
trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc khơng kèm cơng cụ, phương tiện dùng để biến
đổi nguồn lực thành sản phẩm” (K2Đ3 Luật CGCN) và “CGCN là chuyển giao
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc tồn bộ cơng nghệ từ bên có
quyền CGCN sang bên nhận cơng nghệ” (K8Đ3 Luật CGCN)
Theo quy chế CGCN của EU năm 2004, viết tắt là TTBER, “công nghệ
nghĩa là sáng chế, ứng dụng sáng chế, mẫu hữu ích, ứng dụng mẫu hữu ích, kiểu
16



dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí các sản phẩm bán dẫn, các giấy chứng nhận bảo hộ
bổ sung đối với sản phẩm y học hoặc các sản phẩm khác có thể là đối tượng của
giấy chứng nhận bảo hộ bổ sung, giấy chứng giống cây trồng, bí quyết, bản quyền
phần mềm.” “CGCN được hiểu là công nghệ được dịch chuyển từ nhà kinh doanh
này sang nhà kinh doanh khác”6
CGCN khác NQTM ở những điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể.
CGCN là một giao dịch dân sự, chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật Dân Sự năm
2005 và Luật CGCN, chủ thể của hợp đồng CGCN có thể là cá nhân cũng có thể là
pháp nhân. Trong khi đó, NQTM là một hoạt động thương mại, chịu sự điều chỉnh
của pháp luật Thương mại và pháp luật đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng phải là
thương nhân.
Thứ hai, về mục đích.
Mục đích của CGCN thường hướng đến hành vi sản xuất hoặc để xây dựng
cơng trình cịn NQTM hướng đến việc mua bán HH, cung ứng DV. Kết quả của
NQTM thường là việc hình thành một cơ sở nhượng quyền mới giống với mơ hình
kinh doanh ngun mẫu của bên nhượng quyền còn kết quả của CGCN là bên nhận
chuyển giao có được quyền sử dụng các đối tượng SHCN khác trong phạm vi
CGCN, không nhất thiết phải thành lập một cơ sở kinh doanh mới.
Thứ ba, vấn đề cải tiến và thay đổi.
Đ7 NĐ11 quy định chi tiết về về phát triển cơng nghệ được chuyển giao,
theo đó bên nhận có quyền cải tiến, phát triển cơng nghệ được chuyển giao mà
không phải thông báo cho bên giao biết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
và theo quy định tại K2.d Đ17 Luật CGCN thì bên nhận quyền có quyền được cải
tiến cơng nghệ. Cịn trong NQTM, bên nhận quyền khơng có quyền đưa ra bất kỳ
cải tiến, phát triển nào vào việc kinh doanh của mình cũng như không được thay
đổi, điều chỉnh phương thức kinh doanh nếu khơng có sự đồng ý của bên nhựơng
quyền nhằm đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền.
Thứ tư, về đối tượng được chuyển giao.
Đồi với NQTM, kèm theo việc chuyển giao NH là việc chuyển giao tên

thương mại – một đối tượng chủ yếu của hợp đồng NQTM. NH và tên thương mại
là một tổ hợp khơng thể tách rời và do đó khơng có sự phân biệt HH, DV của bên
nhượng quyền và bên nhận quyền sản xuất còn trong hợp đồng CGCN theo pháp
6

Nguyễn Thanh Tâm, [ 21], trang 36.

