Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

TẠ PHƢƠNG LOAN

NHỮNG TRƢỜNG HỢP
LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2013 – 2017

Giảng viên hƣớng dẫn: THẠC SĨ MAI KHẮC PHÚC
Sinh viên thực hiện: Tạ Phƣơng Loan
Lớp: 40 – HS38A
MSSV: 1353801013104

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015” là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của Ths. Mai Khắc Phúc – Giảng viên Khoa Luật Hình
sự.
Khóa luận sử dụng những nhận xét, đánh giá của các tác giả khác đều có
trích dẫn đầy đủ và chú thích nguồn gốc.
Kết quả nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp này là trung thực và chưa
từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Số liệu thể hiện trong khóa luận tốt
nghiệp là hồn tồn trung thực.


Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước Nhà trường về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 7 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Tạ Phương Loan


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến tồn thể Q Thầy, Cơ của trường Đại
học Luật TP. HCM đã tận tình dìu dắt, giảng dạy từ lý luận đến thực tiễn, từ những bài
học đến những câu chuyện về cuộc sống nhằm truyền đạt những kiến thức bổ ích cho
sinh viên chúng em. Kiến thức có được trong suốt 4 năm học chính là nền tảng quan
trọng giúp cho em hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin cảm ơn Thư viện trường Đại học Luật TP. HCM đã cung cấp nguồn tài
liệu phong phú, đa dạng và tạo điều kiện thuận lợi trong suốt q trình em thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Thầy Mai Khắc Phúc – Thạc sĩ, Giảng viên
khoa Luật Hình sự đã tận tình định hướng, truyền đạt những kiến thức, những quan
điểm, giúp em sửa chữa và hồn thành khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất.
Ngoài ra, em xin gửi lời cảm ơn đến Thầy Cơ Khoa Luật Hình sự, Phịng cơng
tác chính trị - sinh viên trường Đại học Luật TP. HCM, Quý cơ quan Tòa án, Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hịa, Tồn án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho em để thu thập số liệu liên quan đến khóa luận. Cuối cùng,
em cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm và động viên trong suốt q trình thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
Do kiến thức và kỹ năng nghiên cứu cịn hạn chế nên khóa luận tốt nghiệp khó
tránh khỏi những sai sót, vì vậy em mong nhận được ý kiến đóng góp từ Thầy Cơ và
bạn bè khi tham khảo khóa luận này.
Sinh viên thực hiện,
Tạ Phƣơng Loan



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

QTHL

: Quốc triều Hình luật

HVLL

: Hồng Việt luật lệ

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM ........................................................................................................................... 1
1.1.

Khái quát chung về tội phạm ........................................................................ 1

1.1.1. Khái niệm tội phạm...................................................................................... 1
1.1.2. Đặc điểm của tội phạm ................................................................................ 2
1.1.3. Các yếu tố của tội phạm ............................................................................... 5
1.2.

Khái quát chung về trách nhiệm hình sự..................................................... 7

1.2.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự .................................................................... 7
1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự............................................................... 8
1.2.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự..................................................................... 9
1.3.

Khái quát chung về những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự .... 11

1.3.1. Khái niệm về loại trừ TNHS ...................................................................... 11
1.3.2. Cơ sở của việc quy định các trường hợp loại trừ TNHS ........................... 13
1.3.3. Đặc điểm của những trường hợp loại trừ TNHS ....................................... 13
1.3.4. Phân biệt loại trừ TNHS với miễn TNHS.................................................. 14
1.4.


Sơ lƣợc quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về những trƣờng hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự ....................................................................... 16

1.4.1. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến........................................ 16
1.4.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 tới trước khi có BLHS
năm 1985 .................................................................................................... 18
1.4.3. Giai đoạn từ khi có BLHS 1985 đến nay ................................................... 20
1.5.

