Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.2 MB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HỒNG NGỌC LAM

HỢP ĐỒNG MUA BÁN NỢ GIỮA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỢP ĐỒNG MUA BÁN NỢ GIỮA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thủy
Học viên: Hoàng Ngọc Lam, lớp CHL kinh tế - ứng dụng, khóa 23

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn “Hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại
và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam” là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Cô Nguyễn Thị Thủy và trên cơ
sở tham khảo các tài liệu đã được nêu rõ nguồn gốc trong Danh mục tài liệu tham
khảo. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực

NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Ngọc Lam


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng

NHTM

Ngân hàng thương mại

TPĐB


Tài sản bảo đảm

AMC

Cơng ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM

DATC

Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp

VAMC

Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do nghiên cứu đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu ............ 4
5. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu 4
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG
CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN NỢ GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT
NAM ....................................................................................................................... 6
1.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam ............................................... 6
1.1.1. Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam ........................... 7

1.1.2. Ngân hàng thương mại ................................................................................ 12
1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chủ thể của hợp đồng mua bán nợ giữa
ngân hàng thương mại và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam ....................................................................................................................... 13
1.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam ............................................. 15
1.2.1. Nợ xấu - đối tượng của hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam................................... 15
1.2.2. Kiến nghị hồn thiện quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng mua bán
nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Việt Nam ............................................................................................................... 21
1.3. Kết luận chương 1................. ......................................................................... 22
CHƯƠNG 2. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NỢ GIỮA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG VIỆT NAM ...................................................................................... 23


2.1. Phương thức thanh toán hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại
và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam và kiến nghị hồn
thiện……..………………………………………………….………..…………….23
2.1.1. Phương thức thanh tốn theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt do Công
ty Quản lý tài sản phát hành .................................................................................. 23
2.1.2. Phương thức thanh tốn theo giá thị trường bằng nguồn vốn khơng phải trái
phiếu đặc biệt.......................................................................................................... 28
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về phương thức thanh toán hợp đồng
mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam .................................................................................................. 31
2.2. Một số quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán nợ giữa
ngân hàng thương mại và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam và kiến nghị hồn thiện...................... .......................................................... 34

2.2.1. Quyền nhận tài sản bảo đảm bổ sung, thay thế là quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất và đăng ký thay đổi nội dung thế chấp.......................................... 35
2.2.2. Quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm ............. 37
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản bảo đảm trong quan hệ
mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên .............................. 39
2.3. Kết luận chương 2............... ........................................................................... 40
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Nợ xấu là một trong những chỉ tiêu cơ bản phản ánh chất lượng, hiệu quả hoạt
động của một NHTM cũng như sự phát triển ổn định của cả hệ thống ngân hàng.
Bởi vì, hoạt động tín dụng mang lại nguồn thu lớn nhất cho NHTM, nhất là các
ngân hàng ở nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi. Tỷ lệ nợ xấu cao
và kéo dài sẽ gây ra tình trạng suy yếu về mặt tài chính, dẫn đến ngân hàng thua lỗ,
đồng thời tình trạng nợ xấu cao và chậm được xử lý phản ánh khách quan các vấn
đề của nền kinh tế như hoạt động kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp,
sức mua thị trường, vấn đề việc làm và thu nhập,… Gần đây, nợ xấu của hệ thống
ngân hàng đã trở thành tâm điểm đáng quan tâm, lo lắng của các cơ quan quản lý
Nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường ngân hàng. Nợ xấu ngân hàng được ví
như cục máu đơng làm xói mịn sức khỏe và gây tắc nghẽn dòng vốn trong hệ thống
ngân hàng, khiến việc luân chuyển vốn của nền kinh tế bị đình trệ. Do đó, xử lý nợ
xấu đang trở thành vấn đề cấp bách, lâu dài và không chỉ của riêng ngành ngân hàng
mà là vấn đề kinh tế vĩ mô phức tạp, địi hỏi phải có thời gian, nguồn tài chính cần

thiết, giải pháp tổng thể, sự tham gia của các ngành, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Những giải pháp đưa ra nhằm giải quyết vấn đề nợ xấu trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết. Một trong những phương án xử lý nợ xấu là mua bán nợ. Liên quan đến
vấn đề này, NHNN đã đưa ra rất nhiều phương án xử lý như thành lập AMC, DATC.
Tuy nhiên, hai chủ thể này sau một thời gian dài hoạt động cho thấy mục đích làm
giảm tỷ lệ nợ xấu chưa đạt được đáng kể. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu xử lý nợ
xấu, Chính phủ đã thành lập một chủ thể mua bán nợ xấu khác là VAMC theo Nghị
định 53/2013/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 18 tháng 05 năm 2013 về thành lập, tổ
chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
và Thông tư 19/2013/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 06 tháng 09 năm
2013 quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của tổ chức
tín dụng Việt Nam. Nghị định và Thông tư này đã tạo cơ sở pháp lý cho VAMC
thực hiện mua nợ xấu của NHTM cũng như khuyến khích NHTM bán nợ xấu cho
VAMC.
Hình thức pháp lý của hoạt động mua bán nợ chính là hợp đồng mua bán nợ.
Hiện tại hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC được điều chỉnh bởi Thông


2

tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/09/2013, Thông tư 14/2015/TT-NHNN của Ngân
hàng nhà nước ngày 28 tháng 08 năm 2018 sửa đổi Thông tư 19/2013/TT-NHNN
về mua, bán và xử lý nợ xấu của Cơng ty Quản lý tài sản tổ chức tín dụng Việt Nam
và Thông tư 08/2016/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 16 tháng 06 năm
2016 sửa đổi Thông tư 19/2013/TT-NHNN quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu
của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Qua nghiên cứu lý luận, các quy định hiện hành về hợp đồng mua bán nợ giữa
NHTM và VAMC, tác giả nhận thấy thực tiễn áp dụng cịn nhiều bất cập, gây khó
khăn cho các chủ thể tham gia hợp đồng, đặc biệt là đối tượng của hợp đồng,
phương thức thanh toán hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp

đồng,… Với mục đích góp phần phát huy tối đa các ưu điểm của hoạt động mua bán
nợ xấu tại các NHTM nói chung, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện hợp đồng
mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật phù hợp điều chỉnh hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam” để làm luận văn Thạc sĩ Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xử lý nợ xấu ln là vấn đề quan tâm ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Thời gian qua, các đề tài liên quan đến vấn đề mua bán nợ xấu của
các NHTM đã thu hút khá nhiều bài báo, chun đề, cơng trình nghiên cứu của
nhiều tác giả.
Tại Việt Nam đã có một số luận văn thạc sỹ và bài viết nghiên cứu về vấn đề
mua bán nợ xấu, cụ thể như:
-

Luận văn Thạc sỹ Luật học “ Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng” của tác giả Nguyễn Thị
Bích Mai (2010), Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh.

