Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-----------***------------

ĐỒN HỮU SƠN
MSSV: 1155030298

NGUN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Niên khóa: 2011 - 2015
GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

TP.HỒ CHÍ MINH - Năm 2015


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TTHS

Tố tụng hình sự

LTTHS


Luật Tố tụng hình sự

BLTTHS

Bộ Luật Tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

VKS

Viện kiểm sát

CQĐT

Cơ quan điều tra


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRANH
TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tụng hình sự. ................................. 01
1.1.1. Khái niệm chung về nguyên tắc cơ bản của TTHS .............................. 01
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS.............. 08

1.2. Vị trí và mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc cơ
bản của LTTHS Việt Nam ...................................................................................... 21
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng đối với TTHS Việt Nam....................... 38
CHƢƠNG II. SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003, THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Sự thể hiện nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003…………………………………………………………………..............31
2.2. Thực tiễn tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam ............... 43
2.2.1. Những kết quả đạt được ....................................................................... 43
2.2.2. Những hạn chế, bật cập về tranh tụng trong Tố tụng hình sự Việt Nam
và nguyên nhân ......................................................................................................... 46
CHƢƠNG III. KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ NGUN TẮC TRANH TỤNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về nguyên tắc
tranh tụng ................................................................................................................ 57
3.1.1 Cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố
tụng hình sự Việt Nam .............................................................................................. 57
3.1.2. Cần hoàn thiện các quy định theo yêu cầu đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử trong TTHS Việt Nam .................................................................. 65


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

3.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................... 75
3.2.1 Nâng cao trình độ nhận thức về nguyên tắc tranh tụng......................... 75
3.2.2. Nâng cao trình độ của các chủ thể tham gia hoạt động tranh tụng….77

3.2.3. Đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất.................................................... 78
3.2.4. Đẩy mạnh việc kiểm tra, giám sát và sử lý sai phạm, tiêu cực ............ 79

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh tụng không phải vấn đề mới trong khoa học pháp lý. Tư tưởng về
tranh tụng xuất hiện từ thời kỳ cổ đại và được coi như một trong những nguyên tắc
cơ bản của TTHS. Tuy vậy trong lịch sử TTHS Việt Nam khái niệm về tranh tụng
rất ít được đề cập, điều này xuất phát từ quan niệm trước đây của chúng ta về tranh
tụng, cho rằng tranh tụng là đặc trưng của TTHS phương Tây nên vấn đề này ít
được đề cập trong khoa học pháp lý trong nước. Trong những năm gần đây với việc
kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật ngày càng phát triển, đời sống của người dân
ngày càng nâng cao, những đòi hỏi khách quan phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Yêu cầu cần phải nâng cao tính dân chủ, cơng bằng đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân hướng tới giá trị đích thực của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt ngày 02/01/2002 Bộ Chính Trị đã ban hành nghị quyết số 08NQ/TW về “ Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử,
coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp…”. Sau hơn 10 năm thực
hiện chủ chương cải cách tư pháp của Bộ chính trị đã tạo ra những thay đổi cơ bản
cả trong nhận thức và thực tiễn về nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động Tư pháp.

Mới đây, chủ trương về nâng cao hoạt động tranh tụng đã được thể chế hóa trong
Hiến pháp 2013. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy định“Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm”. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết là thể chế hóa
nguyên tắc hiến định trên vào trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, nhằm
đưa nguyên tắc tranh tụng áp dụng hiệu quả trong hoạt động TTHS. Xung quanh
vấn đề ghi nhận nguyên tắc tranh tụng vào trong BLTTHS hiện nay còn tồn tại một
số quan điểm trái chiều trong việc nên hay không công nhận nguyên tắc tranh tụng
là một nguyên tắc cơ bản trong LTTHS Việt Nam; nếu có thì ghi nhận dưới hình
thức nào, phạm vi ghi nhận ra sao; các vấn đề về chủ thể của tranh tụng, cũng như


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

các biện pháp bảo đảm tranh tụng cho hoạt động tranh tụng trong TTHS…đó là
những vấn đề cần làm rõ để có thể sớm hồn thành mục tiêu đề ra trong chiến lược
cải cách Tư pháp trong thời gian tới. Vì vậy, việc nghiên cứu nguyên tắc tranh tụng
tung TTHS Việt Nam là yêu cầu có tình khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn. Do đó tác giả đã chọn đề tài “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt
Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp Đại học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tranh tụng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên
gia, nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, và nhiều tác giả khác ở cả phương
diện lý luận và thực tiễn. Trong đó có thể các cơng trình nghiên cứu theo các nhóm
sau :
Nhóm thứ nhất: Các nghiên cứu, bài viết về tổ chức, hoạt động của các thiết
chế tư pháp (Tòa án. VKS, CQĐT, Luật sư…) và các thủ tục tố tụng có đề cấp đến
vấn đề tranh tụng; hay các nghiên cứu, bài viết về hoạt động tranh tụng trong một
giai đoạn tố tụng cụ thể tiêu biểu như: “Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ

thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vi dân”, Đề tài cấp nhà
nước KX.04.06. do TS. Uông Chung Lưu chủ nhiệm, Viện khoa học pháp lý – Bộ
tư pháp, Hà Nội, 2006; Th.s Trần Duy Bình ,Thực trạng và một số kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hành sự theo tinh thần cải cách tư
pháp , Bài viết đăng trên Cổng thông tin điện tử TANDTC (www.toaan.gov.vn);
Nguyễn Trương Tín: Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong Tố tụng
hình sự với chức năng xét xử của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp.Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 10, 2008,tr 78; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Trương Tín
“Tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Tố tụng hình
sự Việt Nam”, Trường đại học Luật Tp.HCM, năm 2007…
Nhóm thứ hai: Các cơng trình, bài viết nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ là
nguyên tắc cơ bản, tiêu biểu như: Ts. Nguyễn Văn Hiển : Nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011; Nguyễn Thái


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

Phúc: Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 9, 2003, tr 05; Nguyễn Thái Phúc: Vấn đề tranh tụng và tang cường
tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp, Tạp chí nhà
nước và phá luật,số 8,2008, tr 58-67; Trần Đình Sâm (Viện trưởng VKSND thị xã
Cửa Lị, Nghệ An): Những vấn đề cơ bản về tranh tụng trong Tố tụng hình sự. Tạp
chí kiểm sát, số 20, tháng 10-2014. Tr 40; Luận văn thạc sĩ tác giả Phan Thị Mỹ
Hạnh, “Nguyên tắc tranh tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Trường đại
học Luật Tp.HCM, năm 2004…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đã cung cấp nguồn
thông tin tham khảo đồ sộ và hữu ích về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan

