Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Cưỡng chế thi hành án dân sự (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT DÂN SỰ
----------------

PHẠM THỊ VIỆT HÀ

CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Dân sự

TP HCM – 2013


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT DÂN SỰ
----------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THỊ VIỆT HÀ
Khóa: 34
MSSV: 0955020037
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S ĐẶNG THANH HOA

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số
liệu, kết quả nêu trong bài khóa luận tốt nghiệp là trung thực và chính xác. Tác giả
xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả khóa luận

Phạm Thị Việt Hà


LỜI CẢM ƠN
Mặc dù đã có nhiều cố gắng với tiến độ làm việc nghiêm túc, do thời gian
nghiên cứu ngắn, thực tiễn chưa sâu, khóa luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những
hạn chế, tác giả kính mong sự góp ý chân thành của thầy cơ, bạn bè.
Tác giả chân thành cảm ơn quý thầy cô của khoa Luật Dân sự, đặc biệt là cảm
ơn cô Đặng Thanh Hoa đã giúp đỡ tác giả hồn thành khóa luận này.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Luật THADS

Luật thi hành án dân sự được Quốc hội
Việt Nam thơng qua ngày 14/11/2008 và
có hiệu lực từ ngày 1/7/2009.

PLTHADS 1989

Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành
ngày 28/8/1989 và có hiệu lực từ ngày

1/1/1990.

PLTHADS 1993

Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành
ngày 17/4/1993 và có hiệu lực từ ngày
1/6/1993.

PLTHADS 2004

Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành
ngày 14/1/2004 và có hiệu lực từ ngày
1/7/2004.


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ... 5
1.1. Khái niệm chung về cưỡng chế thi hành án dân sự .............................................. 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thi hành án dân sự ...................................... 5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa cưỡng chế thi hành án dân sự ..................... 9
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của cưỡng chế thi hành án dân sự ............... 11
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1989 ................................................ 11
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến trước năm 1993 ................................................ 12
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1993 đến trước năm 2004 ................................................ 13
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước năm 2008 ................................................ 14
1.2.5. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay ................................................................... 15
1.3. Cưỡng chế thi hành án dân sự trong pháp luật một số nước trên thế giới .......... 15

1.3.1. Cưỡng chế thi hành án dân sự ở Cộng hòa liên bang Đức ........................... 15
1.3.2. Cưỡng chế thi hành án dân sự ở Thái Lan ................................................... 17
1.3.3. Cưỡng chế thi hành án dân sự ở Thụy Điển ................................................ 18
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CƢỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................................ 22
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của cưỡng chế thi hành án dân sự ............................. 22
2.1.1 Cơ sở lý luận của cưỡng chế thi hành án dân sự............................................ 22
2.1.2 Cơ sở thực tiễn của cưỡng chế thi hành án dân sự ........................................ 23
2.2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự ..................................................... 24
2.2.1. Cưỡng chế đối với tài sản là tiền .................................................................. 24
2.2.2. Cưỡng chế đối với tài sản là giấy tờ có giá .................................................. 27
2.2.3. Cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ ....................................... 28
2.2.4. Cưỡng chế đối với tài sản là vật ................................................................... 28
2.2.5. Cưỡng chế khai thác đối với tài sản ............................................................. 36


2.2.6. Cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử dụng đất .......................................... 36
2.2.7. Cưỡng chế trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử dụng đất ................................ 38
2.2.8. Cưỡng chế buộc thực hiện hay không buộc thực hiện công việc nhất định 40
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................................................. 42
3.1. Thực trạng về cưỡng chế thi hành án dân sự ....................................................... 42
3.1.1 Thực trạng chung về việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự trong những năm gần đây ................................................................. 42
3.1.2 Nhận xét chung về thực trạng áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự .................................................................................................................. 43
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. ....................... 58
3.2.1 Về cơ sở vật chất ............................................................................................ 58
3.2.2 Về nhân lực .................................................................................................... 58
3.2.3 Về khung pháp lý ........................................................................................... 61

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cưỡng chế thi hành án dân sự là một hoạt động thực thi pháp luật, thể hiện
quyền lực Nhà nước xuất phát từ nguyên tắc Hiến định: “Các bản án, quyết định của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị vũ trang phải
chấp hành”1. Cưỡng chế có ý nghĩa rất lớn trong việc quyết định hiệu quả của cơng tác
xét xử, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức trong xã hội, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, không thể áp dụng cưỡng chế thi hành án dân sự một cách tùy tiện vì
nếu cưỡng chế được sử dụng không phù hợp với những quy định của pháp luật thì sẽ vi
phạm nguyên tắc dân chủ. Chỉ khi nào biện pháp tự nguyện khơng đạt kết quả thì việc
áp dụng cưỡng chế mới thực sự cần thiết để vừa giải quyết dứt điểm vụ việc, vừa có
tác dụng giáo dục, răn đe những đối tượng phải thi hành án có điều kiện thi hành mà cố
tình chây ỳ. Xuất phát từ tính chất nhạy cảm, phức tạp, tầm quan trọng cũng như ảnh
hưởng đến quyền lợi của các chủ thể, Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng
dẫn đã ra đời nhằm điều chỉnh về vấn đề trên. Đây được xem là bước đột phá mạnh mẽ
trong công tác thi hành án dân sự.
Mặc dù vậy, thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, việc cưỡng chế thi hành án
cịn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, nhiều trường hợp quyền lợi của các đương sự

chưa được bảo đảm. Một trong những lý do của sự hạn chế này xuất phát từ chính sự
thiếu sót, chưa phù hợp, thiếu thống nhất từ các quy định của pháp luật.
Trước tình hình đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu chế định cưỡng chế trong lĩnh vực
thi hành án dân sự trên cơ sở văn bản pháp luật hiện hành nhằm đề ra những phương
hướng hoàn thiện cho hoạt động cưỡng chế là điều cần thiết. Chính vì vậy, tác giả đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Cưỡng chế thi hành án dân sự” để làm khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cưỡng chế là một nội dung quan trọng của ngành thi hành án dân sự. Do đó,
vấn đề này đã được nghiên cứu trong một số bài khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ
1

Điều 136 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.