17


luật Việt Nam khơng có quy định này. Cụ thể là trong hợp đồng Lixăng – một dạng
của hợp đồng CGCN - thì đối với những trường hợp chuyển quyền sử dụng đối
tượng SHCN thơng thường thì “quyền sử dụng tên thương mại không được chuyển
giao.”( K1Đ142 Luật SHTT)
Mặt khác, đối tượng được chuyển giao trong NQTM không chỉ là những
quyền liên quan đến các đối tượng SHCN được bảo hộ mà bao gồm cả đối tượng
không được bảo hộ. Các đối tượng này không đơn thuần là từng quyền riêng biệt
mà là tổ hợp các quyền đó. Mặc dù không nhất thiết phải quy định trong tổ hợp này
bắt buộc phải có những loại quyền nào nhưng thuật ngữ “tổ hợp” vẫn có ý nghĩa
nhất định, nó khẳng định các quyền được giao không phải từng quyền riêng biệt mà
là một đối tượng thống nhất để đạt được mục đích của hoạt động NQTM.7
Ngồi ra, đối tượng được chuyển giao trong hợp đồng NQTM chỉ sử dụng
trong hoạt động thương mại , trong khi đó sự hạn chế này khơng có trong hợp đồng
CGCN.
Thứ năm, về thời hạn.
CGCN mang tính một lần và trong một khoản thời gian ngắn. Đ15 NĐ11
quy định thời hạn hợp đồng CGCN do các bên thỏa thuận nhưng không quá 7 năm,
trong trường hợp đặc biệt có thể dài hơn nhưng khơng q 10 năm. Sở dĩ có quy
định như vậy vì yếu tố lỗi thời của công nghệ và bản thân đối tượng SHCN đó chỉ
được pháp luật bảo hộ trong một thời hạn nhất định. Trong khi đó, NQTM thì mang

tính liên tục, là một quan hệ mang tính lâu dài và ổn định. Thời hạn của hợp đồng
NQTM phải đủ dài để đảm bảo bên nhận quyền có đủ thời gian thu hồi khoản vốn
đầu tư mà họ đã bỏ ra.
Ngoài ra, khi hợp đồng CGCN kết thúc thì bên nhận sẽ tiếp tục sử dụng cơng
nghệ đó trong các hoạt động của mình cịn trong hợp đồng NQTM ngay khi chấm
dứt hợp đồng, bên nhận quyền có nghĩa vụ ngay lập tức ngừng việc kinh doanh của
mình và khơng sử dụng các tài liệu, kiến thức của bên nhượng quyền.
1.2.3 Nhượng quyền thương mại và Lixăng nhãn hiệu.
Trước khi so sánh hợp đồng Lixăng NH và hợp động NQTM cần tìm hiểu
hợp đồng Lixăng là gì?
Trước đây, trong các văn bản pháp luật về SHTT của Việt Nam như Nghị
định 201/ 1998/ NĐ-HĐBT Điều lệ về mua bán quyền sử dụng sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, NH hàng hóa và bí qưyết kinh doanh; BLDS 1995,
Nghị định 63/1996/NĐ-CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về SHCN và Thông
tư 3055/ TT ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng
7

Nguyễn Văn Luyện – Lê Thị Bích Thọ - Dương Anh Sơn,[ 13 ], trang 274

18


dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền SHCN và một số thủ tục khác
trong NĐ 63/CP thường sử dụng thuật ngữ “hợp đồng Lixăng” để chỉ hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHCN. Hiện nay , trong các điều khoản
của Luật SHTT 2005, thuật ngữ đó được thay thế bằng tên gọi “hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đối tượng SHCN”
Thuật ngữ Lixăng có nghĩa là sự cho phép, cấp phép. Ở đây có sự khác
nhau trong quan điểm của pháp luật Việt Nam so với các nước. Theo nước ta thì
hơp đồng Lixăng là một dạng chủ yếu của hợp đồng CGCN, bao gồm cả trường hợp

Lixăng NH hàng hóa. Tuy nhiên, theo quan điểm của Uỷ ban Châu Âu thì các hợp
đồng có đối tượng là NH hàng hóa khơng được coi là hợp đồng CGCN vì việc
chuyển giao HH thường diễn ra trong bối cảnh phân phối và bán lại HH, DV và nói
chung là nó giống hợp đồng phân phối hơn là hợp đồng CGCN.8
Vì là một dạng của hợp đồng CGCN theo pháp luật Việt Nam nên có
những đặc điểm của hợp đồng CGCN cũng là đặc diểm của hợp đồng Lixăng như
vấn đề chủ thể của hợp đồng, vấn đề cải tiến và thay đổi, vấn đề thời hạn. Vì vậy,
khi tiến hành so sánh Lixăng NH và NQTM không nhắc lại những đặc điểm trên.