đến tranh tụng trong TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều bài viết chỉ nghiên cứu một
số khía cạnh nhất định trong việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng, chưa có nhiều đề
tài, bài viết nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ một nguyên tắc cơ bản của TTHS
một cách tồn diện. Vì vậy cịn một số vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ, chưa được làm
sáng tỏ, thực tiễn áp dụng được khảo sát còn hạn chế, những kiến nghị chưa đầy đủ
và hiệu quả. Hơn nữa đa số các đề tài, bài viết điều được viết từ năm 2011 trở về
trước nên có một số vấn đề mới trong thực tiễn và trong văn bản Luật mới được sửa
đổi, bổ sung chưa được cập nhật như: Luật luật sư năm 2012, luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014…
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện cơng trình này với mục đích nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ
thống các vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng, cũng như đánh giá một cách
khách quan, khoa học về sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng trong thực tiễn xây
dựng và áp dụng pháp luật TTHS ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các
định hướng, giải pháp góp phần xây dựng và thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng
trong pháp luật TTHS Việt Nam, cũng như các giải pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng được vận hành hiệu quả trong thực tiễn hoạt động TTHS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nguyên tắc tranh tụng trong TTHS
Việt Nam trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn (Khái niệm, đặc điểm
của nguyên tắc cơ bản của TTHS, LTTHS; khái niệm, đặc điểm, nội dung… của
nguyên tắc tranh tụng; biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS
Việt Nam; thực tiễn hoạt động tranh tụng tại Việt Nam hiện nay…)

Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là một vấn đề rất rộng, có thể hiểu với nhiều góc độ khác nhau
(một thủ tục tố tụng, nguyên tắc cơ bản, mơ hình tố tụng). Ngồi ra tranh tụng cịn
tồn tại trong nhiều loại Tố tụng tư pháp khác nhau (Tố tụng dân sự, Tố tụng hành
chính, Tố tụng hình sự…). Tuy nhiên trong phạm vi của khóa luận tốt nghiệp đại
học chuyên ngành Luật hình sự, nên tác giả chỉ nghiên cứu tranh tụng dưới góc độ
một nguyên tắc cơ bản trong TTHS, đặt chúng trong mơ hình tố tụng cụ thể, cũng
như khả năng, điều kiện, cách thức để áp dụng nguyên tắc này trong điều kiện, hoàn
cảnh và mơ hình TTHS cụ thể ở Việt Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm cả Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN về cải
cách tư pháp.
Đồng thời, khóa luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong lĩnh
vực luật học, cụ thể:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bản chất, sự hình thành và
phát triển các quy định pháp luật TTHS về nguyên tắc tranh tụng, từ đó định hướng
việc hồn thiện quy định pháp luật có liên quan.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để nhận thức một cách khái
quát và chi tiết, cụ thể về các vấn đề được nghiên cứu trong khóa luận.
Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm khác biệt về
nguyên tắc tranh tụng với các nguyên tắc cơ bản khác trong BLTTHS năm 2003. Sự


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

khác nhau trong quy định pháp luật về những quy định có liên quan đến nguyên tắc

tranh tụng trong các giai đoạn lịch sử khác nhau…
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Khóa luận này nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về nguyên tắc
tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam. Khóa luận sẽ góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng trong TTHS và khả năng áp dụng và
vận hành nguyên tắc này một cách hiệu quả nhất trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của TTHS Việt Nam. Đưa ra những kiến nghị, đề xuất các giải pháp xây dựng và
thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam. Có ý nghĩa trong việc
hồn thiện hệ thống tư pháp, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân. Ngồi ra, cơng trình có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và học tập đối với những người quan tâm
đến vấn đề nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam.
7. Bố cục của khóa luận
Bố cục của khóa luận, ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng hình
sự Việt Nam.
Chương II: Sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam năm 2003, thực tiễn áp dụng.
Chương III: Kiến nghị hồn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về nguyên tắc
tranh tụng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng.


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm chung về nguyên tắc cơ bản của TTHS
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi hành vi của con người đều bắt
nguồn từ sự nhận thức. Theo đó, để có được hành động đúng con người phải có
được nhận thức đúng, muốn có được nhận thức đúng thì phải có phương pháp nhận
thức khoa học. Phương pháp nhận thức ở đây có nghĩa là trong q trình hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn chủ thể thực hiện phải tuân thủ theo hệ thống
những nguyên tắc cơ bản một cách nhất qn, có như vậy thì mới có thể dẫn đến
những nhận thức đúng đắn để làm cơ sở quyết định cho một hành vi đúng đắn.
Chính vì vậy hệ thống các ngun tắc cơ bản là không thể thiểu trong hoạt động tư
duy của con người nó giống như một chiếc “la bàn” định hướng cho hoạt động tư
duy, nhận thức của con người, đảm bảo tính đúng đắn của nhận thức và hành vi của
con người.
Theo Từ Điển Tiếng Việt, nguyên tắc với nghĩa chung nhất được hiểu là:
“Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân thủ theo trong mội loạt việc làm” [46].
Còn theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin “Nguyên tắc”: là những tư tưởng xuất phát điểm,
có tính chủ đạo, định hướng, là quy tắc cơ bản của hành động. Nguyên tắc mang
những thuộc tính cơ bản sau :
Thứ nhất, nguyên tắc có tính khách quan. Ngun tắc là những tư tưởng
mang tính nền tảng, khách quan, và tất yếu mà con người và xã hội không làm khác
được. Cũng giống như con người hay bất cứ một thực thế sống nào khác, có sinh ra
thì phải có chết đi. Đây là một quy luật mang tính chất tự nhiên, khách quan khơng
thể thay đổi được. Thuộc tính khách quan của “ngun tắc” chính là yếu tố quyết
định đến việc định hướng hành động. Bởi lẽ nguyên tắc mang tính khách quan