Trang 1


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

và trong các tạp chí chun ngành như: Khóa luận tốt nghiệp “Biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự Việt Nam” của tác giả Lâm Quỳnh Thơ, năm
1996; Khóa luận tốt nghiệp “Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự”
của tác giả Lê Thị Kim Anh, năm 1999; Luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn đề về
bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự (qua khảo sát thực tiễn tại trung tâm dịch vụ
bán đấu giá tài sản thành phố Hồ Chí Minh)” của tác giả Đặng Thanh Hoa, năm 2002;
Khóa luận tốt nghiệp “Kê biên và bán đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành
án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Kim Loan, năm 2006; Khóa luận tốt nghiệp
“Cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, năm 2010;

Luận văn thạc sỹ luật học “Quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản” của Lê Thị Mỹ
Nhung, năm 2011; Bài viết “Một số vấn đề về kê biên phần vốn góp theo Luật thi hành
án dân sự năm 2008” của tác giả Hồ Quân Chính trên tạp chí Dân chủ và pháp luật,
năm 2011…
Tuy nhiên, phần lớn các bài báo và công trình nghiên cứu khoa học trên lại có
nội dung dựa trên cơ sở quy định của các Pháp lệnh thi hành án dân sự trước đây, đồng
thời chỉ đi sâu vào một mảng trong cưỡng chế thi hành án. Việc tìm hiểu tất cả các
biện pháp trong chế định cưỡng chế theo Luật Thi hành án dân sự là một vấn đề cần
thiết để nhận biết những điểm mới của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng những
quy định đó.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn
áp dụng cưỡng chế thi hành án dân sự. Đề tài tuy khơng mới nhưng vẫn mang đậm tính
thời sự trong hoạt động thi hành án ở nước ta hiện nay.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, đồng thời nêu lên một
số vướng mắc để các nhà lập pháp xem xét sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho
phù hợp với tình hình thực tiễn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mong muốn của tác giả khi nghiên cứu đề tài này là làm sao góp phần hồn
thiện những quy định của pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân sự, từ đó
đem lại hiệu quả cho hoạt động thi hành án nói chung và hoạt động cưỡng chế nói
riêng. Để làm được điều này, tác giả đã đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:

Trang 2


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà


Thứ nhất: Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận để đưa ra
khái niệm, đặc điểm, vai trị cũng như lịch sử hình thành và phát triển của chế định
cưỡng chế thi hành án dân sự. Ngồi ra, tác giả cịn khái qt những đặc trưng của hoạt
động cưỡng chế này trong pháp luật một số nước trên thế giới, thơng qua đó, liên hệ
với pháp luật Việt Nam nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt;
Thứ hai: Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi
hành án dân sự. Trên cơ sở này, phát hiện những điểm mới, đồng thời tìm ra những bất
cập cịn tồn tại trong các quy định của Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành;
Thứ ba: Đánh giá thực trạng về cưỡng chế thi hành án dân sự trong những năm
gần đây, từ đó tìm ra những thuận lợi cũng như khó khăn, vướng mắc trong q trình
áp dụng nó và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định cưỡng chế thi hành
án dân sự.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Với quy mô của một bài khóa luận tốt nghiệp, tác giả chỉ tập trung đi sâu vào
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự dựa trên cơ sở phân tích, nghiên cứu
những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Bên cạnh đó, do việc tìm kiếm, thu
thập một cách cụ thể các số liệu cịn gặp nhiều khó khăn, vì vậy tác giả chỉ đưa ra một
số kết quả cưỡng chế thi hành án dân sự tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh (nơi tác
giả đang học tập đồng thời cũng là thành phố đại diện cho khu vực đô thị nơi hoạt
động cưỡng chế thi hành án dân sự được xem là hiệu quả) và tỉnh Quảng Nam (quê
hương của tác giả đồng thời cũng là tỉnh đại diện cho khu vực nông thôn nơi hoạt động
cưỡng chế cịn nhiều khó khăn), từ đó có sự liên hệ với các địa phương khác trên cả
nước để có cái nhìn khái quát về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được trình bày trên cơ sở lý luận nhận thức của Chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật.
Nội dung của khóa luận được trình bày và phân tích dựa trên cơ sở các văn bản
pháp luật, các văn bản hướng dẫn, các tài liệu tổng kết thực tiễn và các tạp chí pháp lý

chuyên ngành.

Trang 3


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

Khi nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp,
thống kê, liệt kê và phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ nội dung
của đề tài.
7. Cơ cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của khóa luận gồm có ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự.

Trang 4


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ


1.1.

Khái niệm chung về cƣỡng chế thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa thi hành án dân sự
1.1.1.1.