Pháp luật một số nƣớc trên Thế giới về những trƣờng hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự ............................................................................................... 23

1.5.1. BLHS Pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung gần nhất vào ngày 4/11/2011) .. 23


1.5.2. BLHS của Liên Bang Nga năm 1996 (sửa đổi, bổ sung gần nhất vào ngày
5/4/2013) .................................................................................................... 25
1.5.3. BLHS Ucraina năm 2001(sửa đổi bổ sung gần nhất vào ngày 18/9/2012)27
1.5.4. Bộ luật Hình sự nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa năm 1997 (sửa đổi,
bổ sung gần nhất vào ngày 28/02/2005) .................................................... 29
CHƢƠNG 2: CÁC TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BLHS 2015 – NỘI DUNG QUY ĐỊNH, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ
ĐỊNH HƢỚNG HỒN THIỆN ............................................................................. 32
2.1.

Nhóm những trƣờng hợp loại trừ TNHS đƣợc quy định trong chƣơng
IV ................................................................................................................... 33

2.1.1 Sự kiện bất ngờ (Điều 20) .......................................................................... 33

2.1.2 Tình trạng khơng có năng lực TNHS (Điều 21) ........................................ 35
2.1.3 Phịng vệ chính đáng (Điều 22) ................................................................. 38
2.1.4 Tình thế cấp thiết (Điều 23) ....................................................................... 42
2.1.5 Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24) ......................... 46
2.1.6 Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ (Điều 25) .............................................................................. 48
2.1.7 Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26) ........ 50
2.2.

Nhóm những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khác .................. 53

2.2.1 Tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể (khoản 2 Điều 8) ............ 53
2.2.2 Người chưa đủ tuổi chịu TNHS ................................................................. 53
2.2.3 Chuẩn bị phạm tội ngoài trường hợp luật định .......................................... 55
2.2.4 Hành vi thái quá (vượt quá) của người thực hành (khoản 4 Điều 17) ....... 56
2.2.5 Che giấu tội phạm ngoài trường hợp luật định (Điều 18, Điều 389 BLHS
2015) .......................................................................................................... 57
2.2.6 Không tố giác tội phạm ngoài trường hợp luật định (Điều 19, Điều 390
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung tương ứng bởi điểm a khoản 2 Điều 2,
khoản 102 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS) ............ 58


2.2.7 Người bị ép buộc đưa hối lộ (khoản 7 Điều 364) ...................................... 60
2.3.

Thực tiễn áp dụng và định hƣớng hoàn thiện chế định những trƣờng
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự ................................................................ 60

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo luật Hình sự Việt Nam, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, và
“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự”. (khoản 1 Điều 2 BLHS năm 2015)
Như vậy, trách nhiệm hình sự – một dạng của trách nhiệm pháp lý sẽ được
đặt ra khi một người có đầy đủ các yếu tố về mặt chủ thể (có năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS), đồng thời đáp ứng được cơ sở và điều kiện của TNHS thực hiện
hành vi được quy định trong BLHS. Tuy nhiên trên thực tế, có những hành vi về
mặt hình thức có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội cụ thể được quy
định trong phần các tội phạm của BLHS, nhưng hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý
hình sự lại chứa đựng các căn cứ hợp pháp làm loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, loại trừ tính trái pháp luật hình sự, hay nói cách khác là loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi. Khi tính chất tội phạm của hành vi được loại trừ thì chủ
thể thực hiện hành vi gây thiệt hại sẽ không phải chịu TNHS.
Vấn đề loại trừ TNHS sớm đã đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự nước
ta. Đánh dấu cho sự ra đời của chế định các trường hợp loại trừ TNHS là Chỉ thị số
07/HS-2 ngày 22/12/1983 của Tòa án nhân dân tối cao về việc chỉ đạo Tòa án các
cấp thống nhất xét xử hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của người khác do
vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Chỉ thị này
đã hướng dẫn một cách cụ thể các hành vi được xác định là phòng vệ chính đáng.
Trong lần pháp điển hóa đầu tiên (BLHS năm 1985) đã có 04 trường hợp được quy
định là loại trừ TNHS, gồm có: Sự kiện bất ngờ, tình trạng khơng có năng lực
TNHS, phịng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết nằm trong chương Tội phạm
(chương III). Các trường hợp này tiếp tục được ghi nhận tại chương Tội phạm
(chương III) của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Kế thừa quy định
của hai Bộ luật trên, BLHS 2015 tiếp tục ghi nhận, đồng thời bổ sung thêm 03
trường hợp và hoàn thiện trong một chương riêng gồm 07 điều (chương IV – Những

trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự). Có thể khẳng định, loại trừ TNHS là một


trong những chế định hết sức quan trọng đối với pháp luật hình sự, bởi nó chính là
những căn cứ pháp lý để xác định ranh giới giữa phạm tội và không phạm tội, bảo
đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được quy định tại khoản 1 Điều 8 Hiến
pháp năm 2013 của Việt Nam.
Mặc dù vậy, quá trình áp dụng quy định về những trường hợp loại trừ TNHS
từ BLHS 1985 đến nay cho thấy các quy định này chưa thật sự chặt chẽ và đầy đủ.
Bên cạnh đó, ngồi hướng dẫn về trường hợp Phịng vệ chính đáng tại Nghị quyết
số 02/HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLHS 1985 thì các trường hợp cịn lại vẫn bỏ ngỏ. Điều này khơng chỉ gây khó
khăn trong việc nhận thức và áp dụng một cách thống nhất, minh bạch, rõ ràng
những trường hợp loại trừ TNHS cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán.
Thực trạng này đã làm cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân giảm
hiệu quả. Đặc biệt, vì chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về ranh giới giữa tội phạm
và không phải là tội phạm nên có những người dân đã thực hiện hành vi phạm tội
trong trạng thái sai lầm về pháp luật hoặc khơng tích cực tham gia đấu tranh phịng
chống tội phạm, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích
của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức.
Vì vậy, việc nghiên cứu quy định về Những trường hợp loại trừ trách nhiệm
hình sự trong BLHS Việt Nam năm 2015 là thực sự cần thiết để góp phần hồn thiện
và phát triển hơn nữa chế định này, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ mà BLHS đã đặt
ra.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, người viết thấy rằng có rất nhiều tài liệu
về chế định những trường hợp loại trừ TNHS, điển hình như: “Các nghiên cứu
chuyên khảo về phần chung Luật hình sự” của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lê Văn
Cảm, “Bình luận khoa học về loại trừ trách nhiệm hình sự: Bình luận chun sâu
có viện dẫn các vụ án đã xét xử” của nguyên Chánh tòa Hình sự TAND tối cao –

Đinh Văn Quế hay các bài viết đăng trên tạp chí Luật học, tạp chí TAND, Nghiên
cứu lập pháp của một số tác giả khác như Tiến sĩ Trịnh Tiến Việt với “Những đề


xuất bổ sung các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự mới vào Bộ luật hình sự
Việt Nam góp phần đầu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người”,
Tiến sĩ Nguyễn Tuyết Mai với “Hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh với “Một số điểm mới quy
định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm
2015”, Thanh tra VKSND thành phố Hà Nội với “Quy định mới về chế định loại
trừ TNHS và chế định hình phạt của BLHS năm 2015”, v.v… Với hình thức khóa
luận tốt nghiệp, trong trường hiện nay chỉ có 2 đề tài nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Trường Sơn (năm 2000) và Nguyễn Ngọc Tiên (năm 2002).
Hầu hết những tài liệu người viết tham khảo đều nghiên cứu dựa trên BLHS
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và đề xuất bổ sung những trường hợp có giá trị
thực tiễn.Bên cạnh đó cũng có một số tài liệu nghiên cứu dựa trên BLHS 2015
nhưng chưa có sự phân tích sâu về khái niệm, căn cứ và điều kiện áp dụng của
những trường hợp mới được bổ sung vào BLHS 2015. Do đó có thể nói cho đến nay
chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện, tổng thể về những trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Với kiến thức của bản thân kết hợp tham khảo
những tài liệu của nhiều tác giả đi trước, người viết thực hiện khóa luận tốt nghiệp
nghiên cứu chuyên sâu về “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong
BLHS Việt Nam năm 2015”.
3. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu quy định về những trường hợp loại trừ TNHS
trong BLHS Việt Nam năm 2015, người viết muốn xây dựng quan điểm nhận thức
đầy đủ, chi tiết về hệ thống những trường hợp loại trừ TNHS, qua đó thấy được ý
nghĩa, tầm quan trọng của chế định này trong việc pháp luật hình sự Việt Nam. Bên
cạnh đó, trên cơ sở thực tiễn áp dụng và tham khảo nội dung quy định một số nước
trên thế giới, người viết đề xuất nên bổ sung, hoàn thiện quy định về những trường