Trang 1


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM


GVHD: TS. LÊ NGUN THANH

khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, nếu muốn thực hiện hành động
một cách đúng đắn thì phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan của nó.
Thứ hai, ngun tắc có tính chủ quan. Tính chủ quan của ngun tắc ở đây
khơng phải là việc con người có thể dùng ý chí chủ quan của mình để thay đổi nội
dung của nguyên tắc. Mà là nhận thức chủ quan, là ý chí của con người trước các
đòi hỏi của quy luật khách quan. Nghĩa là nội dung và sự tồn tại của nguyên tắc là
khách quan không thể thay đổi. Nhưng ý chí chủ quan của con người lại chính là
yếu tố quyết định trong việc nhìn nhận và thực hiện nội dung của nguyên tắc. Vậy
thuộc tính chủ quan của nguyên tắc ở đây chính là việc nhìn nhận và thực hiện
nguyên tắc.
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về “nguyên tắc”: Là những tư
tưởng chủ đạo, khách quan, có tính định hướng, là quy tắc cơ bản cần tuân theo khi
thực hiện một hành động. Một nguyên tắc ln mang hai thuộc tích, khách quan và
chủ quan. Mọi hoạt động đề tồn tại những nguyên tắc mang tính bản chất, khách
quan nhưng việc nhìn nhận và thực hiện đúng nguyên tắc lại phụ thuộc một phần
vào ý chí chủ quan của con người và xã hội.
Nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự
TTHS là hoạt động đặc thù của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đấu
tranh, phòng chống và xử lý các loại tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự.
Cũng như các hoạt động khác, khi tiến hành các hoạt động TTHS cũng phải tuân
theo một số nguyên tắc cơ bản của nó. Hiện nay có khá nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm “nguyên tắc cơ bản của TTHS”. Điển hình như quan điểm cho rằng
“nguyên tắc cơ bản là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các
chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về TTHS”[50]; Quan điểm thứ
hai cho rằng : “nguyên tắc cơ bản của TTHS là những phương châm, định hướng và
chi phối toàn bộ hoạt động TTHS, được các văn bản luật TTHS ghi nhận một cách
cụ thể” [51-tr.12]; Quan điểm thứ ba lại cho rằng: “Nguyên tắc cơ bản của TTHS là
những quy định cơ bản, chung nhất, mang tư tưởng chỉ đạo, khơng phụ thuộc vào

việc có được ghi nhận hay không được ghi nhận trong luật” [24-tr.5].

Trang 2


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

Như vậy, có thể thấy tất cả những quan điểm trên đã thừa nhận nguyên tắc cơ
bản của TTHS là những quan điểm chỉ đạo, mang tính chất định hướng cho các hoạt
động TTHS có thể được ghi nhận hoặc chưa được ghi nhận trong các văn bản quy
phạm pháp luật về TTHS. Tuy nhiên, những định nghĩa trên về nguyên tắc cơ bản
của TTHS vẫn chưa làm nổi bất lên tính khách quan của nguyên tắc. Theo chúng tôi
nguyên tắc cơ bản của TTHS phản ánh quy luật khách quan trong hoạt động TTHS,
là những tư tưởng mang tính chất nền tảng, định hướng, là những địi hỏi khách
quan của hoạt động TTHS. Chính vì vậy, việc có hay khơng ghi nhận một ngun
tắc bằng một điều luật cụ thể là do đòi hỏi khách quan của xã hội và do nhận thức
cũng như ý chí chủ quan của nhà lập pháp. Nhưng cho dù có muốn hay khơng trong
việc ghi nhận ngun tắc vào trong luật thì những ngun tắc đó vẫn tồn tại một
cách khách quan. Tuy nhiên vẫn ln có sự thống nhất giữa tính khách quan và chủ
quan trong nội hàm khái niệm nguyên tắc cơ bản của TTHS. Theo đó mọi tư tưởng,
quan điểm cho dù nó có tính khách quan hay nền tảng đi chăng nữa thì vẫn phải phù
hợp với các điều kiện phát triển khách quan cũng như địi hỏi của xã hội thì những
tư tưởng của nguyên tắc mới có thể được đưa vào áp dụng trong thực tế. Chính vì
vậy, để có thể đảm bảo được tính chỉ đạo và định hướng cũng như đảm bảo tính
chất của một nguyên tắc cơ bản trên thực tế thì những tư tưởng đó phải được quy
định cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh tính khách quan và chủ
quan, các “nguyên tắc cơ bản của TTHS” luôn nằm trong mối quan hệ mật thiết, bổ
sung cho nhau tập hợp thành một hệ thống các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mọi

hoạt động trong TTHS. Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm “Nguyên tắc
cơ bản trong TTHS” như sau : Nguyên tắc cơ bản của TTHS là những tư tưởng cơ
bản mang tính khách quan, có tính chỉ đạo, chi phối tồn bộ hoặc một số hoạt động
tố tụng nhất định, được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật TTHS.
Nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự
Hoạt động tố tụng hình sự là những hoạt động nhận thức và thực tiễn rất
phức tạp ảnh hưởng lớn tới quyền tự do, dân chủ của công dân. Khi các chủ thể tiến
hành thực hiện các hoạt động tố tụng cần phải tuân thủ hệ thống các nguyên tắc của

Trang 3


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUN THANH

LTTHS, có như vậy thì hoạt động tố tụng mới có thể được vận hành một cách thống
nhất và đạt hiệu quả. Với mục đích tìm ra các đặc điểm chung, mối liên hệ giữa
nguyên tắc cơ bản của LTTHS và nguyên tắc trong TTHS, nhằm lập luận, đưa ra
những quan điểm về việc có nên đưa “nguyên tắc tranh tụng” (một nguyên tắc trong
TTHS) trở thành “nguyên tắc cơ bản của LTTHS”. Chúng tôi cho rằng trước tiên
cần phân biệt rạch ròi các khái niệm có tính tương đồng và đưa ra quan niệm của
mình về các nguyên tắc cơ bản của LTTHS.
Trong khoa học pháp lý và nhận thức chung của xã hội, đã có sự phân biệt
khá rõ ràng giữa hai khái niệm “TTHS” và “LTTHS”. Khái niệm “TTHS” được
hiểu là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng và các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm
giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật.
Hoạt động TTHS mang tính khách quan tồn tại trong tất cả các xã hội có giai cấp và
nhà nước, nó là địi hỏi tất yếu của Nhà nước khi trừng trị người phạm tội. Khái

niệm “LTTHS” dùng để chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật của nhà nước điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Như
vậy, “LTTHS” là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của
nhà làm luật. Như vậy chính bản thân TTHS đã có những nguyên tắc cơ bản của nó
là những quy luật khách quan mang tính “bản chất” của TTHS nhằm hướng tới giải
quyết vụ án khách quan, công bằng. Nhà làm luật, trên cơ sở nhận thức các quy luật
khách quan đó và ghi nhận chúng trong các văn bản quy phạm pháp luật và trở
thành những nguyên tắc của LTTHS. Chính vì vậy, mà LTTHS mỗi quốc gia ln
có sự khác nhau về các nguyên tắc cơ bản. Các nguyên tắc của LTTHS được ghi
nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước như: Hiến pháp, các Luật tổ chức,
BLTTHS... nên nó mang tính pháp lý. Ngồi ra các ngun tắc của LTTHS cịn
mang tính khách quan, khoa học vì chúng được xây dựng trên cơ sở đúc kết kinh
nghiệm của quá trình giải quyết vụ án hình sự và các kết quả nghiên cứu của khoa
học pháp lý tố tụng hình sự. Ngồi ra ngun tắc cơ bản của LTTHS cũng mang các
yếu tố chủ quan và chịu sự chi phối của các điều kiện khách quan về kinh tế, văn