Khái niệm thi hành án dân sự

 Khái niệm chung về thi hành án
Thi hành án là q trình thực tế hóa các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật thành giá trị hiện thực trong cuộc sống. Thi hành án vừa có những đặc
điểm của một dạng hoạt động Nhà nước vừa có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất: Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án. Các
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt
động thi hành án. Vì vậy, có thể nói khơng có kết quả của hoạt động xét xử thì cũng
khơng có hoạt động thi hành án;
Thứ hai: Thi hành án là hoạt động có tính chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến
hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, ở đây, tính chấp hành trong thi hành án có
những nét riêng, thể hiện ở chỗ: Một là, nó chủ yếu do cơ quan tư pháp hay đối tượng
phải thi hành án tiến hành; Hai là, cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án bao
gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật)
và các bản án, quyết định của Tòa án (các văn bản áp dụng pháp luật) đã có hiệu lực
pháp luật; Ba là, mục đích cuối cùng của hoạt động thi hành án là bảo đảm nội dung
của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi chứ
không phải là ra các văn bản áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành;
Thứ ba: Q trình thi hành án nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được pháp
luật quy định chặt chẽ. Hơn nữa, người tiến hành các trình tự, thủ tục đó về nguyên tắc

phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong nội dung bản
án, quyết định của Tịa án, từ đó tiến tới mục tiêu đạt được sự thật trên thực tế; nếu
không tuân theo nguyên tắc trên thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã
xác định sẽ khơng cịn ngun nghĩa của nó.

Trang 5


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

Từ những phân tích trên có thể hiểu: “Thi hành án là hoạt động của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo trình tự thủ tục, được pháp luật quy
định nhằm thực hiện các bản án, quyết định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật của
Tịa án”2.
 Khái niệm về thi hành án dân sự
Hiện nay, khái niệm thi hành án dân sự chưa được quy định cụ thể trong một
văn bản pháp luật nào, do đó cịn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chủ yếu
theo ba quan điểm cơ bản sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án dân sự là một giai đoạn của hoạt động
tố tụng dân sự. Đó là giai đoạn độc lập, là giai đoạn cuối cùng sau các giai đoạn tố
tụng khác như: khởi kiện, thụ lí vụ án, điều tra, hòa giải và xét xử. Sở dĩ có quan điểm
này vì có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của cơng tác xét xử.
Đồng tình với quan điểm này, TS. Phan Hữu Thư lý giải: “Nếu tách ra thì sẽ khơng
thực hiện được mục tiêu chung của tồn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm
sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Toà án thì mới dừng lại ở việc làm rõ
đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản, giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế,
cần phải chờ ở hiệu quả của cơng tác thi hành án. Vì vậy, thi hành án dân sự là giai
đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng các

biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời sống
thực tế. Quá trình đi tìm chân lý kéo dài suốt quá trình tố tụng cho tới khi chân lý được
khẳng định trên thực tế”3.
Quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án dân sự là một biện pháp hành chính - tư
pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án
chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tịa án đã xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác,
khơng thuộc q trình tố tụng. Đồng tình với quan điểm này, GS.TS Lê Minh Tâm
cho rằng thi hành án (đặc biệt là thi hành án dân sự) không phải là giai đoạn tố tụng
bởi lẽ theo quan điểm của ơng thì“thi hành án có mục đích khác với mục đích của tố
tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở
đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật còn thi hành

2
3

Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010), Cưỡng chế thi hành án dân sự, khóa luận cử nhân luật, tr. 1.
Báo cáo tổng thuật hội thảo một số vấn đề lý luận về thi hành án (2002), Thông tin Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý (chuyên đề: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án hiện nay), tr. 8-9.

Trang 6


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp lực”4.
Quan điểm thứ ba cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp, có mục

đích nhằm “phục vụ tốt nhiệm vụ xét xử của Tòa án” như Nghị quyết Hội đồng lần thứ
tám Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII đã nêu.
Qua nghiên cứu ba quan điểm trên, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng thi
hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp bởi lẽ hoạt động thi hành án dân sự
vừa có tính chất của hoạt động hành chính vừa có tính chất của hoạt động tư pháp:
Tính chất hành chính của thi hành án dân sự được thể hiện ở chỗ:
Một là, bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện kiểm sát còn có nhiều chủ thể khác
tham gia vào q trình thi hành án dân sự như Ủy ban nhân dân địa phương nơi người
phải thi hành án cư trú; cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án làm việc…;
Hai là, pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác thi
hành án dân sự thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Ủy ban nhân dân địa phương5;
Ba là, trong quá trình thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án tác động tới người
phải thi hành án để đối tượng này tự giác thi hành, trong trường hợp người phải thi
hành án không thể hiện thiện chí, sự tự nguyện của mình trong việc thi hành án thì bị
áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Từ đó, giáo dục họ và những người xung quanh về ý
thức tôn trọng pháp luật. Để thực hiện được điều này, yêu cầu của hoạt động thi hành
án dân sự phải có tính kế hoạch, tổ chức, đơn đốc, kiểm tra, xử lý…, đó là những tính
chất của hoạt động hành chính.
Tính chất tư pháp của thi hành án dân sự được thể hiện ở chỗ:
Một là, cơ sở của hoạt động thi hành án dân sự là các bản án, quyết định dân sự
của Tòa án; Các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án dân sự chủ yếu là cơ quan
tư pháp (theo nghĩa rộng);
Hai là, hoạt động thi hành án dân sự chủ yếu được thực hiện thơng qua vai trị
của Chấp hành viên. Khi thi hành nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật,
chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều này thể hiện tính độc
lập rất cao trong hoạt động thi hành án dân sự;
4
5

Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp chí luật học, (02), tr. 21.

Khoản 4 Điều 18 Luật tổ chức Chính phủ 2001 và khoản 4 Điều 94, khoản 4 Điều 106 Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.