Giữa Lixăng nhãn hiệu và NQTM có những điểm giống nhau sau:
- Về mục tiêu, cả Lixăng NH và NQTM đều nhằm vào mục đích tiêu thụ HH
- Trong hợp đồng Lixăng NH, các bên có thể thỏa thuận bên được chuyển
giao có nghĩa vụ phải đảm bảo chất lượng HH mang NH được chuyển giao phải
tương ứng với chất lượng sản phẩm cùng loại mang NH của bên giao. Điều này
giống với NQTM.
- Bên chuyển giao NH/ Bên nhượng quyền có quyền kiểm tra chất lượng sản
phẩm của bên nhận, yêu cầu bên được chuyển giao phải thực hiện các biện pháp cần
thiết để đảm bảo chất lượng

Khác nhau
- Trong Lixăng NH hàng hóa, bên nhận Lixăng phải ghi chỉ dẫn trên sản
phẩm, bao bì rằng sản phẩm được sản xuất theo Lixăng do bên giao cấp và chỉ ra
tên của bên giao. Nguyên nhân của trường hợp này là do bên nhận Lixăng không
được chuyển giao tên thương mại của bên giao mà chỉ được chuyển giao NH hàng
hóa. Điều này khác với NQTM
- Đối tượng được chuyển giao trong NQTM không chỉ là những quyền liên
quan đến đối tượng SHCN được bảo hộ mà còn bao gồm cả những đối tượng không
được bảo hộ. Các đối tượng này không đơn thuần là từng quyền riêng biệt mà là tổ
hợp các quyền đó. Các quyền này trong sự kết hợp với nhau phải được chuyển giao
8


Nguyễn Thanh Tâm, [22], trang 37.

19


một cách tổng thể bao gồm các kiến thức và kinh nghiệm cũng như cùng với một
số yếu tố khác… nhằm mục đích trang bị cho bên nhận quyền khả năng điều hành
tồn bộ hoạt động kinh doanh theo mơ hình nguyên mẫu của bên nhượng quyền.
Như vậy, đối tượng được chuyển giao của NQTM rộng hơn so với Lixăng NH.
- Do phạm vi đối tượng được chuyển giao rộng hơn nên quyền kiểm soát của
bên nhượng quyền cũng rộng hơn so với bên giao trong Lixăng NH. Sự kiểm sóat
khơng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra chất lượng HH mà cịn là sự kiểm sốt đối với
tồn bộ hoạt động kinh doanh của bên nhượng quyền.
Tóm lại, có thể nói, hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng chứa đựng những
đặc điểm tổng hợp của rất nhiều loại hợp đồng khác nhau. Hợp đồng NQTM có
chứa đựng những yếu tố của hợp đồng Lixăng, đó là sự hướng tới việc sử dụng một
số đối tượng của quyền SHCN như sáng chế, NH hàng hóa, kiểu dáng cơng nghiệp.
Bên cạnh đó, hợp đồng này cịn có những điểm tương đồng với hợp đồng CGCN
khi mà nội dung của hợp địng ln xác định rõ việc bên nhượng quyền phải chuyển
giao, cung cấp, hướng dẫn cho bên nhận quyền các công nghệ đi kèm và các tài liệu
hướng dẫn vận hành các cơng nghệ đó. Khơng những vậy, như đã trình bày, bóng
dáng của hợp đồng đại lý cũng hiện hữu trong hợp đồng NQTM. Với tính chất tổng
hợp này, hợp đồng NQTM và những vấn đề liên quan tới chúng đặt ra địi hỏi phải
được nghiên cứu và tìm hiểu một cách khoa học.
1.3

Ưu điểm và hạn chế của nhượng quyền thương mại

Qua việc so sánh có thể thấy NQTM bao hàm một số dấu hiệu nhất định của

hoạt động đại lý thương mại, hoạt động CGCN. Điều này phản ánh sự giao thoa
nhất định của NQTM với các hoạt động kể trên. Tuy nhiên, NQTM không hẳn là sự
trùng lắp với một hoạt động cụ thể nào trong số đó mà là một hoạt động thương mại
độc lập. Mặt khác, việc tiến hành so sánh cũng cho chúng ta thấy, so với các hoạt
động thương mại khác, NQTM cũng có những ưu điển vượt trội. Chính vì vậy, từ
những năm 60, NQTM trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành cơng
khơng chỉ tại Hoa Kỳ mà cịn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp... Sự lớn
mạnh của những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu
trong lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn-nhà hàng đã góp phần “truyền
bá” và phát triển franchise trên khắp thế giới. Ngày nay, franchise đã có mặt tại hơn
150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh
theo phương thức nhượng quyền.