-

Luận văn Thạc sỹ Luật học “ Pháp luật về mua bán nợ của tổ chức tín dụng
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” của tác giả Nguyễn Văn
Thịnh (2014), Đại học Kinh tế Luật Tp.Hồ Chí Minh.


3

-


Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về về hoạt động mua bán nợ của các tổ
chức tín dụng ở Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ (2014), Khoa Luật - Đại
học quốc gia Hà Nội.

-

Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC”
của tác giả Nguyễn Thu Cúc (2017) , Trường đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.

-

Nguyễn Thị Bích Ngân (2018), “Luận bàn về các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh nghiệp vụ mua bán nợ của các tổ chức tín dụng Việt Nam”, Tạp chí
Ngân hàng, số 20, tr. 33 - 35.

-

Khúc Thị Phương Nhung (2018), “Hợp đồng mua, bán nợ của tổ chức tín dụng
theo pháp luật Việt Nam hiện hành - Một số vướng mắc, bất cập và đề xuất,
kiến nghị”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 03 (23), tr. 38 - 42.

Các cơng trình trên đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hoạt động mua bán nợ, thực
trạng quy định pháp luật về hoạt động mua bán nợ, từ đó chỉ ra những tồn đọng, khó
khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn mua bán nợ và
đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán nợ. Các cơng
trình trên cũng đã đề cập đến hợp đồng mua bán nợ giữa các chủ thể tham gia thị
trường mua bán nợ. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ chung, chưa đi sâu phân tích
quy định pháp luật điều chỉnh, thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán nợ, đặc biệt là
hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC.

Với cơng trình của mình, tác giả sẽ nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy
định pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, tác giả tập
trung vào chủ thể tham gia, đối tượng của hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng
mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, chỉ ra những bất cập trong quy định pháp luật,
thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC. Từ đó, đưa ra các
giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh một vài vấn đề
liên quan đến hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra một số vấn đề liên quan đến hợp
đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, từ đó tiến hành nghiên cứu, phân tích các
quy định pháp luật liên quan về các vấn đề đã đặt ra để hiểu sâu hơn về các vấn đề


4

này, nhằm làm sáng tỏ thực trạng pháp luật hiện hành, lý giải những tồn tại, vướng
mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Cuối cùng luận văn sẽ đề xuất các giải
pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và
VAMC để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện hợp đồng,
giải quyết nợ xấu hiện tại, phát triển ổn định và bền vững các NHTM, qua đó góp
phần phát triển kinh tế, xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong các quy
định của pháp luật hiện hành về một số vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán nợ
giữa các NHTM và VAMC, cụ thể hơn là các hợp đồng mua bán nợ trong đó
NHTM là bên bán nợ và VAMC là bên mua nợ. Trong luận văn, tác giả tập trung
nghiên cứu về chủ thể, đối tượng của hợp đồng, phương thức thanh toán và quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC. Về
chủ thể của hợp đồng mua bán nợ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu chủ thể là
VAMC vì tác giả nhận thấy đây là chủ thể đặc biệt, pháp luật cần có nhiều sự quan

tâm và điều chỉnh hơn nhằm giúp chủ thể này hoạt động có hiệu quả tốt hơn trong
hoạt động xử lý nợ xấu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phương pháp nghiên cứu khoa học.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: so
sánh pháp luật, phân tích, tổng hợp pháp luật.
5. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu
5.1. Dự kiến các kết quả nghiên cứu
Thứ nhất, luận văn chỉ ra các vướng mắc của quy định pháp luật liên quan
điều chỉnh hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, đặc biệt là chủ thể tham
gia, đối tượng của hợp đồng, phương thức thanh toán hợp đồng và một số quyền,
nghĩa vụ của các bên khi thực hiện hợp đồng thông qua việc nghiên cứu quy định
pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật.


5

Thứ hai, từ những khó khăn trong q trình thực hiện hợp đồng mua bán nợ
giữa NHTM và VAMC, các vướng mắc của quy định pháp luật điều chỉnh hợp
đồng, luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật
điều chỉnh hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC nhằm khắc phục những
khó khăn, vướng mắc khi các bên tham gia quan hệ mua bán này và góp phần xử lý
nợ xấu.
5.2. Địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu có thể được ứng dụng tại các NHTM và VAMC. Cụ
thể:
Tại VAMC: kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng vào việc hồn thiện vị trí,
chức năng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của VAMC, đồng thời hoàn thiện các
phương thức mua nợ của VAMC.

Tại NHTM: kết quả nghiên cứu có thể giúp các NHTM thực hiện việc phân
loại nợ và nợ xấu được dễ dàng, rõ ràng và phù hợp với xu hướng thế giới về phân
loại nợ.
Ngồi ra, các kết quả nghiên cứu cịn góp phần giúp NHTM và VAMC thực
hiện các giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm khoản nợ vay, xử lý tài sản bảo
đảm được thuận lợi hơn.


6

CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG
CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN NỢ GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT
NAM
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật tài chính ngân hàng
nói riêng, liên quan cụ thể đến hoạt động mua bán nợ thì hiện nay vẫn chưa có khái
niệm hợp đồng mua bán nợ của NHTM. Tuy nhiên, thông qua các quy định pháp
luật liên quan có thể hiểu hợp đồng mua bán nợ là sự thỏa thuận giữa bên bán nợ và
bên mua nợ, theo đó bên bán nợ chuyển quyền sở hữu đối với khoản nợ và tài sản
bảo đảm đối với khoản nợ (nếu có) cho bên mua nợ, cịn bên mua nợ có nghĩa vụ
thanh tốn cho bên bán nợ. Hiện nay, pháp luật cho phép các NHTM được quyền
bán nợ cho các tổ chức, cá nhân, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác và
VAMC. Tuy nhiên, trong luận văn tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hợp đồng mua
bán nợ giữa hai chủ thể là NHTM và VAMC, cụ thể NHTM là bên bán nợ và
VAMC là bên mua nợ, bởi vì trong mối quan hệ này, tư cách chủ thể bên mua, bên
bán của NHTM và VAMC có thể hốn đổi cho nhau tùy thuộc vào sự thỏa thuận
của các bên về phương thức mua nợ. Dưới đây, tác giả sẽ tập trung phân tích các
quy định pháp luật cũng như chỉ ra các vướng mắc của pháp luật quy định đối với
chủ thể tham gia và đối tượng của hoạt động mua bán nợ giữa NHTM và VAMC.
1.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và Công ty

Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
Việc tồn động nợ xấu trong mơi trường tín dụng đã gây ra nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động của NHTM, khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Do đó, việc xử lý nợ xấu là vấn đề cấp bách mà các NHTM và Nhà nước cần phải
giải quyết. Để thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước và khắc phục những khó khăn
trong hoạt động xử lý nợ trong thời gian qua, Nhà nước đã cho phép thành lập
VAMC. Theo quy định của pháp luật, VAMC được thành lập chủ yếu nhằm mục
đích xử lý nợ xấu nhanh chóng và hiệu quả thơng qua hoạt động mua bán các khoản
nợ xấu với các NHTM. Cụ thể chức năng, vai trò cũng như tư cách chủ thể của
VAMC và các NHTM mà đặc biệt là VAMC trong hoạt động mua bán nợ theo quy
định pháp luật sẽ được tác giả phân tích dưới đây.


7

1.1.1. Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu giai đoạn 2008-2010 cộng với những
khó khăn nội tại của nền kinh tế, đã đưa kinh tế Việt Nam vào thời kỳ đặc biệt khó
khăn, nhất là giai đoạn 2012-2014. Được ví như huyết mạch của một cơ thể sống,
ngành ngân hàng được xem là nhiệt kế thể hiện sức khỏe của nền kinh tế, vì thế,
cũng là ngành kinh tế gặp nhiều khó khăn nhất trong những năm qua. Từ giữa năm
2011, nhiều NHTM rơi vào tình trạng nợ xấu tăng nhanh, thanh khoản yếu kém,
khả năng sinh lời suy giảm, tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế khó khăn. Theo
báo cáo chính thức của NHNN, nợ xấu ngành ngân hàng vào thời điểm 30/09/2012
lên đến 17,21% tổng dư nợ tín dụng1. Nguyên nhân gây ra nợ xấu xuất phát từ
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan từ phía NHTM, khách hàng và ảnh
hưởng của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, Chính phủ và ngành ngân hàng phải
chịu áp lực lớn là phải có một giải pháp tổng thể, mạnh mẽ để khơi thơng dịng tín
dụng, xử lý nhanh nợ xấu, bảo đảm an tồn, hiệu quả cho hoạt động của hệ thống
NHTM.

Bản thân các NHTM cũng đã thực hiện rất nhiều biện pháp với nỗ lực của
chính mình để xử lý và hạn chế nợ xấu như: chấp thuận cơ cấu thời hạn trả nợ cho
khoản vay của khách hàng; cho vay tái cơ cấu/tái cấu trúc khoản nợ; thành lập
AMC,… Tuy nhiên, mỗi một biện pháp đều gặp phải những khó khăn và hạn chế
nhất định chẳng hạn như các AMC chỉ hoạt động trong phạm vi các tài sản và
khoản nợ của NHTM mẹ thay vì tham gia vào thị trường mua bán nợ với các AMC
khác. Hơn nữa, ngoại trừ một vài AMC có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng, các cơng
ty AMC cịn lại đều có vốn điều lệ thấp với giá trị từ 500 tỷ đồng trở xuống. Thời
điểm đó, ngồi AMC thực hiện hoạt động mua bán nợ xấu, tại Việt Nam cũng tồn
tại một tổ chức khác có hoạt động liên quan là DATC. Tuy nhiên, DATC ra đời
với trọng tâm chủ yếu là thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, tập
trung nhiệm vụ chủ yếu vào mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp (bao gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất được sử dụng để bảo đảm cho
các khoản nợ), đồng thời xử lý các khoản nợ và tài sản đã mua.

1

Nguyễn Tiến Đơng, “Nhìn lại 5 năm phát triển của VAMC”,
truy cập ngày 22/8/2018.


8

Về phía khách hàng cũng nỗ lực tối đa phối hợp với NHTM để giải quyết nợ
xấu nhưng trong tình hình kinh tế suy thối, khó khăn thì việc hỗ trợ và nỗ lực
cũng ở chừng mực nhất định.
Trước những ảnh hưởng của nợ xấu, vấn đề thiết lập mô hình xử lý nợ xấu
phù hợp cho Việt Nam là cần thiết. Trong tiến trình xử lý nợ xấu, nợ có vấn đề thì
cách thức đơn giản nhất để giải quyết là Nhà nước đứng ra mua lại các khoản nợ
hoặc mua lại chính những NHTM yếu kém có tỷ lệ nợ xấu cao2. Tuy nhiên, để

đảm bảo cơ chế vận hành của một nền kinh tế thị trường có sự điều chỉnh của Nhà
nước thì điều quan trọng hơn là thành lập một thị trường mua bán các khoản nợ
xấu đã phát sinh, để chính các NHTM tự thúc đẩy việc này. Việc hình thành doanh
nghiệp đặc biệt ở quy mô quốc gia để mua bán nợ xấu đã được thực hiện ở nhiều
quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia,… Mục đích của
giải pháp này là tạo ra công cụ để giải quyết nhanh chóng nợ xấu tại các NHTM.
Doanh nghiệp này sẽ tiến hành mua lại các khoản nợ xấu từ các NHTM tùy vào
đánh giá về chất lượng của các khoản nợ, giúp nợ xấu của các NHTM giảm đi
nhanh chóng. Vì thế, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số
53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 05 năm 2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức
và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam,
VAMC ra đời là cần thiết đối với nhu cầu xử lý nợ xấu hiện nay.
VAMC có mục đích hoạt động chính là quản lý tài sản cho các TCTD, có
nghĩa chỉ thực hiện chức năng quyền chiếm hữu đối với tài sản, không chịu rủi ro
đối với tài sản được giao quản lý. Đặc biệt, mặc dù khái niệm tài sản rất rộng,
nhưng thực tế, VAMC quản lý các khoản nợ xấu của TCTD, các khoản nợ xấu này
có thể bao gồm tài sản bảo đảm là bất động sản, động sản và quyền tài sản....Vai
trò của VAMC ngồi sự đảm bảo tài sản ngun vẹn, cịn phải có các biện pháp
quản lý và khai thác cũng như xử lý các khoản nợ xấu để mang lợi ích cho các
TCTD. Mục tiêu thành lập các mơ hình này nhằm ổn định hoạt động các TCTD và
tạo ra một hệ thống tài chính vững mạnh, minh bạch, giảm tỷ lệ nợ xấu.
Về địa vị pháp lý, theo Nghị định số 53/2013/NĐ-CP thì VAMC là doanh
nghiệp đặc thù do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, chịu sự quản lý, thanh tra,

2

Lê Thanh Tâm và Nguyễn Thế Tùng (2015), “Xử lý nợ xấu theo mơ hình cơng ty quản lý tài sản, từ kinh

nghiệm quốc tế tới thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 19), tr. 15 - 21.