Trang 7


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

Ba là, Chấp hành viên là một loại chức danh được đào tạo từ Trường đào tạo
các chức danh tư pháp.
Từ việc phân tích các quan điểm về thi hành án dân sự, có thể đưa ra khái niệm
về thi hành án dân sự như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp
của Nhà nước mà trong đó “cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành các bản án,
quyết định dân sự của Tịa án có hiệu lực pháp luật nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”6.
1.1.1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự
Thứ nhất: Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước và chỉ
phát sinh trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án sau khi giải quyết các tranh chấp
dân sự;
Thứ hai: Khi thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án căn cứ vào nội dung bản
án, quyết định của Tòa án và yêu cầu của đương sự để thi hành, không giải quyết
những vấn đề về nội dung vụ việc;
Thứ ba: Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện và tự thỏa thuận của các bên, do đó
trong thi hành án dân sự, việc thi hành bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự
được xem là một nét đặc trưng;
Thứ tư: Xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ dân sự
nên thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt nhưng sự định đoạt đó khơng
được trái pháp luật và đạo đức xã hội;

Thứ năm: Thi hành án dân sự là giai đoạn tố tụng cuối cùng của quá trình bảo
vệ quyền lợi của đương sự. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa
ra thi hành.
1.1.1.3. Vai trò và ý nghĩa của thi hành án dân sự
Thứ nhất: Thi hành án dân sự đóng vai trị quan trọng đối với các hoạt động tố
tụng. Đó là việc thi hành án dân sự đảm bảo cho kết quả hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng được thực hiện trong thực tế, đảm bảo sự công bằng của pháp luật.
Điều này được chứng minh bằng việc q trình xét xử của Tịa án dù trải qua những
hoạt động hết sức khó khăn nhưng mới chỉ là kết quả nằm trên giấy tờ nếu như nó
khơng được đưa ra thi hành;
6

Nguyễn Thanh Thủy - Lê Tuấn Sơn (2005), Người dân với cơ quan thi hành án, NXB Tư pháp, Hà Nội,
tr. 10.

Trang 8


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

Thứ hai: Thi hành án dân sự cịn có ý nghĩa giúp cho việc phát hiện những sai
sót của các quy định pháp luật, từ đó đưa ra các kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Thi hành
án dân sự có chức năng kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó để rút kinh nghiệm, tăng
cường chất lượng và hiệu quả công tác xét xử, đề cao trách nhiệm của Tịa án trong
việc ra những bản án khơng có tính khả thi;
Thứ ba: Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
Đặc thù của thi hành án dân sự là sự phối hợp chặt chẽ vai trò chủ động, phát huy trách
nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự và sự chỉ đạo của chính quyền

địa phương, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan và sự đồng tình của
quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án không chỉ đơn thuần là nghiệp vụ
riêng của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng.
Thông qua công tác thi hành án dân sự, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò cũng
như trách nhiệm của các cơ quan tổ chức được nâng cao.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.2.1.

Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự

“Biện pháp là cách xử lý để giải quyết một vấn đề cụ thể” 7. Biện pháp thi hành
án dân sự được hiểu là cách thức tổ chức thi hành một bản án, quyết định của Tòa án.
Thi hành án dân sự được tiến hành gồm hai biện pháp: tự nguyện và cưỡng chế thi
hành án.
Dưới góc độ ngơn ngữ, “cưỡng chế là dùng quyền lực Nhà nước bắt phải tuân
theo” . Dưới góc độ pháp lý, “cưỡng chế là những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ
chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền do pháp luật quy định”9. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, thuật ngữ
cưỡng chế được hiểu là “biện pháp cưỡng bức do cơ quan thi hành án áp dụng theo
thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhằm buộc người phải thi hành án
thực hiện đúng những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định dân sự
8

7

8

9


Nguyễn Văn Xô chủ biên (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh niên (tái bản lần thứ V), Hà Nội, tr.
52.
Khoa học, xã hội, nhân văn - Viện ngôn ngữ (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển bách khoa, Hà
Nội, tr. 146.
Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 124.

Trang 9


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

đã tuyên của các cơ quan tài phán”10. Và hiển nhiên, việc cưỡng chế thi hành án dân
sự là trái với ý muốn chủ quan của người phải thi hành án.
1.1.2.2. Đặc điểm cưỡng chế thi hành án dân sự
Thứ nhất: Cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà
nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là biện pháp nghiêm khắc, quyết liệt
nhất đồng thời cũng thể hiện rõ nhất tính quyền lực của Nhà nước để buộc các chủ thể
phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật;
Thứ hai: Cưỡng chế thi hành án dân sự được Chấp hành viên áp dụng trong
trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi
hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn
người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ
của mình theo bản án, quyết định của Tòa án;
Thứ ba: Đối tượng của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản
hoặc hành vi của người phải thi hành án. Ví dụ, đối với biện pháp cưỡng chế trả vật,
đối tượng của biện pháp là một loại tài sản vì theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân
sự 2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, trong đó khái

niệm “vật” được quy định tại Chương XI, Phần thứ hai của Bộ luật dân sự. Vật có thể
là bất động sản hoặc động sản, là vật chính và vật phụ, là vật chia được và không chia
được, vật tiêu hao và vật không tiêu hao, vật cùng loại, vật đặc định và vật đồng bộ.
Vật phải trả theo bản án, quyết định của Tòa án rất phong phú, đa dạng, đó có thể là đồ
dùng sinh hoạt, máy móc cơng cụ lao động… Trong khi đó, đối tượng của biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất
định lại là hành vi của con người (hành vi của người phải thi hành án). Biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc phải thực hiện cơng việc nhất định có thể áp dụng để
buộc dỡ nhà trái phép, mở lối đi…;
Thứ tư: Người bị áp dụng thi hành án dân sự bên cạnh việc phải thực hiện các
nghĩa vụ trong bản án, quyết định do Tòa án tuyên, họ còn phải chịu chi phí cưỡng chế
thi hành án dân sự. Quy định này nhằm mục đích bổ sung một phần kinh phí cho hoạt
động thi hành án, hỗ trợ phần nào cho ngân sách Nhà nước, hơn nữa xét về sâu xa, quy
định này cịn có ý nghĩa phịng ngừa các tranh chấp xảy ra, nâng cao tính cẩn trọng của
các bên trong giao dịch dân sự.
10

Bộ tư pháp - Viện khoa học pháp lý do Đinh Thị Mai Phương chủ biên (2006), Bình luận pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 39.