hợp loại trừ TNHS trong BLHS, đồng thời phải có hướng dẫn áp dụng một cách cụ
thể, chi tiết nhằm giúp Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có thể xác dịnh dễ


dàng hành vi nào không phải là tội phạm, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là những trường hợp loại trừ
TNHS trong BLHS Việt Nam năm 2015, do đó người viết tập trung nghiên cứu
những vấn đề về cơ sở lý luận của việc quy định cũng như khái niệm, điều kiện áp
dụng của những trường hợp loại trừ TNHS theo quy định của BLHS 2015; tìm hiểu
nội dung quy định của chế định này trong pháp luật hình sự một số nước trên thế
giới và vấn đề thực tiễn áp dụng của những trường hợp đã quy định trong BLHS
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và được BLHS 2015 thừa kế. Chính vì vậy mà
phạm vi nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp được giới hạn trong những trường hợp
được quy định trong Chương IV và những trường hợp khác quy định tại Phần chung
và Phần các tội phạm của BLHS, cụ thể:
-

Sự kiện bất ngờ;

-

Tình trạng khơng có năng lực TNHS;

-

Phịng vệ chính đáng;

-


Tình thế cấp thiết;

-

Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội;

-

Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ

thuật và công nghệ;
-

Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên;

-

Tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể;

-

Người chưa đủ tuổi chịu TNHS;

-

Chuẩn bị phạm tội ngoài trường hợp luật định;

-


Hành vi thái quá (vượt quá) của người thực hành;

-

Chê giấu tội phạm ngồi trường hợp luật định;

-

Khơng tố giác tội phạm ngồi trường hợp luật định;

-

Người bị ép buộc đưa hối lộ.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu


Để hồn thành khóa luận, người viết sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, xuyên suốt là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng để tìm hiểu về sự hình thành và phát triển quy định về những trường hợp loại
trừ TNHS trong Luật Hình sự Việt Nam.
Ngoài ra, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, so
sánh, tổng hợp để tìm hiểu quan điểm của những nhà nghiên cứu, luật gia Việt Nam,
qua đó người viết có thể nhận thức đúng đắn về chế định đang nghiên cứu; phương
pháp điển hình, chọn lọc để tìm hiểu quy định về những trường hợp loại trừ TNHS
của một số nước trên thế giới nhằm đề nghị áp dụng có chọn lọc cho phù hợp với
pháp luật Việt Nam.
6. Bố cục của đề tài
Ngồi lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu, nội dung khóa luận có cấu
trúc gồm 2 chương:

Chương 1: Lý luận chung về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình
sự năm 2015 – Nội dung quy định, thực tiễn áp dụng và định hướng hoàn thiện.


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1.

Khái quát chung về tội phạm
1.1.1.