Trang 4


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUN THANH

hóa xã hội… vì thế tùy thuộc vào nhận thức của các nhà làm luật của mỗi quốc gia,
trong mỗi thời kỳ khác nhau thì những nguyên tắc cơ bản của LTTHS cũng có thể
thay đổi. Như vậy có thể khẳng định khái niệm “Nguyên tắc cơ bản của TTHS” có
nội dung rộng hơn khái niệm về “Nguyên tắc cơ bản của LTTHS”. Hai khái niệm
này nằm trong mối quan hệ của cái chung và cái riêng, giữa cái tổng thể và cái bộ
phận.
Những tư tưởng, quy luật khách quan nằm trong nội dung các nguyên tắc cơ

bản phải có vai trị định hướng đối với hoạt động của các chủ thể trong toàn bộ hay
một số giai đoạn TTHS. Bao gồm cả việc xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS.
Tuy nhiên không phải mọi tư tưởng, quan điểm nào có tác động đến nhận thức và
thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS cũng đều trở thành nguyên tắc cơ
bản của LTTHS mà cần phải xét đến những yếu tố về tính khách quan và tính thời
đại. (Ví dụ: Như tư tưởng về tranh tụng đã xuất hiện từ rất lâu có thể nói tranh tụng
xuất hiện đồng thời với sự ra đời của TTHS. Tuy nhiên nếu vào thời kỳ những năm
trước giải phóng (1975) và kể cả những năm đầu giải phóng ở nước ta thì lại khơng
phù hợp với mục đích của hoạt động TTHS thời điểm bấy giờ. Vì khi đó mục đích
trừng trị tội phạm, bảo vệ chính quyền cịn non trẻ được ln là ưu tiên hàng đầu,
cũng như nhận thức về tranh tụng vào thời điểm đó cịn chưa đúng và chưa đầy đủ.
Nên mặc dù tư tưởng về tranh tụng là khách quan và có tính chi phối, định hướng
hoạt động TTHS nhưng do khơng đảm bảo tính thời đại nên chưa được coi là
nguyên tắc cơ bản của LTTHS). “nguyên tắc nếu không phù hợp với điều kiện
khách quan, điều kiện thời đại thì dù nó có được ghi nhận trong luật thì cũng chỉ tồn
tại trên giấy tờ mà thơi” [25-tr.55]. Có thể rút ra định nghĩa về nguyên tắc cơ bản
của LTTHS như sau: Nguyên tắc cơ bản của LTTHS là những quy luật khách quan
của hoạt động TTHS được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật được
thể hiện với hình thức các tư tưởng mang tính nền tảng, có vai trị chỉ đạo và định
hướng tồn bộ hoặc một số hoạt động TTHS, thể hiện thuộc tính đặc trưng và bản
chất của hoạt động TTHS.

Trang 5


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

Tóm lại từ khái định nghĩa cũng như những phân tích trên, có thể rút ra

những thuộc tính đặc trưng của “nguyên tắc cơ bản trong LTTHS” như sau :1) Tính
khách quan, như đã phân tích ở trên thì trong nội dung của một nguyên tắc cơ bản
trong LTTHS ln chứa đứng các quy luật, địi hỏi mang tính khách quan, nội tại
của hoạt động TTHS, những quy luật, yêu cầu này tôn tại tự nhiên, khơng phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người. 2) Tính chủ quan, tính chủ quan của nguyên tắc
cơ bản trong LTTHS ở đây phán ánh trình độ nhận thức và ý chí của con người
trong cả hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật về những đòi hỏi, yêu cầu của
quy luật khách quan trong hoạt động TTHS. 3) Tính hệ thống, các nguyên tắc cơ
bản trong LTTHS luôn tôn tại trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Tạo thành một
hệ thống các nguyên tắc cơ bản của LTTHS chi phối các hoạt động TTHS.4) Tính
quy phạm, thuộc tính này nhằm đảm bảo tính chỉ đạo, định hướng của các quy luật
và tư tưởng khách quan trong hoạt động TTHS. Theo đó một nguyên tắc để có thể
được coi là nguyên tắc cơ bản của LTTHS thì ngun tắc đó phải được quy phạm
hóa dưới dạng các điều khoản Luật, bao gồm tên gọi và cả nội dung cụ thể của
nguyên tắc trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Nội dung, đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong LTTHS
Thứ nhất, các nguyên tắc cơ bản của LTTHS phải chứa đựng những nội
dung thể hiện phương châm, định hướng quan trọng về hoạt động TTHS của Đảng
và Nhà nước đó là việc bảo vệ quyền, lợi ích của công dân, bảo đảm trật tự xã hội.
Xa rời các nguyên tắc cơ bản của LTTHS sẽ rơi vào tình trạng chỉ chú ý việc giải
quyết vụ án nhanh chóng mà xem nhẹ đến việc đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của
công dân dẫn đến mất dân chủ, hoặc thiếu kiên quyết, dẫn đến tình trạng đấu tranh
chống tội phạm trì trệ kém hiệu quả.
Thứ hai, phải có tính chỉ đạo, định hướng và chi phối tồn bộ hoặc một số
giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục TTHS. Vì vậy, những nguyên
tắc chỉ có ở một giai đoạn của hoạt động TTHS thì khơng thể coi là ngun tắc cơ
bản. Chẳng hạn, nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia chỉ là đặc
trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm nên không thể là nguyên tắc cơ bản của LTTHS.