9

giám sát trực tiếp của NHNN3. VAMC có trụ sở chính tại Hà Nội, có tư cách pháp
nhân, con dấu riêng, hạch toán độc lập, được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước
và các TCTD theo quy định của pháp luật, NHNN là đại diện quản lý vốn sở hữu
của Nhà nước tại VAMC4. Về vốn hoạt động, VAMC có các nguồn vốn từ vốn
điều lệ và phát hành TPĐB để mua các khoản nợ xấu của TCTD. Về nguyên tắc
hoạt động, theo quy định hiện nay, VAMC hoạt động theo các nguyên tắc sau: lấy
thu bù chi và khơng vì mục tiêu lợi nhuận; cơng khai, minh bạch trong hoạt động
mua, xử lý nợ xấu; hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu. Về tổ chức và hoạt
động, VAMC được quyền ủy quyền cho TCTD bán nợ thực hiện các hoạt động
như: thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm; cơ cấu lại khoản nợ, điều
chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần của khách hàng vay;
đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã được
VAMC thu nợ; quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm
có liên quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ
xấu và bảo đảm tiền vay5.
Với các quy định pháp luật về địa vị pháp lý, nguyên tắc hoạt động, cơ cấu
tổ chức và vốn hoạt động của VAMC, có thể thấy một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, việc NHNN được Chính phủ giao tham gia giám sát hoạt động của
VAMC là phù hợp vì mục tiêu thành lập VAMC là để giải quyết bài toán nợ xấu
cho hệ thống ngân hàng, để NHNN điều hành chính sách tiền tệ và hệ thống ngân
hàng hiệu quả. Do đó, việc NHNN đại diện quyết định các vấn đề quan trọng của
VAMC hay giám sát, kiểm tra VAMC, hướng dẫn nghiệp vụ mua, bán và xử lý nợ
xấu của VAMC sẽ đảm bảo hoạt động của VAMC sát với mục tiêu điều hành nền
kinh tế tiền tệ của NHNN. Tuy nhiên, việc NHNN giữ vai trò quan trọng, then chốt
và chủ đạo trong hoạt động của VAMC, chỉ đạo và giám sát xuyên suốt hoạt động
của VAMC cũng có thể là mặt hạn chế vì NHNN là cơ quan quản lý nhà nước,
chức năng, nhiệm vụ và hoạt động theo quy định của pháp luật và mục tiêu hoạt

động nhằm thực hiện các chính sách, chủ trương của Chính phủ về kinh tế - xã hội.
Do đó, các hoạt động của VAMC khơng hồn tồn độc lập, điều này khiến cho các
phương hướng hoạt động của VAMC khơng hồn tồn phát triển theo quy luật
3

Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 05 năm 2013 về thành lập, tổ
chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
4
Điều 3 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP.
5

Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP.


10

kinh doanh thị trường và thực tiễn. Đây sẽ là lý do tác động đến hoạt động hiệu
quả của VAMC.
Thứ hai, số vốn điều lệ ban đầu của VAMC được xác định là 500 tỷ đồng,
con số này khi thành lập so với khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng thời điểm đó
cịn rất hạn chế, chỉ đủ chi phí cho cơ sở vật chất ban đầu của VAMC. Vì thế
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 03 năm 2015
của Chính phủ về sửa đổi Nghị định 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt
động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam tăng vốn điều
lệ của VAMC từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng. Ngày 19/7/2017 Thủ tướng chính
phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín
dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, theo đó thì năm 2018 VAMC sẽ
được cấp vốn điều lệ tăng lên là 5.000 tỷ đồng và đến năm 2020 là 10.000 tỷ đồng.
Mục đích của việc tăng vốn điều lệ nhằm phát triển phương thức mua bán nợ theo
giá thị trường, bởi từ khi thành lập cho đến nay VAMC vẫn tập trung mua bán nợ

theo phương thức phát hành TPĐB. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy kể cả với mức
vốn này thì VAMC vẫn chưa đủ khả năng để đáp ứng kỳ vọng của Nhà nước cũng
như xã hội trong việc giải quyết khối lượng nợ xấu hiện nay.
Thứ ba, nguyên tắc lấy thu bù chi và khơng vì mục tiêu lợi nhuận có thể coi
là nguyên tắc xuyên suốt và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của
VAMC. Tuy nhiên, xét ở góc độ nào đó, ngun tắc này thể hiện chính sách của
Nhà nước là minh bạch và khơng vì mục tiêu lợi nhuận khi giải quyết bài toán nợ
xấu nhưng đây lại là nguyên tắc mà khi áp dụng trong thực tế không thực sự hợp lý
đối với hoạt động của VAMC. Mục tiêu hoạt động phi lợi nhuận của VAMC đã
làm cản trở hoạt động nhanh chóng xử lý nợ xấu đã mua của VAMC. Theo mục
tiêu này, nếu VAMC mua khoản nợ bằng TPĐB thì VAMC có quyền trả lại khoản
nợ xấu đã mua cho TCTD bất kỳ lúc nào nếu không xử lý được hoặc đến khi hết
thời hạn của TPĐB. Điều này cho thấy, việc khơng có áp lực về hoạt động có lãi
đã làm giảm động lực cho việc tích cực xử lý nợ xấu của VAMC.
Thứ tư, nợ xấu sau khi được bán cho VAMC nhưng các NHTM vẫn trực tiếp
xử lý, còn VAMC chỉ đóng vai trị kiểm tra, giám sát. Trên thực tế, sau khi bán nợ
xấu cho VAMC, các NHTM được ủy quyền chủ động thực hiện việc xử lý các
khoản nợ đã bán và báo cáo VAMC theo định kỳ. Như vậy, trong khi động lực thu
hồi nợ đối với các NHTM là khá rõ ràng (bởi nếu khơng tích cực xử lý, các NHTM