Khái niệm tội phạm

Điều 8 BLHS 2015 đã đưa ra định nghĩa về tội phạm như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự”.
Định nghĩa tội phạm của BLHS 2015 đã có một sự thay đổi so với quy định
của các BLHS trước đây, đó là bổ sung “pháp nhân thương mại” là chủ thể của tội
phạm. Trước tình hình hành vi nguy hiểm cho xã hội của pháp nhân thương mại
ngày càng gia tăng và phức tạp, cùng với xu thế chung của các nước trên thế giới và
để nội luật hóa những cam kết quốc tế, việc điều chỉnh này là thật sự cấp thiết trong

giai đoạn hiện nay. Ngoài việc xác định chủ thể của tội phạm, định nghĩa cịn phản
ánh dấu hiệu nội dung của tội phạm, đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái
pháp luật hình sự và phải bị xử lý hình sự. Bên cạnh đó, trong định nghĩa về tội
phạm, các nhà làm luật đã liệt kê các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ mà
tội phạm có thể xâm hại. Định nghĩa thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước về tội
phạm, là cơ sở để xác định những hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội, bị coi là tội
phạm và phải bị xử lý hình sự khi xâm hại đến các quan hệ xã hội được liệt kê.

1


1.1.2.

Đặc điểm của tội phạm

Qua định nghĩa về tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 thì có thể
thấy hành vi bị coi là tội phạm có các đặc điểm (dấu hiệu) sau:
-

Tính nguy hiểm cho xã hội

Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản, đầu tiên, quan
trọng nhất trong các dấu hiệu của tội phạm. Bởi lẽ, chỉ khi người (pháp nhân thương
mại) thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì mới bị pháp luật hình sự quy định
là tội phạm. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải đáng kể, vì theo
khoản 2 Điều 8 BLHS 2015 thì “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và
được xử lý bằng biện pháp khác”.
Hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, tức hành vi đó phải gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, cụ thể là độc

lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân; những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Hành vi không gây thiệt hại hoặc
không đe dọa gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội kể trên thì khơng bị coi là tội
phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là một thuộc tính khách quan, bởi lẽ
việc xác định hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của các nhà làm luật mà phải căn cứ vào các yếu tố khách quan. Đó có thể là:
+

Tầm quan trọng của quan hệ xã hội mà Luật Hình sự bảo vệ;

+

Mức độ thiệt hại về vật chất, tinh thần mà tội phạm gây ra;

+

Phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm;

+

Tính chất và mức độ lỗi;

+

Động cơ, mục đích phạm tội;

+


Hồn cảnh chính trị, xã hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra;

+

Nhân thân người phạm tội;

2


+
-

Những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS khác.
Tính trái pháp luật hình sự

Nếu như tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu về mặt nội dung
của tội phạm thì tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt hình thức của tội
phạm. Nếu hành vi thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa được quy định
trong BLHS thì hành vi ấy không phải là tội phạm, ngược lại, nếu hành vi đã được
quy định trong BLHS nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi khơng đáng kể
thì cũng không phải là tội phạm. Dấu hiệu “được quy định trong BLHS” chính là sự
thừa nhận nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn về nhân quyền
của Liên hợp quốc: “Không ai bị xét xử về một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp
luật quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm”. Không chỉ ghi nhận ở Điều 8, dấu
hiệu này còn thể hiện tại Điều 2, theo đó chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quy định, chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội tại Điều 76 của BLHS
mới phải chịu TNHS, và ở khoản 2 Điều 7: “Điều luật quy định một tội phạm mới,
một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng
án treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và

các quy định khác khơng có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với
hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.” Việc
khẳng định tính trái pháp luật hình sự là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế,
tránh tùy tiện trong việc xác định tội phạm và áp dụng các biện pháp xử lý, đồng
thời thúc đẩy các nhà lập pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung các điều luật trước những
thay đổi của tình hình tội phạm.
-

Tính có lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý của người (pháp nhân thương mại) phạm tội đối với
hành vi của mình và hậu quả mà hành vi đó gây ra, biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vơ ý, thể hiện sự phủ định các yêu cầu của xã hội. Hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội bị coi là có lỗi nếu khi thực hiện hành vi, người (pháp nhân thương mại) có
đủ điều kiện và khả năng để quyết định thực hiện những xử sự phù hợp với yêu cầu