Trang 6



NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản của LTTHS có tính ổn định cao, bởi lẽ nó
phản ánh những nguyên lý cơ bản nhất trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Những nguyên tắc như: bảo đảm pháp chế, tôn trọng các quyền tự do cá nhân của
con người trong quá trình giải quyết vụ án... bản thân nó là một quy luật của việc
giải quyết vụ án ở bất kỳ giai đoạn nào trong sự phát triển của nhà nước XHCN, vì
vậy nó ln mang tính ổn định cao. Chính vì vậy, tính ổn định cao của nguyên tắc
đã có ảnh hưởng tới việc lựa chọn mơ hình tố tụng và đặc biệt là việc định hướng
phát triển của LTTHS. Tuy vậy, các nguyên tắc của LTTHS cũng khơng phải là bất
biến bởi vì xã hội luôn phát triển cùng với các quy luật của nó nên các nguyên tắc
của LTTHS cũng phát triển theo. Đẫn đến mất đi nguyên tắc này và xuất hiện thêm
những nguyên tắc khác, các nguyên tắc còn tồn tại cũng sẽ được bổ sung, sửa đổi
làm phong phú thêm về nội dung và hình thức biểu hiện.
Thứ tư, các nguyên tắc nguyên tắc cơ bản của LTTHS là sản phẩm của mơ
hình tố tụng. Đó chính là những tư tưởng chỉ đạo cả về nhận thức và thực tiễn của
các chủ thể khi thức hiện các hoạt động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc đưa nội
dung mơ hình tố tụng trở thành hiện thực pháp luật. Điều này làm cho mỗi mơ hình
tố tụng hình sự sẽ có một hệ thống các nguyên tắc cơ bản với đặc trưng riêng biệt.
Những nguyên tắc cơ bản của LTTHS là yếu tố căn bản để hình thành bản chất tố
tụng hình sự mỗi quốc gia.
Thứ năm, để đảm báo thực hiện đúng theo các tư tưởng chỉ đạo đã trở thành
những nguyên tắc khi thực hiện các hoạt động Tố tụng hình sự thì những nguyên tắc
này cần phải được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật. Đây chính là tính quy
phạm của nguyên tắc cơ bản trong LTTHS, tạo ra cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên
tắc trên thực tế. Hình thức ghi nhận các nguyên tắc cơ bản trong LTTHS sẽ tuy

thuộc vào nhận thức trong mỗi thời kỳ, cũng như kỹ thuật lập pháp khác nhau mà
cách thức ghi nhận những nguyên tắc cơ bản cũng sẽ khác nhau. Có thể chọn hình
thức ghi nhận bằng một điều luật cụ thể, hay cũng có thể thể hiện nguyên tắc trong
nhiều điều luật khác nhau… Theo chúng tôi việc quan trọng là chúng ta xây dựng
được một hệ thống các nguyên tắc cơ bản của LTTHS, và có những biện pháp bảo

Trang 7


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

đảm việc áp dụng hệ thống những nguyên tắc này trên thực tế. Nhưng để có thể
thực hiện nguyên tắc một cách hiệu quả và thống nhất trên thực tế thì các nhà làm
luật nên ghi nhận cụ thể nội dung cũng như tên gọi của các nguyên tắc cơ bản trong
BLTTHS
Ngoài ra nguyên tắc cơ bản của LTTHS cịn mang tính khách quan và tính
thời đại. Đây là đặc điểm quan trọng mang tính quyết định các tư tưởng chỉ đạo chi
phối các hoạt động TTHS của nguyên tắc có được đảm bảo thực hiện trên thực tế
hay khơng. Bởi vì như đã phân tích ở trên thì các nguyên tắc cơ bản của LTTHS là
một hệ thống, tất cả cần phải được tuân thủ mới có thể đảm bảo tính thống nhất và
đạt hiệu quả khi tiến hành hoạt động TTHS.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS
Trong những năm gần đây với việc kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng phát
triển, đời sống của người dân ngày càng nâng cao, những địi hỏi khách quan phải
hồn thiện hệ thống pháp luật. Yêu cầu phải đẩy mạnh cải cách tư pháp theo hướng
bảo đảm tranh tụng, nâng cao tính dân chủ, cơng bằng đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân hướng tới giá trị đích thực của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Chính vì vậy, vấn đề “tranh tụng” đã được nhiều nhà nghiên cứu và hoạt

động thực tiễn đề cập trong các diễn đàn khoa học pháp lý và các cơng trình nghiên
cứu hay các bài viết trên các tạp chí chuyên nghành.
Về mặt thuật ngữ, thì “tranh tụng” có nghĩa là “Thưa kiện nhau để dành lẽ
phải” [15-tr.1966] giữa hai người (bên nguyên đơn và bên bị đơn) có lập trường
tương phản nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Theo nghĩa tiếng Anh, tranh tụng là
“institute proceedings against someone” [39-tr2083], tức là thủ tục tiến hành chống
lại ai đó. Cịn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ
“tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận trong tố tụng. Như vậy, dưới góc
độ chung nhất về ngơn ngữ thì tranh tụng là sự kiện tụng, cáo buộc lẫn nhau giữa
hai bên có lợi ích đối lập nhau.
Dưới góc độ pháp lý, tranh tụng là hoạt động diễn ra trong quá trình tố tụng
tư pháp (bao gồm cả lĩnh vực Tố tụng dân sự, Tố tụng hành chính, Tố tụng hình

Trang 8


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

sự..). Tranh tụng xuất hiện khi có sự xuất hiện xung đột về lợi ích trong các quan hệ
pháp luật của từng lĩnh vực trên. Hoạt động tranh tụng của các bên về pháp lý sẽ
diễn ra dưới sự trọng tài của chủ thể thứ ba là Tòa án, tranh tụng chỉ chấm dứt khi
xung đột giữa các bên được giải quyết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của
Tịa án.
Trong những năm gần đây đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết
chuyên sâu về “tranh tụng”, theo đó khái niệm về tranh tụng được hiểu theo rất
nhiều nghĩa khác nhau. Sau q trình tìm hiểu, nghiên cứu chung tơi nhận thấy có
những quan điểm tiêu biểu sau:
Thứ nhất, tranh tụng được hiểu theo nghĩa là một thủ tục hoặc một giai đoạn

của TTHS và trong một số trường hợp tranh tụng được hiểu đồng nhất với “tranh
luận” tại phiên tòa. Quan điểm này đã thu hẹp khái niệm về tranh tụng và thậm chí
coi tranh tụng chính là một thủ tục được tiến hành trong một giai đoạn của TTHS đó
là giai đoạn xét xử thể hiện bằng hoạt động tranh luận tại phiên tịa.
Thứ hai, có quan điểm nhìn nhận tranh tụng như một hoạt động của TTHS.
Theo Từ điển Luật học thì tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các
bên tham giá tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong
việc thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm, lợi ích của mình,
phản bác lại quan điểm, lợi ích của phía đối lập [49-tr.807]. Theo quan điểm này thì
tranh tụng khơng cịn bó hẹp trong một thủ tục hay một giai đoạn của TTHS mà đã
được hiểu theo nghĩa rộng hơn đó là một hoạt động có thể được tiến hành ở nhiều
giai đoạn trong hoạt động TTHS.
Thứ ba, một số tác giả lại nhìn nhận tranh tụng như một nguyên tắc của
TTHS, “Tranh tụng được nhìn nhận như một quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh
nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng buộc tội và chức
năng bào chữa) là hai chức năng có định hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau,
có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến lập luận, lợi ích và phản bác ý kiến,
lập luận, lợi ích của bên kia mà đỉnh điểm của quá trình này là diễn ra tại phiên tịa
sơ thẩm trước Tịa án có vai trị là trọng tài” [37-tr.58]. Quan điểm này cho rằng,