Trang 10


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

1.1.2.3. Vai trò và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành án dân sự
Thứ nhất: Cưỡng chế thi hành án dân sự tác động đến xã hội một cách nghiêm
khắc, đảm bảo cho kỷ cương xã hội phải được tôn trọng. Việt Nam mang “bản chất

của Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân”11, do nhân dân làm chủ,
Nhà nước chỉ là chủ thể đại diện cho nhân dân để cân bằng quyền và lợi ích cho toàn
dân, bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là nhằm
mục đích trên. Do đó, sự hạn chế quyền lợi đối với chủ thể này để đảm bảo quyền lợi
chung cho xã hội, quyền lợi chính đáng của chủ thể khác là điều dễ hiểu;
Thứ hai: Cưỡng chế thi hành án dân sự có vai trị răn đe, giáo dục rất lớn. Điều
này càng dễ nhận thấy qua việc tổ chức cưỡng chế những vụ án phức tạp, ảnh hưởng
đến tình hình an ninh, chính trị của địa phương. Nếu được sự quan tâm, ủng hộ của
cộng đồng và được thực thi nghiêm chỉnh, triệt để, được người dân “tâm phục, khẩu
phục” thì sẽ thay đổi cách nhìn nhận, từ đó tác động vào ý thức chấp hành và tuân thủ
pháp luật của nhân dân, khiến người dân càng tin tưởng hơn vào sự công bằng của chế
độ xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba: Cưỡng chế thi hành án dân sự là cơ sở pháp lý đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Khi cho rằng
quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, đương sự có quyền khởi kiện ra Tịa án có
thẩm quyền để địi quyền lợi cho mình. Tuy nhiên, nội dung phán quyết của Tịa án
khơng phải là mối quan tâm hàng đầu, điều mà họ thực sự mong muốn chính là việc
những phán quyết đó được thi hành trên thực tế chứ khơng phải chỉ là lời tuyên trên
giấy. Nếu phía bên kia khơng tự nguyện thi hành thì lúc này cưỡng chế thi hành án dân
sự đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ thể trong quan
hệ pháp luật.
1.2.

Quá trình hình thành và phát triển của cƣỡng chế thi hành án dân sự

Việc phân chia các giai đoạn hình thành và phát triển của cưỡng chế thi hành án
dân sự căn cứ vào sự ra đời của các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này. Qua
từng giai đoạn lịch sử, tổ chức và hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự Việt Nam
ngày càng được hoàn thiện, củng cố, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước đặt
ra.


11

Nguyễn Anh Tuấn chủ biên (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam,
NXB Đại học quốc gia, TP. Hồ Chí Minh, tr. 55.

Trang 11


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có PLTHADS 1989
là giai đoạn mà tổ chức hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự chưa được dựa trên
một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kì chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm thời 12 do Tòa án
nhân dân tối cao ban hành. Có thể nói rằng, ngay từ những năm đầu của chính quyền
cách mạng, dù phải đương đầu với biết bao khó khăn trong cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ chính quyền non trẻ trước sự tấn cơng của thù trong, giặc ngồi, Nhà nước ta vẫn
khơng ngừng quan tâm xây dựng, kiện tồn tổ chức và hoạt động cưỡng chế thi hành
án. Mặc dù vậy, quy định của pháp luật vẫn chưa cụ thể mà cịn khá chung chung.
“Bởi lúc này, tình hình đất nước còn chưa ổn định, các quan hệ dân sự cũng còn đơn
giản, việc đặc ra các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cũng chưa phải là nhu
cầu bức thiết”13. Cơ chế quản lý và tổ chức cưỡng chế thi hành án chưa tạo được vị trí
tương xứng cho Chấp hành viên so với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra; mặt khác, tổ chức
và hoạt động cưỡng chế thi hành án là một giai đoạn khép kín trong Tòa án và tùy
thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Vai trò của Tịa án
nhân dân tối cao (và tiếp đó là Bộ tư pháp từ năm 1981 đến năm 1992) trong việc quản

lý Tòa án địa phương mới chỉ dừng lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản
lý đội ngũ cán bộ Tòa án cũng như việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt
động cưỡng chế thi hành án dân sự do chính quyền địa phương đảm nhiệm. Nhiều năm
liền, mối quan tâm chú trọng của Tịa án vẫn giành cho cơng tác xét xử, cịn cưỡng chế
thi hành án hầu như ít quan tâm.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến trước năm 1993
Ngày 28 tháng 8 năm 1989, PLTHADS 1989 đã được ban hành, đặt cơ sở pháp
lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.
Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động
của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác
cưỡng chế thi hành án dân sự. Lần đầu tiên, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục cưỡng chế
thi hành án đã được quy định một cách khá chặt chẽ, cụ thể, dưới hình thức văn bản
pháp lý có hiệu lực cao là Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội) bao gồm những biện pháp sau: Kê biên và bán đấu giá tài sản; Bán đấu
12

13

Điều lệ tạm thời về công tác chấp hành án ban hành kèm theo công văn số 827/CV ngày 23 tháng 10
năm 1979 của Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010), Cưỡng chế thi hành án dân sự, khóa luận cử nhân luật, tr. 10.