3


của xã hội nhưng họ đã quyết định lựa chọn hành vi đi ngược lại với những yêu cầu
ấy.
Dấu hiệu lỗi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định tội phạm, là dấu
hiệu cơ bản của tất cả các cấu thành tội phạm, bởi vì có những trường hợp tuy hành
vi gây thiệt hại đáng kể cho xã hội nhưng chủ thể của hành vi khơng có lỗi, chẳng
hạn như do sự kiện bất ngờ thì khơng bị coi là tội phạm. Bên cạnh đó, xuất phát từ
mục đích của việc áp dụng hình phạt ngồi trừng trị người (pháp nhân thương mại)
phạm tội cịn có mục đích giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống, phòng ngừa tội phạm xảy ra mà BLHS nhấn mạnh ngun tắc có lỗi.
Mục đích giáo dục chỉ có thể đạt được khi hình phạt được áp dụng đối với người
(pháp nhân thương mại) có lỗi.

-

Do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện

Năng lực TNHS là điều kiện tiền đề để xác định tính có lỗi của hành vi.
Người có năng lực TNHS là người có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi và điều khiển được hành vi tại thời điểm thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Cùng với năng lực TNHS, tuổi chịu TNHS cũng là dấu hiệu thuộc
về mặt chủ thể của tội phạm. Theo đó, nếu một người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhưng chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật thì
người này khơng phải chịu TNHS. Năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS là điều kiện
cần và đủ để xác định chủ thể của tội phạm.
Mặc dù BLHS 2015 xác định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội
phạm nhưng thực chất thì TNHS của pháp nhân thương mại là TNHS đối với hành
vi của con người thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại, vì lợi ích của pháp
nhân thương mại và có sự điều hành, chỉ đạo hoặc chấp thuận của pháp nhân
thương mại. Do đó, suy cho cùng thì hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của pháp
nhân thương mại là do cá nhân thực hiện, vì vậy vấn đề năng lực TNHS và tuổi chịu
TNHS chỉ cần xác định ở phạm vi con người.

4


-

Tính phải bị xử lý hình sự

Một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và bị BLHS quy định là tội phạm thì
phải bị xử lý hình sự. Đây là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và
tính trái pháp luật hình sự. Xử lý hình sự là biện pháp răn đe, phịng ngừa nghiêm

khắc nhất đối với người (pháp nhân thương mại) phạm tội. Đặc điểm“bị xử lý hình
sự” là sự bổ sung mới vào Điều 8 của BLHS 2015. Vì trước đây chưa được quy
định trong BLHS nên khoa học pháp lý hình sự có hai quan điểm về “tính phải chịu
hình phạt” của tội phạm. Theo quan điểm của người viết, đặc điểm “xử lý hình sự”
sẽ bao quát hơn đặc điểm “phải chịu hình phạt”, thống nhất hai quan điểm theo cách
hiểu, bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa phải chịu sự truy cứu TNHS,
bị kết tội, chịu các biện pháp cưỡng chế, trong đó có hình phạt và chịu mang án tích
nhưng do đáp ứng những điều kiện được quy định trong BLHS nên với những hành
vi phạm tội khác nhau, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi khác nhau thì mức độ
xử lý hình sự khác nhau, có thể phải chịu hình phạt hoặc có thể khơng phải chịu
hình phạt do được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành
hình phạt.
1.1.3.

Các yếu tố của tội phạm

Trên thực tế, biểu hiện của tội phạm hết sức đa dạng và phong phú, mỗi tội
phạm đều có những đặc điểm riêng nhưng khi xét về mặt cấu trúc, dù là loại tội
phạm gì thì đều được hợp thành bởi bốn yếu tố. Đây là những yếu tố có quan hệ mật
thiết với nhau, khơng tách rời nhau nhưng có thể nghiên cứu độc lập với nhau. Theo
khoa học Luật Hình sự Việt Nam thì đó là những yếu tố: khách thể của tội phạm,
mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm.
-

Khách thể của tội phạm: là những quan hệ xã hội được Luật hình sự

bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, đó là các quan hệ xã hội được liệt kê tại Điều 8
BLHS 2015. Bất kì hành vi phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Nếu khơng có sự xâm