11

sẽ phải gánh lại những khoản nợ xấu đã bán sau 5 năm6), thì động lực xử lý nợ xấu
của VAMC chưa rõ ràng. Nói cách khác, vai trị của VAMC hiện nay đang
nghiêng về hướng giám sát, kiểm tra các NHTM trong việc thực hiện các hoạt
động được VAMC ủy quyền, VAMC trở thành một cánh tay nối dài của NHNN
trong vấn đề giám sát kiểm tra các khoản nợ xấu của các NHTM. Đáng lẽ, với
nhiệm vụ của mình, sau khi mua nợ xấu, VAMC phải là người chủ động đi thu hồi
nợ xấu chứ không phải giao cho các NHTM và sau đó chỉ đi kiểm tra, hoạt động

này chỉ giảm tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM trên sổ sách của các NHTM, còn bản chất
tỷ lệ nợ xấu của cả thị trường thì khơng giảm. Mặt khác, hiện nay VAMC chỉ có
cơ sở hoạt động tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, chưa thể mở rộng nguồn lực tới
các khu vực khác. Ngoài ra, do các NHTM chỉ thực hiện báo cáo theo định kỳ nên
VAMC không chủ động, không theo sát trong việc quản lý nợ xấu và các tài sản
bảo đảm, dẫn tới việc có khả năng sai sót về thơng tin số liệu, không đôn đốc được
việc thu nợ và thanh lý tài sản đảm bảo.
Xét về tư cách chủ thể của VAMC khi tham gia hoạt động mua bán nợ với
NHTM thì đối với phương thức mua bán nợ bằng TPĐB, VAMC đang đứng trên
vị thế độc quyền, được quyền yêu cầu các NHTM phải bán nợ cho VAMC. Hơn
thế nữa, VAMC do chính NHNN thành lập, chính vì vậy, tuy việc mua bán nợ
được lập thành hợp đồng nhưng giữa VAMC và các NHTM không tồn tại mối
quan hệ cơng bằng giao thương, mà có sự kiểm tra, giám sát, áp đặt, chẳng hạn
VAMC có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng mua bán nợ trong một
số trường hợp và chỉ phải thơng báo cho NHTM, cịn các NHTM không được
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Việc quy định VAMC được đơn phương
chấm dứt hợp đồng mặc dù tạo sự chủ động cho VAMC khi đánh giá khoản nợ xấu
đã mua và có quyền loại bỏ khi cần thiết, nhưng đối với các NHTM, các quy định
này khiến các NHTM hoang mang khi bán nợ cho VAMC vì các điều kiện đối với
khoản nợ xấu nhiều khi là định tính. Đặc biệt đối với những NHTM nào có tỷ lệ nợ
xấu trên 3% thì sẽ bị NHNN tiến hành thanh tra toàn diện và yêu cầu bán nợ cho
VAMC7. Đối với phương thức mua bán nợ theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn
không phải từ TPĐB thì tư cách chủ thể của VAMC giản đơn hơn với vai trò là
6

Khoản 9 Điều 1 Nghị định 34/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 03 năm 2015 của Chính Phủ sửa đổi Nghị định
53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam.
7


Khoản 5 điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP.


12

một bên mua bán nợ theo cơ chế thị trường. Trong quan hệ mua bán này, VAMC
và các NHTM có vị thế bình đẳng, việc xác lập giao dịch mua bán do các bên tự
nguyện, thỏa thuận. Khi mua nợ, VAMC sẽ quan tâm và đánh giá khoản nợ như
một nhà đầu tư, cân nhắc tổng hợp các điều kiện và yếu tố như giá trị thị trường
của khoản nợ, tài sản đảm của khoản nợ, hiệu quả kinh tế sau khi mua, rủi ro, khả
năng thu hồi vốn,… để hoạt động đầu tư mua tài sản là quyền đòi nợ có thể sinh
lợi và hiệu quả8.
1.1.2.

Ngân hàng thương mại
Nghị định 53/2013/NĐ-CP cho phép VAMC được mua nợ từ các TCTD.
Theo đó, TCTD bán nợ là TCTD bán nợ xấu cho VAMC, là TCTD được thành lập
và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ TCTD 100% vốn

nước ngoài, TCTD liên doanh9.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì TCTD là doanh nghiệp thực
hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. TCTD bao gồm ngân hàng,
tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân10.
Trong đó, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã11. Như vậy, có thể hiểu NHTM bán nợ
là NHTM bán nợ xấu cho VAMC, là NHTM được thành lập và hoạt động theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ NHTM 100% vốn nước ngồi và NHTM
liên doanh.

Tương tự như VAMC, tùy thuộc vào từng mối quan hệ mua bán khác nhau
mà tư cách chủ thể của NHTM sẽ được thể hiện khác nhau tương ứng với bản chất
đặc thù của phương thức mua, bán nợ được các bên thực hiện.
Đối với phương thức mua bán nợ bằng TPĐB, nếu như VAMC chủ yếu
đóng vai trị là chiếc phao cứu cánh với các đặc quyền của chủ thể hỗ trợ thì các
NHTM thường tham gia với tư cách là chủ thể bán nợ bắt buộc với các khoản nợ
Nguyễn Thu Cúc (2017), Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC, luận văn thạc sỹ, Trường đại học
kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, tr. 26.
9
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 53/2013/NĐ-CP và khoản 1 Điều 3 Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06
tháng 09 năm 2013 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty
Quản lý tài sản của tổ chức tín dụng Việt Nam.
10
Khoản 1 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
8

11

Khoản 2 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.