Trang 9


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

tranh tụng chính là bản chất của TTHS, có TTHS là phải có hoạt động tranh tụng và
tranh tụng chính là tư tưởng chỉ đạo, định hướng hoạt động của các chủ thể thực
hiện các hoạt động TTHS. Trong một số nghiên cứu cịn nhìn nhận tranh tụng dưới

góc độ mơ hình tố tụng, theo đó sự thật khách quan của vụ án sẽ được xác định
thông qua hoạt động tranh tụng của các bên mà ở đó các bên sẽ tiến hành việc tranh
luận một cách tự do, bình đẳng với nhau.
Như vậy, xuất phát từ góc độ, mục đích nghiên cứu khác nhau sẽ có rất nhiều
cách hiểu về khái niệm của tranh tụng. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài về
“Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam”, với mục đích giải quyết vấn đề lý
luận xem tranh tụng có phải là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS hay không cũng
như đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng hiệu quả nguyên tắc này trong
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiếp cận khái niệm về tranh tụng ở góc
độ là một nguyên tắc của TTHS. Theo đó có thể hiểu : Nguyên tắc tranh tụng là
những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho hoạt động TTHS, tồn tại khách quan và chi
phối toàn bộ quá trình TTHS. Các bên tham gia tranh tụng theo luật định được bình
đẳng trong việc thu thập, đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu; được tranh luận bình
đẳng bằng lý lẽ, lập luận dựa trên chứng cứ, quy định của pháp luật nhằm thực
hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng gỡ tội, kết quả tranh tụng sẽ là cơ sở để
Tòa án với chức năng tài phán sẽ độc lập đưa ra phán quyết áp dụng pháp luật có
hiệu lực thi hành kết thúc q trình giải quyết vụ án.
Đặc điểm cơ bản của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về đặc điểm của nguyên tắc tranh
tụng. Tuy nhiên, đa số các quan điểm đều cho rằng, nguyên tắc tranh tụng mang đầy
đủ các đặc điểm của một nguyên tắc cơ bản của TTHS :
Thứ nhất, nguyên tắc tranh tụng tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý
chí chủ quan của con người.
Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chủ đạo và định hướng
cho hoạt động TTHS, có tính chi phối tồn bộ hoặc một số giai đoạn của quá trình
tố tụng hình sự ( bao gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử…).

Trang 10



NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng có tính ổn định cao, bởi lẽ nó phán ánh những
nguyên lý cơ bản nhất của quá trình TTHS.
Cụ thể :
Thứ nhất, tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý chí khách quan của nhà
làm luật của nguyên tắc tranh tụng là do bản chất của TTHS quy định. Tố tụng được
hiểu là “việc thưa kiện tại Tịa án nói chung” [46], TTHS là trình tự, thủ tục tiến
hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Dù là mơ hình tố tụng nào, thời đại
lịch sử nào đi chăng nữa thì trong TTHS ln ln tồn tại hai chức năng, chức năng
buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử trong mội quan hệ gắn bó, mật thiết
với nhau, “Hoạt động tố tụng hình sự từ cổ chí kim ln là hoạt động khơng tách
rời, gắn bó hữu cơ của ba chức năng: bộc tội, bào chữa, xét xử, sự tồn tại của chức
năng này tất yếu đòi hỏi sự tồn tại của chức năng kia, mỗi chức năng vận động và
tồn tại trong chừng mực tồn tại và vận động của chức năng còn lại” [36-tr.5]. Chính
sự tồn tại khách quan của hai chức năng bộc tội và bào chữa gỡ tội đã đòi hỏi phải
có sự đối lập về quan điểm, cần đối chất, tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể nhằm
bảo vệ cho quan điểm của mình cũng như phản bác quan điểm của bên đối lập. Như
vậy có thể khẳng định dù muốn hay không, hay trên thực tế các nhà làm luật đã có
ghi nhận hay chưa ghi nhận thì tranh tụng vẫn ln tồn tại trong TTHS với tính chất
là một thuộc tính khách quan của TTHS. Là tính chất mang tính khách quan của
TTHS nhưng việc bộc lộ, biểu hiện nguyên tắc tranh tụng như thế nào thì lại phụ
thuộc vào yếu tố chính trị, văn hóa, lịch sử, truyền thống, mơ hình tố tụng của mỗi
quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Như nước ta trong thời kỳ phong kiến, một
giai đoạn lịch sử mà ở đó quyền lợi của giai cấp thống trị và nhà nước ln là tối
thượng thì tranh tụng được thể hiện rất hạn chế, như các quan xử án “phải xét xử
công bằng, đúng pháp luật” – Điều 672 Luật Hồng Đức [40], “ các quan xét xử việc
hình ngục, việc nào phải để đối chất kỳ sau, mà lại trì trệ lâu ngày, khơng bắt hai

bên đối chất thì bị xử phạt, ngục lại bị xử phạt 80 trượng”- Điều 677 Bộ luật Hồng
Đức [40], “ những án xét vào tội nhẹ, những tình lý đáng ngờ, thì giao cho viện
Thẩm hình hội đồng bàn xét, hỏi tội nhân cho đến lúc nhận tội, nếu tội nhân không