Trang 12


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

giá nhà; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; Trừ vào tài sản của người phải

thi hành án đang do người khác giữ; Cưỡng chế giao đồ vật; Cưỡng chế trả nhà; Cưỡng
chế chấm dứt hành vi trái pháp luật. Tiếp đó, hàng loạt văn bản pháp luật đã được ban
hành nhằm cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện một số quy định của PLTHADS 1989,
đảm bảo cho Pháp lệnh được thi hành nghiêm chỉnh như Thông tư liên ngành số 0689/TTLN ngày 7 tháng 12 năm 1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 07-89/TTLN ngày 10 tháng 12 năm
1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn việc bảo vệ cưỡng chế thi
hành án... Đây là một bước phát triển mới trong q trình xây dựng, hồn thiện pháp
luật của Nhà nước ta nói chung và trong lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự nói
riêng.
Tuy nhiên, mặc dù đội ngũ cán bộ làm công tác cưỡng chế thi hành án dân sự đã
được củng cố, tăng cường, nhưng sự chỉ đạo điều hành hoạt động cưỡng chế này vẫn
chưa được thay đổi phù hợp. Cơ quan thi hành án thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp chỉ
đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động cưỡng
chế thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục cưỡng chế thi hành án đều
thuộc thẩm quyền của Chánh án, Chấp hành viên chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của
Chánh án, khơng có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Tịa
án vừa là cơ quan xét xử duy nhất vừa là cơ quan làm nhiệm vụ cưỡng chế thi hành án,
dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”, chưa thực sự đảm bảo khách quan,
cơng bằng trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự, khó lòng tránh khỏi sự băn
khoăn, lo lắng trong nhân dân về hiệu quả cơng tác này. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất,
phương tiện phục vụ cho công tác cưỡng chế thi hành án hầu như không được trang bị.
Công tác cưỡng chế thi hành án không nghiêm, “ảnh hưởng xấu đến việc giữ gìn trật
tự an tồn xã hội; các quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức và công dân tiếp
tục bị xâm phạm, pháp luật, kỉ cương phép nước bị coi thường, gây nên sự phản ứng
của dư luận và sự bất bình trong nhân dân”14.
Như vậy, nhìn chung trong giai đoạn này, chế định cưỡng chế thi hành án dân
sự vẫn chưa phát triển, cịn tồn tại nhiều điểm hạn chế, bất cập.

14


Trích Chỉ thị số 266/TTG ngày 02 tháng 6 năm 1993 của Thủ tướng chính phủ về bàn giao và tăng
cường cơng tác thi hành án dân sự.

Trang 13


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1993 đến trước năm 2004
“Sau khi PLTHADS 1989 được ban hành, tình hình thi hành án dường như
khơng có nhiều chuyển biến. Tình trạng những bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tịa án không được thi hành hoặc chậm thi hành đã làm ảnh hưởng đến uy tín
của cơ quan Nhà nước nói chung cũng như cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng, ảnh
hưởng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” 15. Chính điều này đã
dẫn đến việc Nhà nước ban hành một Pháp lệnh mới thay thế cho Pháp lệnh cũ, đó là
PLTHADS 1993.
Theo Pháp lệnh này, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự bao gồm: Kê
biên và bán đấu giá tài sản; Bán đấu giá nhà; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án; Trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ; Cưỡng chế
giao đồ vật; Cưỡng chế trả nhà; Cưỡng chế chấm dứt hành vi trái pháp luật. Như vậy,
so với PLTHADS 1989, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong PLTHADS
1993 khơng có gì thay đổi.
PLTHADS 1993 quy định việc cưỡng chế thi hành án dân sự được giao cho cơ
quan thi hành án thuộc Chính chủ đảm nhiệm, chấm dứt tình trạng Tịa án vừa là cơ
quan tư pháp vừa là cơ quan hành pháp như giai đoạn trước đây. Dưới sự chỉ đạo sát
sao của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, sự hỗ trợ của các ban ngành, phát
huy mạnh mẽ tính chủ động độc lập của Chấp hành viên, công tác cưỡng chế thi hành
án dân sự đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt

sau nhiều năm trì trệ. Tuy nhiên, PLTHADS 1993 ra đời trong bối cảnh Nhà nước ta
đang chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, có rất nhiều vấn đề liên quan đến
việc cưỡng chế thi hành án dân sự mà bản thân PLTHADS 1993 chưa thể dự liệu. Mặt
khác, sau khi PLTHADS 1993 ra đời, Nhà nước cũng đã ban hành một loạt văn bản
pháp luật mới có liên quan đến chế định cưỡng chế thi hành án dân sự như Bộ luật dân
sự, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty… Như vậy, đã phát sinh nhiều vấn đề
mới dẫn đến các vướng mắc trong quá trình cưỡng chế thi hành án mà các văn bản
pháp luật hiện hành chưa được sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn một cách đồng bộ.

15

Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia - sự thật, Hà Nội, tr. 41.