13

xấu buộc phải giải quyết để giảm tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3% nhằm bảo đảm hoạt
động của toàn hệ thống NHTM ln được duy trì ở mức an toàn. Do vậy, trong
mối quan hệ này, các NHTM tham gia ở vị thế yếu thế hơn VAMC và phải thực
hiện các yêu cầu mà VAMC đưa ra. Bản chất của loại giao dịch này khơng mang
tính thị trường nên các quyền và nghĩa vụ được xác lập khơng hồn toàn xuất phát
từ yếu tố thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, các NHTM muốn bán nợ cho VAMC
thì phải lập hồ sơ đề nghị mua nợ cũng như mặc nhiên chấp nhận các điều khoản

về mặt công cụ thanh tốn, giá mua bán, quyền và nghĩa vụ,…mà khơng thơng qua
cách thức thỏa thuận như các giao dịch dân sự thông thường khác, chẳng hạn như:
giá mua bán khoản nợ sẽ theo giá trị ghi sổ, VAMC có quyền được đơn phương
chấm dứt hợp đồng mua bán nợ, còn các NHTM khi muốn chấm dứt hợp đồng
phải có sự đồng ý của VAMC,….12
Đối với phương thức mua bán nợ theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn
không phải là TPĐB, vị thế của NHTM đã được cân bằng tương đối với VAMC
trong quan hệ mua, bán nợ. Các nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyện áp dụng
chung cho các giao dịch dân sự đã được thiết lập. So với phương thức bán nợ cho
VAMC để nhận về TPĐB do VAMC phát hành thì việc bán nợ theo giá trị thị
trường, tư cách chủ thể của NHTM mới thực sự được đảm bảo tương xứng với
hoạt động mang tính giao dịch trên thị trường. NHTM được tự do cân nhắc việc
lựa chọn bán hay không bán nợ cho VAMC, được bình đẳng trong quá trình đi đến
thỏa thuận về mặt giá cả, phương tiện thanh toán và các yếu tố cơ bản khác của
hợp đồng. Các NHTM được bảo vệ và đảm bảo một cách thỏa đáng quyền và lợi
ích hợp pháp như các chủ thể kinh doanh khác khi tham gia giao dịch13.
1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chủ thể của hợp đồng mua bán nợ giữa
ngân hàng thương mại và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam.
Thứ nhất, tăng dần tính độc lập trong hoạt động của VAMC
Một trong các nguyên nhân khiến hoạt động của VMAC không hiệu quả là
do VAMC chưa thực sự độc lập trong quá trình hoạt động, điều này cũng dễ hiểu
do các nguyên nhân, tiền đề dẫn đến sự ra đời của VAMC và cơ cấu vốn, địa vị
Nguyễn Thu Cúc (2017), Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC, luận văn thạc sỹ, Trường đại
học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, tr. 27.
13
Nguyễn Thu Cúc (2017), Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC, luận văn thạc sỹ, Trường đại
học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, tr. 27.
12



14

pháp lý của VAMC theo pháp luật hiện nay chưa thể trao cho VAMC sự độc lập
trong việc quyết định hướng đi, định hướng giải quyết nợ xấu. Mọi hoạt động của
VAMC vẫn theo sự giám sát, chỉ đạo của NHNN, do đó, tác giả cũng tự nhận thấy
kiến nghị này có thể coi là khó khả thi nhưng thực tế hiện nay hoạt động của
VAMC chịu sự tác động của nhiều nhóm lợi ích khác nhau, Thủ tướng Chính phủ
có quyền quyết định VAMC phải mua các khoản nợ xấu khơng đủ điều kiện
(khơng có tài sản bảo đảm, khách hàng vay khơng có khả năng trả nợ...). Tuy
nhiên, với việc tạo ra một sự độc lập thực sự trong hoạt động của VAMC không
chịu tác động quá nhiều bởi cơ quan quyền lực nhà nước cũng là một vấn đề cần
lưu ý nhằm tạo cơ chế để VAMC có thể hoạt động theo cơ chế thị trường, xử lý nợ
hiệu quả hơn
Thứ hai, VAMC cần được tiếp tục tăng vốn.
Nghị định 34/2015/NĐ-CP mới ban hành cho phép VAMC nâng vốn điều lệ
lên 2.000 tỷ đồng. Với mức vốn điều lệ mới 2.000 tỷ đồng, đến năm 2018 là 5000
tỷ đồng thì việc mua nợ theo giá thị trường của VAMC sẽ bị giới hạn ở giá trị và
khối lượng các khoản nợ xấu có thể mua. Mặc dù, có thể hiểu vì sao mơ hình hoạt
động của VAMC như hiện nay là để phù hợp với mục tiêu xử lý nợ xấu giúp tháo
gỡ khó khăn cho các NHTM cũng như tạo lòng tin của người dân đối với thị
trường tài chính nhưng khơng ảnh hưởng đến tình hình ngân sách nhà nước, nếu
xét theo mục tiêu này thì mơ hình của VAMC thực sự phù hợp, tuy nhiên lại không
mang lại hiệu quả thực sự và đáp ứng được các kỳ vọng mà Chính phủ đã tự đặt ra.
Do đó, trường hợp ngân sách nhà nước đang khó khăn, để giải quyết vấn đề vốn
cho VAMC, Chính phủ cũng cần xem xét phương án cho phép VAMC chuyển đổi
mơ hình hoạt động của VAMC sang mơ hình cơng ty cổ phần, cho phép VAMC
huy động vốn góp từ các cổ đơng trong và ngồi nước nhằm tăng cường vốn chủ
sở hữu cho VAMC, tạo tiềm lực tài chính vững mạnh, giải quyết được vấn đề nhu
cầu cấp thiết về vốn cho VAMC, đồng thời vẫn đảm bảo phù hợp với tình hình

ngân sách nhà nước hạn hẹp của Việt Nam hiện nay.
Trường hợp, tại thời điểm hiện nay, việc chuyển đổi mơ hình doanh nghiệp
của VAMC chưa thể thực hiện do có thể sẽ làm ảnh hưởng đến việc kiểm soát và
can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình hoạt động của VAMC thì
nên chăng Chính phủ cần cho phép VAMC được phát hành trái phiếu để huy động
vốn, trái phiếu do VAMC phát hành có thể được Chính phủ bảo lãnh và chủ sở
hữu trái phiếu có thể mua bán trên thị trường. Đây cũng có thể coi là một kênh huy