Trang 11


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

chịu nhận tội thì cho phép được bào chữa rồi phán xét lại kỹ càng – Điều 691 Bộ
Luật Hồng Đức [40]. Trong các nhà nước hiện đại theo mơ hình Tố tụng thẩm vấn
như: Cộng hịa liên bang Đức, Cộng hịa Pháp đều có ghi nhận nhiều quy định thể
hiện rõ nguyên tắc tranh tụng, như các quy định về quyền được giữ im lặng, quyền
được tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa, quyền được tranh tụng bình đẳng
trước tịa của người bị tình nghi phạm tội, thậm chí một số quốc gia theo mơ hình tố
tụng thẩm vấn cịn đã cơng nhận tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản
của TTHS như BLTTHS năm 2001 của Liên bang Nga đã quy định tranh tụng là
một trong những nguyên tắc cơ bản tại điều 15. Còn trong những quốc gia theo mơ
hình tố tụng tranh tụng ( như Anh, Mỹ..) thì nguyên tắc tranh tụng được coi là tư
tưởng chủ đạo và xuyên suốt trong quá trình TTHS.
Thứ hai, tranh tụng là một trong những tư tưởng chủ đạo mang tính định
hướng các hoạt động của TTHS. Mục đích của TTHS là phát hiện và xử lý kịp thời,
nghiêm minh tội phạm, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vơ tội.
Trong khi đó tranh tụng lại là sự đấu tranh, phản bác, phủ định lẫn nhau giữa các
bên có quyền và lợi ích đối lập trong khn khổ của pháp luật dưới sự phân xử của
Tòa án. Như vậy muốn xét xử một cách cơng minh, chính xác đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật thì Tịa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng giữ các bên và các
chứng cứ khách quan thu thập trong quá trình tố tụng cả trước và tại phiên tòa. Theo

tinh thần của nghị quyết số 08-NQ/TWngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, trong các
chứng cứ đó thì tịa án lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán
quyết bản án và của Bộ Chính Trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động
đột phá của các cơ quan tư pháp…”. Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt
động tranh tụng đã được thể chế hóa ở Hiến pháp 2013. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến
pháp quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Trong các giai
đoạn tố tụng trước đó (điều tra, truy tố) thì tranh tụng lại đóng vai trị là phương
pháp hữu hiệu để thu thập, phân tích và đánh giá chứng cứ nhằm tìm ra sự thật

Trang 12


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

khách quan của vụ án, chỉ có tranh tụng mới tìm đến được chân lý. Như vậy tranh
tụng là một trong những tư tưởng chủ đạo của hoạt động TTHS. Tuy nhiên ở mỗi
giai đoạn tố tụng, mỗi mơ hình TTHS thì mực độ anh hưởng của tranh tụng là khác
nhau.
Như phân tích ở trên, tranh tụng là một trong những tư tưởng chủ đạo chi
phối, định hướng các hoạt động của quá trình TTHS. Tuy vậy, mức độ chi phối,
định hướng của tranh tụng lại phụ thuộc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi giai
đoạn lịch sử. Trong đó có thể thấy tranh tụng thể hiện tập trung nhất là trong giai
đoạn xét xử thơng qua hoạt động tranh luận tại phiên tịa. Chính vì vậy có nhiều ý
kiến đã cho rằng tranh tụng và tranh luận là một. Đó là luồng ý kiến khơng chính
xác, vì tranh tụng tồn tại trong suốt quá trình tố tụng, chi phối, định hướng cho cả
quá trình tố tụng, cịn tranh luận chỉ là một thủ tục diễn ra trong giai đoạn xét xử tại

tòa án, “tranh tụng và tranh luận có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau nhưng
tranh tụng không thống nhất với tranh luận. Mối quan hệ giữa tranh tụng và tranh
luận là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái toàn thể và cái bộ phận. Tranh
tụng là một q trình cịn tranh luận chỉ là một thủ tục độc lập của phiên tịa hình sự
sơ thẩm – phần thể hiện tập trung nhất, điển hình nhất của tranh tụng” [37-tr.59].
Thời điểm xuất hiện tranh tụng là thời điểm xuất hiện chức năng buộc tội,
hay đúng hơn là khi xuất hiện hai chức năng, chức năng buộc tội và chức năng gỡ
tội vì khi có sự xuất hiện của chức năng buộc tội nghĩa là khi phát hiện dấu hiệu của
tội phạm với việc tiến hành các hành vi tố tụng như : bắt người tình nghi, thực hiện
các biện pháp ngăn chặn, tạm giữ, tạm giam… thì khi đó chức năng giỡ tội sẽ xuất
hiện. Như một nhà nghiên cứu đã kết luận “ở đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ tội (bào
chữa)” [45-tr22].Tranh tụng kết thúc khi chức năng buộc tội kết thúc khi đó chức
năng gỡ tội cũng sẽ khơng cịn, được xác định là khi tòa án ra bản án giải quyết vụ
việc và bản án có hiệu lực pháp luật.
Trong mỗi giai đoạn tố tụng cụ thể thì biểu hiện của tranh tụng có sự khác
biệt rất đáng kể. Như trong giai đoạn điều tra, khi CQĐT tình nghi một ai đó đã
thực hiện một tội phạm, cũng chính là lúc xuất hiện chức năng buộc tội và chức

Trang 13


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

năng gỡ tội thì ở thời điểm này biểu hiện của tranh tụng cũng chỉ mới ở bước đầu.
Mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập (buộc tội và gỡ tội), sự phủ đinh lẫn nhau chưa thực
sự gay gắt và quyết liệt do thời điểm này các bên chỉ đang trong quá trình thu thập,
củng cố những chứng cứ, tranh tụng giữa các bên mới chỉ biểu hiện qua nhận thực
về việc thu thập chứng cứ của các bên. Thông qua việc đấu tranh phủ định các hành