20


1.3.1 Ưu điểm của nhượng quyền thương mại.
Có quá nhiều cách để tiến hành kinh doanh, vì sao phải là nhượng quyền?
Bởi vì NQTM về cơ bản đã mang lại những lợi ích ích nhất định kể cả cho bên
nhượng quyền và bên nhận quyền.
1.3.1.1 Đối với bên nhượng quyền
a.
Nhân rộng mơ hình kinh doanh, mở rộng phạm vi ảnh hưởng.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng muốn nhân rộng mơ hình kinh doanh của
mình một khi đã được chứng minh là thành công. Thế nhưng làm thế nào để nhân
rộng mơ hình kinh doanh với chi phí thấp nhất, trong khoảng thời gian ngắn nhất và
an tồn nhất. Có vẻ như phương thức nhượng quyền đáp ứng được mong mỏi của
các doanh nghiệp. Khó khăn về nguồn vốn cũng như các yếu tố khác như yếu tố địa
lý, con người, kiến thức và văn hóa địa phương đã được giải quyết khi doanh
nghiệp quyết định mở rộng mơ hình kinh doanh bằng phương thức nhượng quyền

bởi NQTM cho phép bên nhượng quyền nhân rộng mơ hình kinh doanh, thành lập
những cơ sở nhượng quyền giống với mơ hình ngun mẫu và kinh doanh cùng một
NH của mình. Bên nhượng quyền khơng phải tốn chi phí đầu tư ban đầu cũng như
chí phí để quản trị cả hệ thống. Bên nhận quyền sẽ chịu toàn bộ tiền đầu tư của cải
vật chất và tự quản trị tài sản của mình. Điều đó có nghĩa là bên nhượng quyền có
thể mở rộng hoạt động kinh doanh bằng chính đồng vốn của người khác và giảm chi
phí cho việc thâm nhập thị trường, không phải gánh chịu những rủi ro về môi
trường đầu tư cũng như những rủi ro về bất ổn chính trị, pháp luật của thị trường
mới. Mặt khác, “do phải gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của mình nên bên
nhận quyền có thể sẽ thể hiện một cách tích cực hơn trách nhiệm của họ so với
người đại diện hoặc là nhân viên của bên nhượng quyền”9
Quan trọng hơn, một khi mơ hình kinh doanh của doanh nghiệp được mở
rộng nhanh chóng thì giá trị của cơng ty hay thương hiệu cũng lớn mạnh theo, điều
này thúc đẩy việc quảng cáo,quảng bá thương hiệu của mình. Mở rộng kinh doanh
và sự xuất hiện ở khắp nơi của chuỗi cửa hàng sẽ đưa hình ảnh về sản phẩm đi sâu
vào tâm trí của khách hàng một cách dễ dàng hơn.Đối với các doanh nghiệp Việt
Nam đang có tham vọng đưa thương hiệu của mình ra thế giới nhưng chưa đủ lực
để đầu tư trực tiếp thì mơ hình NQTM có lẽ là phù hợp nhất do khơng phải bỏ vốn
mà lại bảo hộ và quảng bá được thương hiệu của mình.
b.
Tối đa hóa thu nhập.
Đối với một mơ hình kinh doanh đã được chứng minh là thành công trong
thực tiễn, để lại dấu ấn trong tâm trí khách hàng một cách sâu đậm thì thương hiệu
9