Trang 14


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước năm 2008
Sau một quá trình dài (khởi đầu từ năm 1998, Bộ trưởng Bộ tư pháp đã trình
Thủ tướng Chính phủ đề án giải quyết án tồn đọng, trong đó có việc kiến nghị sửa đổi,
bổ sung PLTHADS 1993), qua nhiều lần dự thảo, cuối cùng PLTHADS 2004 đã được
Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI thơng qua ngày 14 tháng 1 năm 2004, là sự kiện
có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực thi hành án dân sự, góp phần vào việc hồn thiện
pháp luật và khắc phục những khó khăn, vướng mắc của PLTHADS 1993. Pháp lệnh
đã dành riêng một điều luật quy định sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự gồm:

Khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ
vào thu nhập của người phải thi hành án; Phong toả tài khoản, tài sản của người phải
thi hành án tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước; Kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án, kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ
ba giữ; Buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; Cấm hoặc
buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất định. So với PLTHADS
1993 thì PLTHADS 2004 đã quy định thêm biện pháp phong toả tài khoản, tài sản của
người phải thi hành án tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước và biện
pháp kê biên kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ. Quy
định này nhằm xác định cơ sở cho việc áp dụng thống nhất của Chấp hành viên trong
hoạt động tác nghiệp thi hành án, đồng thời là căn cứ pháp lý để đương sự tự bảo vệ
quyền lợi của mình.
Như vậy, PLTHADS 2004 đã quy định tương đối cụ thể và đầy đủ hơn các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới thì PLTHADS 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như trình
tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án còn chưa cụ thể, nội dung các biện pháp cưỡng chế
chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu cuộc sống của người dân... Chính điều này đã dẫn đến
tình trạng án dân sự tồn đọng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân chưa được đảm bảo.
1.2.5. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Xuất phát từ những hạn chế của các Pháp lệnh trước đây, ngày 14 tháng 11 năm
2008, Luật THADS đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII thơng qua và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2009. Đây là một bước tiến rất
lớn, đóng góp đáng kể vào sự thành cơng của cơng tác lập pháp nói chung và việc hồn
thiện thể chế trong lĩnh vực thi hành án dân sự của ngành tư pháp nói riêng. Luật

Trang 15


Cưỡng chế thi hành án dân sự


SVTH: Phạm Thị Việt Hà

THADS là sự kế thừa, hoàn thiện và phát triển của PLTHADS 1993 và PLTHADS
2004, từng bước đưa chủ trương cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hội nhập quốc
tế vào thực tiễn cuộc sống, nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trong
thời gian tới. Lần đầu tiên những quy định về thi hành án đã được ghi nhận trong một
văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, nhiều vấn đề về cưỡng chế thi hành án, kể cả
các biện pháp cưỡng chế như biện pháp kê biên vốn góp, biện pháp cưỡng chế giao
người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định, biện
pháp cưỡng chế buộc nhận người lao động trở lại làm việc… đã được Luật THADS bổ
sung, khai thác; bên cạnh đó, thủ tục cưỡng chế thi hành án cũng được quy định cụ thể
và rõ ràng hơn.
1.3.

Cƣỡng chế thi hành án dân sự trong pháp luật một số nƣớc trên thế giới 16

1.3.1. Cưỡng chế thi hành án dân sự ở Cộng hòa liên bang Đức
Ở Đức, để cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải có ba điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: Phải có văn bằng xác nhận quyền yêu cầu được đưa ra thi
hành. Các văn bằng thể hiện quyền yêu cầu được cưỡng chế thi hành án dưới các hình
thức: các bản án có hiệu lực của Tịa án; biên bản hòa giải giữa các đương sự trước
Tòa án; quyết định về trả lệ phí, án phí của Tòa án; quyết định cưỡng chế thi hành thủ
tục đòi tiền nhanh; quyết định của cơ quan trọng tài sau khi đã được Tịa án cơng nhận;
các thỏa thuận đã được cơ quan công chứng chứng nhận;
Điều kiện thứ hai: Phải có quy định về điều khoản thi hành. Điều khoản thi
hành phải nói rõ về người phải thi hành án và người được thi hành. Trong bản án của
Tòa án, bên cạnh chỗ đóng triện của Tịa án phải ghi rõ: bản án này được cấp cho chủ
nợ để cưỡng chế thi hành án;
Điều kiện thứ ba: Phải thực hiện việc tống đạt. Việc tống đạt phải được thực

hiện theo thủ tục nhất định. Về nguyên tắc, không được thi hành án nếu như văn bản
xác nhận quyền yêu cầu chưa được gửi cho người có nghĩa vụ thi hành.
Chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế thi hành án đối với các trường hợp
sau: Cưỡng chế thi hành đòi tiền từ động sản của con nợ; Cưỡng chế thi hành vào giấy
tờ có giá của con nợ; Cưỡng chế thi hành đối với hoa màu chưa được thu hoạch;
Cưỡng chế thi hành việc trao trả lại đồ vật trong đó có việc trả nhà.
16

Bộ Tư pháp, Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2009), Sổ tay Chấp hành viên, tài liệu hướng dẫn
nghiệp vụ, lưu hành nội bộ, tr. 143-183.

Trang 16


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

Trong trường hợp phải cưỡng chế thi hành án vào ban đêm hoặc trong ngày lễ
thì phải có lệnh của Tòa án. Về nguyên tắc, Chấp hành viên chỉ được cưỡng chế vào
tài sản của con nợ, không được cưỡng chế vào tài sản của người thân thích.
Khi tiến hành cưỡng chế, Chấp hành viên phải có nghĩa vụ bảo đảm lợi ích cho
chủ nợ đồng thời khơng gây thiệt hại cho con nợ, không làm tổn thương đến thanh
danh, uy tín của con nợ. Các chi phí về thi hành án do con nợ chịu, trong trường hợp
con nợ khơng đủ các tài sản để chi trả chi phí thì chủ nợ chịu.
Đối với trường hợp khơng có tài sản là động sản để thi hành án thì có quyền yêu
cầu Tòa án áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác như: Khấu trừ thu nhập; Trừ vào
quyền yêu cầu của con nợ đối với người khác; Trừ vào quyền tài sản của con nợ (tài
sản thừa kế, vốn của con nợ góp vào cơng ty); u cầu cưỡng chế, phát mại tài sản của
con nợ là bất động sản.