vi của nhau trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn (bắt tam giữ, tam giam..),
lấy lời khai, đối chất. Có lẽ chính vì ở giai đoạn này mẫu thuẫn giữa các bên mới
chỉ ở bước đầu, chưa gay gắt quyết liệt đến mức phải có sự xuất hiện của một bên
thứ ba làm trọng tài phân xử của Tòa án.
Cho đến khi các bên đã trải qua thời gian thu thập chứng cứ, củng cố cho
những quan điểm của mình, cụ thể là khi đó chủ thể buộc tội đã có đủ chứng cứ
buộc tội và tự tin về các lập luận buộc tội của mình, hoặc ngược lại bên gỡ tội cũng
đã có những cơ sở chứng cứ vững chắc để phủ định quan điểm của bên buộc tội.
Khi đó mâu thuẫn giữa các bên đã được đẩy lên cao hơn cần có vai trị trọng tài của
Tịa án. Đây chính là giai đoạn trung tâm của tranh tụng , “sự xuất hiện của Tòa án
với vai trò trọng tài tại thủ tục tranh tụng của phiên tịa sơ thẩm là sự xác nhận q
trình tranh tụng đã lên đến đỉnh điểm đòi hỏi phải được trọng tài – Hội đồng xét xử
giải quyết” [37-tr.59]. Tranh tụng sẽ chấm dứt khi vụ án bị đình chỉ trong các giai
đoạn tố tụng trước đó, hoặc khi tranh tụng được đẩy lên đỉnh điểm và được giải
quyết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tịa an. Bắt nguồn từ việc tranh
tụng là yếu tố khách quan ln tồn tại trong hoạt động TTHS, có thể nói có hoạt
động TTHS là phải có sự xuất hiện của tranh tụng bất kể là các hoạt động TTHS đó
là của quốc gia nào, theo mơ hình tố tụng nào và ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào.
Thứ ba, chính vì ngun tắc tranh tụng là một trong những tư tưởng chỉ đạo,
định hướng các hoạt động tố tụng, chính vì vậy hệ quả tất yếu là sự tồn tại của nó sẽ
có tính ổn định cao phán ánh những nguyên lý cơ bản nhất của quá trình TTHS.
Tranh tụng, cụ thể hơn là việc thu tập chứng cứ, lập luận, phản biện để bảo vệ quan
điểm của mình là nhu cầu khách quan và cũng là lợi ích của các bên trong TTHS,
nhu cầu và lợi ích này đòi hỏi phải được đảm bảo. Tuy nhiên tùy theo pháp luật mỗi

Trang 14


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM


GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể cũng như tác động của các yếu tố về chính trị,
xã hội, truyền thống pháp lý… mà sự đảm bảo trên sẽ ở mức độ khác nhau. Như ở
Việt Nam pháp luật TTHS hiện hành có quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng có nghĩa
vụ chứng minh là mình vơ tội – điều 10 BLTTHS 2003, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa - điều 11 BLTTHS 2003.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của
họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tồ án. Tịa án
có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật
khách quan của vụ án – điều 19 BLTTHS 2003. Như vậy có thể thấy bắt nguồn từ
bản chất của hoạt động TTHS nên nguyên tắc tranh tụng sẽ tồn tại ổn định cùng với
sự tồn tại của hoạt động TTHS, “có Tố tụng hình sự là có tranh tụng”.
Nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng hình sự
Để có thể khẳng định ngun tắc tranh tụng là một trong những “nguyên tắc
cơ bản trong TTHS” cũng như đưa ra các biện pháp để đảm bảo việc thực hiện
nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam, chúng tơi sẽ tiếp tục phân tích đến các
nội dung cơ bản của nguyên tắc tranh tụng. Cụ thể:
Thứ nhất, trong nguyên tắc tranh tụng luôn xác định rõ chức năng buộc tội
và chức năng bào chữa. Theo đó, giữa các bên trong tranh tụng ln có sự đối
kháng, phủ định lẫn nhau thông qua các chứng cứ, lập luận mà các bên đưa ra để
bảo vệ cho quan điểm của mình cũng như phủ định quan điểm của bên kia. Tất
nhiên sự đối kháng và phủ định lẫn nhau của các bên được kiểm sốt bởi Tịa án và
trong sự cho phép của pháp luật. Buộc tội là một dạng hoạt động tố tố tụng hình sự
nhằm phát hiện, chứng minh những tội phạm. Theo đó chủ thể giữ chức năng buộc
tội có “niềm tin nội tâm” cho rằng một người nào đó đã thực hiện một hành vi phạm
tội và tiến hành thực hiện các hoạt động nhằm chứng minh và khẳng định điều đó.

Chức năng buộc tội là một chức năng cơ bản của TTHS, sự tồn tại của chức năng

Trang 15


NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

GVHD: TS. LÊ NGUYÊN THANH

buộc tội là yếu tố quyết định cho sự tồn tại của chức năng bào chữa. Chức năng gỡ
tội (bào chữa) cũng là một dạng hoạt động của tố tụng hình sự được pháp luật bảo
đảm cho người bị buộc tội có khả năng tự mình hoặc nhờ người khác đưa ra các
chứng cứ, lập luận nhằm bác bỏ cáo buộc phạm tội hay ít nhất cũng làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội của mình. Như vậy khi phát hiện giả thiết
có người thực hiện hành vì phạm tội thì chủ thể buộc tội phải có nghĩa vụ tìm kiếm
các chứng cứ để chứng minh và khẳng định cho giả thiết trên và chủ thể gỡ tội có
quyền nhưng khơng có nghĩa vụ chứng minh mình vơ tội.
Thứ hai, ngun tắc tranh tụng có sự phân định rành mạch giữa các loại chủ
thể theo chức năng cơ bản của tranh tụng (chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội,
chức năng xét xử..). Chủ thể buộc tội trong pháp luật tố tụng của hầu hết các nước
đều là Cơ quan công tố là cơ quan đại diện cho nhà nước để thực hiện chức năng
buộc tội, tìm ra những hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi
ích của xã hội ngồi ra trong một số giai đoạn bên buộc tội cịn có thể là CQĐT;
người bị hại trọng vụ án, đặc biệt là trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại. Bên gỡ tội (bào chữa) có thể là chính bị can, bị cáo tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa .Trong khi đó Tịa án là cơ quan đóng vai trò trọng tài
phân xử, giải quyết mâu thuẫn giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trên cơ sở các quy
định của pháp luật. Vì vậy yêu cầu đầu tiên là Tịa án khi xét xử độc lập, khơng bị lệ
thuộc vào bất cứ cá nhân tố chức nào, Tòa án phải xét xử trên nguyên tắc độc lập
chỉ tuân theo pháp luật (Khoản 2 điểu 103 Hiến Pháp 2013), dựa vào kết quả tranh

luận , chứng cứ của các bên và lấy đó làm căn cứ cho việc đưa ra phán quyết. “Tịa
án có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhưng Tịa án thực hiện nhiệm vụ đó thơng qua
chức năng xét xử, Tịa án khơng phải là người truy tố bị cáo nên Tịa án khơng có
nghĩa vụ chứng minh tội phạm” [45-tr.78].
Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng địi hỏi phải có sự bình đẳng trong việc thực
hiện các hoạt động giữa bên buộc tội và bên gỡ trong quá trình tố tụng, đây là một
yêu cầu tiên quyết và bắt buộc. Bỡi lẽ nếu khơng có bình đẳng thì khơng bao giờ
tồn tại “tranh tụng”, chính sự bình đẳng sẽ làm cho hai bên có đủ khả năng, điều

Trang 16


×