Nguyễn Văn Luyện – Lê Thị Bích Thọ - Dương Anh Sơn,[ 13 ], trang 269

21



trở thành một tài sản vơ hình hết sức giá trị. Vì vậy, ngồi nguồn thu nhập có được
từ hoạt động nỗ lực kinh doanh, chủ thương hiệu hoàn toàn có thể cải thiện doanh
số của mình bằng cách nhượng quyền thương hiệu và sử dụng công thức kinh doanh
mà ngày nay được xem như là một thứ tài sản quý giá nhất của một doanh nghiệp.
Khi hoạt động nhượng quyền cứ tiếp tục và phát triển thì cùng với nó là sự lớn
mạnh của thương hiệu như một chuỗi vận động liên tục và đem lại nguồn thu lớn,
ổn định, chắc chắn cho bên nhượng quyền.
Thơng qua hình thức NQTM, bên nhượng quyền cịn có thể nhận được phí
nhượng quyền ban đầu, phí hàng tháng của bên nhận quyền. Đồng thời, bên cạnh
phí, bên nhượng quyền cịn có thể tối đa hóa thu nhập của mình bằng cách bán các
nguyên liệu đặc thù. Mục đích của việc này nhằm vừa đảm bảo tính đồng bộ của hệ
thống nhượng quyền vừa mang lại lợi nhuận phát triển song song với tình hình kinh
doanh của bên nhận quyền. Ví dụ như Mc Donald’s cung cấp và bán cho các cửa
hàng nhượng quyền của mình một số nguyên liệu quan trọng như khoai tây chiên,
pho mát, bánh táo…10
Ngoài ra, lợi nhuận cũng có được từ chính hoạt động cung cấp ngun liệu
đặc thù cho các cơ sở nhận quyền trong trường hợp trên thông qua phần chênh lệch
được hưởng nhờ ưu thế mua hàng giá rẻ của bên nhượng quyền do mua với số
lượng lớn để phân phối lại cho bên nhận quyền.
c. Khả năng chia sẻ chi phí với tồn bộ hệ thống nhượng quyền.
Bên cạnh việc tối đa hóa lợi nhuận, bên nhượng quyền cịn được tiết giảm
các chi phí, đặc biệt là các chi phí quảng cáo, tiếp thị vì chi phí này sẽ được trải
rộng cho cả hệ thống nhượng quyền thơng qua phí nghĩa vụ hàng tháng của bên
nhận quyền. Cho nên, chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh là rất nhỏ. Điều
này giúp cho bên nhượng quyền xây dựng được một ngân sách quảng cáo lớn. Đây
là một lợi thế cạnh tranh mà khó có đối thủ cạnh tranh nào có thể vượt qua.
1.3.1.2 Đối với bên nhận quyền
a)
Giảm thiểu rủi ro: mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là
giảm thiểu rủi ro.

Hãy tưởng tượng, lần đầu tiên bạn chơi nhào lộn trên khơng, liệu chúng ta có
dám thực hiện ý định đó mà khơng cần bất kỳ thiết bị đảm bảo an tồn nào khơng?
Câu trả lời chắc chắn là khơng bởi vì có một nguy cơ rất lớn là chúng ta sẽ thất bại.
Điều này cũng tương tự như việc bắt đầu hoạt động kinh doanh bằng cách tự tạo lập
một cơ sở kinh doanh của chính mình. Nếu chưa bao giờ làm chủ một cơ sở kinh
doanh thì việc tự quyết định mọi việc một mình sẽ là điều hết sức khó khăn, mạo
10

Lý Qúy Trung, [15], trang 18

22


hiểm mà chúng ta không thể lường trước được. Lý do chính bởi vì người quản lý là
người mới vào nghề, khơng có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian cho việc
học hỏi các đặc trưng riêng cho từng loại hình kinh doanh. Theo con số thống kê tại
Mỹ thì trung bình chỉ có 23% doanh nghiệp nhỏ kinh doanh độc lập có thể tồn tại
sau 5 năm kinh doanh, trong khi đó con số này đối với doanh nghiệp kinh doanh
bằng phương thức NQTM là 92%.11 Như vậy, xác suất thành công của doanh
nghiệp mua franchise cao hơn rất nhiều.
Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn
luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành cơng của các
loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích lũy được từ những trải
nghiệm trên thị trường. Bên nhận quyền sẽ không trải qua giai đoạn xây dựng và
phát triển ban đầu với nhiều rủi ro tiền ẩn. Bên nhượng quyền sẽ hướng dẫn bên
nhận quyền các nguyên tắc chung.
b)
Được sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền.
Trước hết cần phải phân biệt NH và thương hiệu. Nếu NH được nhìn nhận
dưới góc độ pháp lý, được bảo hộ bởi pháp luật, là “dấu hiệu để phân biệt HH, DV