15

động vốn khả thi cho hoạt động của VAMC để thực hiện mục tiêu mua nợ xấu
theo giá thị trường. Tất nhiên, để thực hiện theo phương án nào nêu trên cũng có
những ưu điểm và hạn chế nhất định, do đó, địi hỏi Chính phủ cũng cần phải có sự
xem xét thận trọng và tính tốn trên cơ sở rất nhiều yếu tố, nhưng đối với thực tiễn
hoạt động của VAMC và tình hình ngân sách nhà nước như hiện nay, Chính phủ
cần phải thực sự quyết liệt trong bài toán vốn cho VAMC để giải quyết nhu cầu
cấp thiết nhất hiện nay của VAMC, điều này sẽ góp phần thúc đẩy cho sự phát
triển của hoạt động xử lý nợ theo hình thức mua bán theo giá thị trường.
Thứ ba, nhằm thúc đẩy sự tích cực của VAMC trong hoạt động xử lý nợ sau
khi mua các khoản nợ từ các NHTM, đảm bảo cơ cấu tổ chức và hoạt động vững
chắc cũng như có nguồn lực để thu hút nhân sự làm việc cho VAMC, tác giả kiến
nghị Nhà nước nên cho phép VAMC hoạt động có sinh lời.
Thứ tư, về tổ chức và hoạt động của VAMC, cần phải tăng cường trách
nhiệm của VAMC trong xử lý nợ xấu, cụ thể:
- Mở rộng thêm chi nhánh của VAMC tại khu vực miền trung nhằm chủ
động trong việc giám sát, quản lý nợ xấu và tài sản bảo đảm cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho các NHTM thực hiện các công việc liên quan đến giao dịch mua
bán nợ, báo cáo công tác xử lý nợ và tài sản bảo đảm với VAMC.
- Tích cực phối hợp với các NHTM trong việc mua bán nợ xấu và xử lý tài

sản bảo đảm nhằm lựa chọn kỹ các khoản nợ xấu sẽ mua bán, hỗ trợ nhau trong
việc xem xét, đánh giá đúng giá trị của tài sản bảo đảm, đồng thời cần cùng nhau
xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu phù hợp để giải phòng nhanh nợ xấu thu được. Tạo
cơ chế bình đẳng trong giao dịch mua bán nợ, đặc biệt là việc quy định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán.
1.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
1.2.1. Nợ xấu - đối tượng của hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại
và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Quan điểm về nợ xấu trên thế giới
Theo lý luận chung về tài chính ngân hàng: nợ xấu được hiểu là các khoản
nợ dưới chuẩn, có thể là quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng


16

thu hồi vốn của chủ nợ. Bên cạnh đó, các khoản vay khi đã quá hạn trả nợ gốc và
lãi 90 ngày trở lên bắt đầu được đưa vào nợ xấu14.
Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS) không đưa ra định nghĩa
cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều
quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng và kế toán, BCBS xác định, việc khoản nợ bị
coi là khơng có khả năng hồn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện xảy ra: (i)
ngân hàng nhận thấy người vay khơng có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng
chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi chẳng hạn như giải chấp chứng
khoán (nếu đang nắm giữ); (ii) người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày đối với
bất kỳ khoản tín dụng nào có nghĩa vụ đối với ngân hàng15. Dựa trên hướng dẫn
này, nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 ngày và có dấu
hiệu người đi vay khơng trả được nợ.
Trong Hướng dẫn để tính tốn các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia

(FSIs), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) đưa ra định nghĩa về nợ xấu tại Đoạn 4.84-4.85
“một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc và lãi 90 ngày trở
lên; khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày trở lên đã được vốn hóa, cơ cấu lại
hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản đến hạn thanh tốn đến hạn dưới 90
ngày nhưng có thể nhận thấy các dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ khơng thể
hồn trả nợ đầy đủ chẳng hạn khi người vay phá sản. Sau khi khoản vay được xếp
vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp
vào danh mục nợ xấu cho đến thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc
của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế”.
Như vậy, các quan điểm về nợ xấu của các tổ chức khác nhau có sự khác
biệt về tiêu chí, tuy nhiên về cơ bản có một điểm chung, nợ xấu trên thế giới được
xác định dựa trên những yếu tố cơ bản sau: (i) thời gian quá hạn trả nợ; hoặc (ii)
dựa trên kết quả thu hồi nợ của ngân hàng (khả năng trả nợ của khách hàng); (iii)
hoặc cả hai yếu tố trên.

Quan điểm về nợ xấu của Việt Nam
Tiếp thu các quan điểm về nợ xấu trên thế giới, Việt Nam đã đưa ra một
định nghĩa về nợ xấu tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm
14

Đinh Thị Thanh Vân ( 2012), “So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phịng rủi ro tín dụng của Việt
nam và thơng lệ quốc tế”, Tạp chí ngân hàng, (số 19), tr.5-12.
15
Basel Comimittee on banking supervision (2015).


17

2005 của Ngân hàng nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và có một số

sửa đổi, bổ sung trong Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21 tháng 01 năm 2013
của Ngân hàng nhà nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp
trích lập dự phịng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể: “Nợ xấu là nợ
thuộc các nhóm 3, 4 và 5 bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả
năng mất vốn.”
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN, các TCTD được phân loại nợ theo hai
phương pháp là: phương pháp định lượng và định tính. Theo phương pháp định
lượng thì các khoản nợ xấu nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5 là các khoản nợ quá hạn từ
91 ngày trở lên; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ; nợ được miễn hoặc giảm
lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; nợ
phải thu hồi theo kết luận của thanh tra; nợ vi phạm một số quy định về các trường
hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng và giới hạn cấp tín dụng16; nợ
được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn và nợ được phân loại vào nhóm nợ
có rủi ro cao hơn.
Tại Điều 11 Thơng tư 02/2013/TT-NHNN các khoản nợ được phân loại theo
phương pháp định tính và nợ xấu thuộc nhóm 3, 4, 5 bao gồm các khoản nợ được
TCTD đánh giá là khơng có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản
nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất (nhóm 3); các khoản
nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất cao (nhóm 4); các khoản
nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khơng cịn khả năng thu hồi, mất vốn (nhóm
5).
Như vậy, nợ xấu theo quan điểm của NHNN Việt Nam cũng được xác định
dựa trên hai yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày, hoặc (ii) khả năng thu hồi nợ đáng
lo ngại. Tuy nhiên, việc các NHTM tiếp cận theo yếu tố nào là phụ thuộc vào khả
năng và điều kiện tiến hành phân loại nợ của các NHTM. Trên thực tế ở Việt Nam
các NHTM chủ yếu phân loại dựa trên yếu tố định lượng trong khi thông lệ quốc tế
đã áp dụng yếu tố định tính. Hơn nữa, việc áp dụng yếu tố định lượng ở Việt Nam
16


Khoản 5 Điều 1 Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18 tháng 03 năm 2014 của Ngân hàng nhà nước sửa
đổi Thông tư 02/2013/TT-NHNN về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro
và việc sử dụng dự phòng để xứ lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngồi.