Đối với trường hợp khơng có tài sản gì để thi hành án thì chủ nợ được quyền
u cầu Tịa thi hành án triệu tập con nợ đến Tòa để buộc con nợ phải tun thệ về
việc khơng có tài sản để thi hành án. Nếu con nợ không chịu tun thệ thì chủ nợ u
cầu Tịa án bắt giam đến khi con nợ đồng ý tuyên thệ, nếu không sẽ bị giam giữ kéo
dài (tối đa sáu tháng một lần) và mọi chi phí trong thời gian giam giữ do chủ nợ chịu.
Ở Đức, người ta lập danh sách các con nợ khơng có khả năng trả nợ và lưu giữ
tại Tịa án để mọi người đều có thể xem được, nhất là những người đang có ý định thực
hiện giao dịch với một đối tác cụ thể nhằm tìm hiểu xem đối tác của mình có tên trong
danh sách con nợ hay không. Điều này tạo tâm lý buộc con nợ phải cố gắng thi hành
nghĩa vụ của mình. Pháp luật cũng quy định cho phép người được thi hành án có
quyền, cũng có thể bán quyền yêu cầu cưỡng chế thi hành án của mình cho người
khác. Ở Đức có một số cơng ty chun mua lại các khoản nợ và đợi cho đến khi có cơ
hội thì địi nợ và được tính lãi trong thời gian con nợ khơng có khả năng trả được nợ.
Tuy nhiên, thông thường người yêu cầu được thi hành án chỉ được mua lại với giá
bằng khoảng 10% giá trị đích thực của khoản nợ.
Cuối cùng, pháp luật thi hành án ở Đức có nội dung đáng chú ý đó là việc quy
định cơ quan Nhà nước cũng có thể là đối tượng của hoạt động cưỡng chế. Trong quá
trình thực hiện, Chấp hành viên có quyền đánh giá, xem xét tài sản nào là cần thiết
dùng để thực hiện nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, khi đó, tài sản này không được tịch
biên. Trường hợp cơ quan Nhà nước không đồng ý với quyết định tịch biên tài sản của
Chấp hành viên thì có quyền khiếu nại đến Tịa thi hành án để yêu cầu giải quyết.

Trang 17


Cưỡng chế thi hành án dân sự

SVTH: Phạm Thị Việt Hà

1.3.2. Cưỡng chế thi hành án dân sự ở Thái Lan

Ở Thái Lan, về nguyên tắc, quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự chưa thể bắt
đầu khi chưa có lệnh của Tịa án chỉ định một Chấp hành viên thực thi việc thi hành
án. Trong lệnh thi hành án đó phải nêu rõ những việc phải làm. Thơng thường là những
lệnh sau: Lệnh tịch thu tài sản hoặc thu nhập của người phải thi hành án; lệnh buộc
người phải thi hành án rời khỏi những diện tích nơi ở; lệnh phá dỡ hoặc chuyển dịch
một ngôi nhà cụ thể nào đó.
Trong việc tịch thu tài sản của người phải thi hành án, trừ một số trường hợp
ngoại lệ do pháp luật quy định, bất cứ tài sản nào của người phải thi hành án dù là
động sản hay bất động sản đều có thể bị tịch thu. Người được thi hành án phải chắc
chắn rằng các tài sản bị tịch thu là thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án và
mọi khoản bồi thường do tịch thu sai sẽ do người được thi hành án chịu. Hành vi tịch
thu động sản trên thực tế do Chấp hành viên thực hiện, chỉ trong những trường hợp rất
hạn hữu mới tiến hành tịch thu trên giấy tờ, nếu tài sản bị tịch thu được đăng kí như
mơ tơ, ơ tơ... thì phải báo cho đăng kí viên biết. Mặt khác, các bất động sản như nhà ở,
đất đai thì chỉ có thể tịch thu trên giấy tờ. Các giấy tờ sở hữu tài sản nếu có đều phải
chuyển cho Chấp hành viên. Việc tịch thu phải được thông báo cho người phải thi
hành án và những người khác có liên quan đến tài sản bị tịch thu biết. Sau khi Tịa án
có lệnh cho Chấp hành viên giải quyết tài sản bị tịch thu thì tài sản thường được đưa ra
bán đấu giá.
Đối với khoản thu nhập của người phải thi hành án, trừ một số hạn chế nhất
định, các khoản thu nhập này cũng có thể bị tịch thu. Người chủ của người phải thi
hành án sẽ được thơng báo về số tiền mà người đó phải trả cho Chấp hành viên. Người
chủ này sẽ bị cưỡng chế nếu khơng tự nguyện trả tiền, trừ khi có các lý do chính đáng
để khơng trả số tiền đó.
Trong việc trục xuất người phải thi hành án, Chấp hành viên không trực tiếp
chịu trách nhiệm trục xuất trên thực tế. Chấp hành viên thông báo cho những người
đang sống trong ngôi nhà bị tịch thu biết về lệnh tịch thu của Tòa án để những người
này trong vòng tám ngày có thể gửi đơn lên Tịa xin được miễn hình phạt. Nếu khơng
có khiếu nại thì Chấp hành viên báo cáo về Tòa án và thay mặt người được thi hành án
đề nghị Tòa án cho lệnh bắt giữ và trơng coi ngơi nhà. Lệnh này sau đó sẽ do người

phải thi hành án tự thực hiện.

Trang 18


×