của các tổ chức, cá nhân khác nhau”12 thì thương hiệu được nhìn nhận dưới góc độ
quản trị tiếp thị của doanh nghiệp, do doanh nghiệp xây dựng và được cơng nhận
bởi khách hàng. Nói cách khác, thương hiệu là sự kỳ vọng của khách hàng về sản
phẩm, DV. Bất kỳ sản phẩm tốt xấu nào cũng có NH riêng nhưng để đạt đến trình
độ “có thương hiệu” thì khơng nhiều. Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên
nhận quyền không chỉ đơn thuần được sử dụng NH của bên nhượng quyền mà quan
trọng hơn, họ còn được sử dụng thương hiệu – một loại hàng hóa trí tuệ đã được
chứng minh là thành cơng và được khách hàng cơng nhận. Thương hiệu hay uy tín
của NH đóng vai trị quan trọng đối với khách hàng khi họ quyết định chọn mua sản
phẩm nào. Như vậy, xác suất thành công của các doanh nghiệp tham gia hệ thống
nhượng quyền cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp mới bắt đầu thử nghiệm
mơ hình kinh doanh lần đầu và NH thì chưa ai biết đến. Điều này chứng minh sức
mạnh của thương hiệu trong quyết định của khách hàng hay nói cách khác, khi nhận
quyền của một sản phẩm đã có thương hiệu thì bạn đã sở hữu một khối lượng khách
hàng tối thiểu.
c)
Nhận sự giúp đỡ của phía nhượng quyền.
Khác với các quan hệ khác, quan hệ giữa bên nhận quyền và bên nhượng
quyền là quan hệ lâu dài, thường xuyên và ổn định. Uy tín của một mắt xích trong

11
12

Lý Qúy Trung, [15], trang 19
Khoản 16, điều 4. luật Sở Hữu Trí Tuệ.

23


hệ thống nhượng quyền sẽ quyết định đến uy tín của cả một hệ thống, đặc biệt là đối

với những hệ thống nhượng quyền mới phát triển. Do vậy, một trong những vấn đề
được các nhà nhượng quyền rất quan tâm là hoạt động đào tạo, chuyển giao kinh
nghiệm quản lý, điều hành. Điều này giúp tạo nền tảng vững chắc cho nhà nhận
quyền tiến hành hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận và giữ được uy tín của thương
hiệu sản phẩm.
d)
Vấn đề chi phí.
Để tạo lập được một NH nổi tiếng, định vị được trong lịng khách hàng thơng
qua việc bắt đầu bằng một mơ hình kinh doanh mới địi hỏi phải tốn nhiều thời gian,
cơng sức và tiền bạc. Nhưng nếu bắt đầu bằng một NH nổi tiếng thì vấn đề có vẻ
đơn giản và quan trọng hơn là sự tiết giảm chi phí đầu tư. Ngồi ra, những chi phí
thiết yếu khác mà một chủ thể kinh doanh độc lập phải gánh chịu như chi phí quảng
cáo, tiếp thị thì bên nhận quyền khơng tự gánh chịu tồn bộ mà có sự chia sẻ từ
những chủ thể khác trong cùng hệ thống nhưng vẫn được hưởng trọn vẹn mọi lợi
ích có được từ hoạt động này.
Bên cạnh đó, bên nhận quyền cịn được mua ngun liệu, sản phẩm với giá
ưu đãi. Bên nhượng quyền ln có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm,
nguyên liệu cho bên nhận quyền. Do đó, bên nhận quyền sẽ được mua sản phẩm
hoặc nguyên liệu với khối lượng lớn theo tỷ lệ khấu hao đầy hấp dẫn. Giá trị của
các sản phẩm, nguyên liệu đầu vào thấp sẽ là một lợi thế cạnh tranh lớn. Nếu trên
thị trường có những biến động lớn như việc khan hiếm nguồn hàng thì bên nhượng
quyền sẽ ưu tiên phân phối cho bên nhận quyền trước . Điều này giúp cho bên nhận
quyền ổn định đầu vào, tránh được những tổn thất từ biến động thị trường.
Có thể nói, sự lớn mạnh của mơ hình NQTM là minh chứng cho tính ưu việt
phương thức kinh doanh này . Ngày nay, q trình tồn cầu hoá trên thế giới diễn ra
rất nhanh, mạnh trong tất cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy
vai trị của nó trên tồn thế giới.
Một số kết quả thực sự ấn tượng của hệ thống này mang lại trên thế
giới:doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên toàn thế giới năm 2000
đạt 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác nhau. Nếu so sánh với