18

chưa thực sự chuẩn xác, thời hạn trả nợ nhiều khi được biến tướng dưới nhiều hình
thức như cơ cấu lại nợ, đảo nợ, mức độ chủ quan trong đánh giá là cao, khiến rủi
ro tăng cao17. Hiện tại, ở Việt Nam chỉ có một số ít ngân hàng áp dụng tiêu chuẩn
định tính để tính tốn nợ xấu, chính vì vậy, có thể kết luận việc tính tốn nợ xấu
theo cách tính của Việt Nam sẽ thấp hơn so với thông lệ trên thế giới. Ở Việt Nam
các ngân hàng áp dụng Điều 11 Thông tư 02/2013/TT-NHNN trong phân loại nợ
sẽ có tính tốn nợ xấu cao hơn so với các ngân hàng chỉ tính tốn theo Điều 1018.
Ngồi ra, một số yếu tố chi tiết hơn trong phân loại nợ và trích lập dự phịng sẽ
tiếp tục làm cho khoảng cách nợ xấu theo quy định của Việt Nam và thông lệ quốc
tế cách xa nhau.
Ngày 30/12/2016, NHNN đã ban hành Thông tư 39/2016/TT-NHNN của
Ngân hàng nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngồi đối với khách hàng chính thức có hiệu lực kể từ ngày
15/03/2017 thay thế cho Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng. Tuy nhiên, quy định về việc chuyển nợ quá hạn tại
Điều 20 của Thông tư 39/2016/TT-NHNN đang gây ra một sự khó hiểu khơng nhỏ
với những chủ thể áp dụng.
Điều 20 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định: “Tổ chức tín dụng chuyển
nợ quá hạn đối với số dư nợ gốc mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn theo
thỏa thuận và khơng được tổ chức tín dụng chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ;
thông báo cho khách hàng về việc chuyển nợ quá hạn. Nội dung thông báo tối

thiểu bao gồm số dư nợ gốc bị quá hạn, thời điểm chuyển nợ quá hạn và lãi suất áp
dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn”.
Với quy định này có thể hiểu: với một khoản vay 10 tỷ đồng trả góp trong 10
năm (mỗi năm trả 1 tỷ đồng nợ gốc), đến hết năm thứ nhất, khách hàng hồn tồn
khơng trả được khoản tiền gốc nào. “Số dư nợ gốc mà khách hàng không trả được
nợ đúng hạn theo thỏa thuận” trong trường hợp này là 1 tỷ đồng, và ngân hàng chỉ
chuyển nợ quá hạn đối với 1 tỷ đồng này, còn 9 tỷ đồng còn lại vẫn là nợ trong hạn.
Điều này mâu thuẫn với khái niệm về nợ quá hạn quy định tại khoản 6 Điều 3
17

Phạm Thị Bích Thủy (2016), Pháp luật về xử lý nợ xấu của các TCTD từ thực tiễn Công ty quản lý tài sản
của các TCTD Việt Nam, luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội, tr. 12.
18
Đinh Thị Thanh Vân (2012), “So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phịng rủi ro tín dụng của Việt
Nam và thơng lệ quốc tế”, Tạp chí ngân hàng, số 19, tr 5-12.


19

Thơng tư 02/2013/TT-NHNN. Bởi vì, theo Thơng tư 02/2013/TT-NHNN, khi
khách hàng chỉ cần không trả đúng hạn một phần gốc hoặc lãi đến hạn thì tồn bộ
khoản vay đó được coi là nợ quá hạn và sẽ bị chuyển nhóm nợ. Đồng thời, toàn bộ
số dư nợ và giá trị các cam kết ngoại bảng của khách hàng đó tại NHTM sẽ được
phân loại vào cùng một nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất. Không những thế, đối
với khách hàng có dư nợ hoặc cam kết ngoại bảng tại nhiều NHTM, Thơng tư
02/2013/TT-NHNN cịn quy định các NHTM phải phân loại toàn bộ dư nợ và giá
trị cam kết ngoại bảng của khách hàng đó theo nhóm nợ do Trung tâm thơng tin tín
dụng quốc gia (CIC) cung cấp. Hiểu một cách đơn giản, nếu khách hàng chỉ cần
chậm trả một phần nợ gốc hoặc lãi đến hạn thì theo Thơng tư 02/2013/TT-NHNN,
tồn bộ khoản vay đó và tất cả các khoản tín dụng khác của khách hàng tại tất cả

các NHTM đều sẽ bị chuyển nhóm nợ.
Theo cơng bố chính thức của Ngân hàng Nhà nước tính đến 30/11/2016, tỷ
lệ nợ xấu trên toàn hệ thống ước tính cịn khoảng 2,46%. Đây là số nợ xấu được
phân loại theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN. Một phần lớn số nợ xấu này là các
khoản vay trung dài hạn nhưng chưa đến kỳ hạn trả nợ cuối cùng theo thỏa thuận,
tuy nhiên toàn bộ dư nợ gốc đều đang được phân loại là nợ xấu. Nay nếu được
phân loại lại theo điều 20 Thơng tư 39/2016/TT-NHNN thì có thể nợ xấu sẽ giảm
đi. Nếu như vậy, chẳng khác nào NHNN chấp nhận một bước lùi trong việc theo
đuổi các thông lệ quốc tế về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Và như vậy
các NHTM sẽ phải phân loại một khoản vay nằm ở hai nhóm nợ khác nhau, dẫn
tới khó khăn trong việc tính tốn chi phí dự phòng rủi ro cụ thể của khoản vay bởi
tỷ lệ trích lập dự phịng là khác nhau giữa các nhóm nợ. Do đó, cần thiết phải có
một văn bản hướng dẫn rõ ràng về từ phía NHNN.
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, đối với khoản nợ vay không trả
nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là khơng có khả năng trả nợ đúng hạn và không
chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì tồn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng
tín dụng đó là nợ q hạn. Quy định này ảnh hưởng đến quyền lợi của người vay
và quyền tự chủ của NHTM. Do vậy, Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã sửa đổi quy
định này theo hướng NHTM chỉ chuyển nợ quá hạn đối với số dư nợ gốc mà
khách hàng không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận và không được NHTM


×