GDP của Việt Nam cùng năm thì hệ thống này gấp trên 28 lần và cịn có dấu hiệu
vượt hơn nữa trong những năm gần đây. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm
trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút được trên 8 triệu người lao động tức là 1/7 tổng
lao động ở Mỹ và có hơn 550.000 cửa hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một
cửa hàng nhượng quyền mới; Ở Châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống NQTM
với 167.500 cửa hàng NQTM, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro, tạo ra hơn 1.5
triệu việc làm; Ở Anh, NQTM là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh
24


nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 DN nhượng quyền, doanh thu mỗi năm 8,9
tỷ bảng Anh. Khu vực NQTM cũng thu hút một lượng lao động lớn với khoảng
317.000 lao động và chiếm trên 29% thị trường bán lẻ; Tại Thái Lan, số hợp đồng
nhượng quyền đang tăng rất nhanh, trong đó có tới 67% thuộc khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ, với số vốn ban đầu cho mỗi hợp đồng 20.000-65.000 USD. Bộ
thương mại công bố chương trình khuyến khích và quảng bá thương hiệu nội địa ra
thị trường quốc tế qua NQTM. Được hỗ trợ đào tạo trung và ngắn hạn về công nghệ
NQTM. Bước đầu: năm 2004 đạt 25 triệu Baht, năm 2005 tăng 10% tương tự các
năm tiếp theo; Tại Nhật Bản, NQTM phát triển mạnh từ năm 1996, đến năm 2004
đã có 1.074 hệ thống NQTM và 220.710 cửa hàng nhận NQTM, doanh thu từ công
nghệ NQTM là khoảng 150 tỉ USD, tăng trưởng hàng năm 7%.
1.3.2 Hạn chế của nhượng quyền thương mại.
NQTM khơng phải là phương thức kinh doanh hồn tồn ưu việt. Bên cạnh
những ưu điểm kể trên thì mơ hình này cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Vì
vậy, bên nhượng quyền phải hết sức sáng suốt khi quyết định nhân rộng mơ hình
kinh doanh của mình bằng cách NQTM cũng như bên nhận quyền cần cân nhắc khi
tham gia vào bất kỳ một hệ thống nhượng quyền nào.
1.3.2.1Đối với bên nhượng quyền
a)
Khả năng mất quyền kiểm soát đối với hệ thống nhượng quyền và

uy tín bị giảm sút.
Trong quan hệ NQTM, giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền luôn tồn
tại một hợp đồng với những điều khoản ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên
với nhau, trong đó quan trọng nhất là việc bên nhận quyền có nghĩa vụ tự mình tiến
hành việc mua bán HH, cung ứng DV theo các điều kiện do bên nhượng quyền quy
định và bên nhượng quyền có quyền kiểm soát bên nhận quyền trong việc điều hành
họat động kinh doanh. Mục đích của quy định này nhằm duy trì tính đồng bộ - một
trong những yếu tố quan trọng bậc nhất không chỉ làm nên bản sắc, dấu hiệu riêng
của hệ thống nhượng quyền mà còn là một cam kết về chất lượng HH, DV của bất
kỳ cửa hàng nào trong hệ thống nhượng quyền đối với khách hàng. Việc vận hành
từng mắt xích riêng lẻ của hệ thống phải dựa trên kinh nghiệm đã thành công trong
việc điều hành mơ hình kinh doanh ngun mẫu.13 NQTM khơng chấp nhận bất kỳ
sự thay đổi nào dù là nhỏ nhất đi ngược lại với mơ hình nhượng quyền ban đầu khi
không được sự cho phép của bên nhượng quyền.
Tuy nhiên, do đặc thù của mơ hình NQTM, bên nhận quyền phải bỏ vốn ra
đầu tư, độc lập trong doanh thu và lợi nhuận, tự gánh chịu mọi rủi ro trong hoạt
13

Nguyễn Thị Thanh Huyền,[19], trang 17.

25


×