5


hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ thì hành vi khách quan khơng
có tính nguy hiểm cho xã hội và vì vậy khơng bị coi là tội phạm.
-

Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện ra bên ngoài của

hành vi phạm tội, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Ngồi ra cịn có những biểu
hiện khác như công cụ, phương tiện sử dụng, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh xảy ra
hành vi khách quan… Tội phạm cụ thể nào cũng có biểu hiện về mặt khách quan và
thường được mô tả trong các quy phạm quy định về tội phạm cụ thể.
-

Mặt chủ quan của tội phạm: là mặt bên trong của tội phạm, là những

biểu hiện về mặt tâm lý, bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong đó, lỗi là
yếu tố quan trọng bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm, là dấu hiệu cơ bản
để xác định tội phạm vì nếu có hành vi gây thiệt hại nhưng chủ thể thực hiện khơng
có lỗi thì khơng bị coi là tội phạm. Hành vi phạm tội có những động cơ thúc đẩy và
mục đích thực hiện khác nhau nhưng yếu tố động cơ phạm tội, mục đích phạm tội
không phải là những dấu hiệu bắt buộc phải có ở tất cả các tội phạm.
-

Chủ thể của tội phạm: theo quy định của BLHS 2015 thì chủ thể của

tội phạm bao gồm con người và pháp nhân thương mại. Như đã phân tích ở trên,
hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại thực chất là hành vi của con người và

cũng phải là người có năng lực TNHS, tức người có năng lực nhận thức và năng lực
điều khiển hành vi của mình, và phải đạt độ tuổi chịu TNHS. Ngồi ra thì trong một
số cấu thành tội phạm cụ thể còn đòi hỏi chủ thể phải có dấu hiệu khác, đó là dấu
hiệu chủ thể đặc biệt mà chỉ khi có các dấu hiệu này mới trở thành chủ thể của tội
phạm tương ứng, chẳng hạn như chủ thể của các tội tham ô (Điều 353), tội nhận hối
lộ (Điều 354)… phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Tóm lại, tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ
quan, do con người cụ thể thực hiện và xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật
Hình sự bảo vệ. Là sự thống nhất của bốn yếu tố nhưng ở mỗi tội phạm cụ thể, nội
dung biểu hiện của những yếu tố là khác nhau, phản ánh tính chất và mức độ nguy

6


hiểm cho xã hội khác nhau và tổng hợp của tất cả bốn yếu tố sẽ cùng quyết định
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
1.2.

Khái quát chung về trách nhiệm hình sự
1.2.1.

Khái niệm trách nhiệm hình sự

Theo Từ điển Luật học, trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm
tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Trách
nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác
động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án
tích [35-tr.801].
Trong khoa học luật Hình sự Việt Nam vẫn tồn tại nhiều khái niệm khác

nhau về trách nhiệm hình sự:
Theo GS. TSKH Lê Văn Cảm, “TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định”[4-tr.122].
GS. TSKH Đào Trí Úc viết: “TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội,
thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước
Nhà nước”[34-tr.41].
Cịn theo TS. Trịnh Tiến Việt, “TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý
và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự
quy định đối với người phạm tội”[40-tr.106].
Khái quát chung thì TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả
pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở trách nhiệm của người phạm tội hoặc của pháp
nhân thương mại phạm tội trước Nhà nước, phải chịu những tác động pháp lý bất
lợi được quy định trong Luật hình sự do Tịa án áp dụng theo một trình tự tố tụng
nhất định.

7


1.2.2.
-

Đặc điểm của trách nhiệm hình sự
TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm

TNHS đối với một hành vi phạm tội tồn tại không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của người áp dụng pháp luật mà chính việc thực hiện hành vi thỏa mãn các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, tức hành vi bị
luật hình sự coi là tội phạm đã làm phát sinh TNHS.

-

TNHS là một dạng trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các trách

nhiệm pháp lý
Không như các dạng trách nhiệm pháp lý khác như trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, TNHS là trách nhiệm nghiêm khắc nhất
của Nhà nước đối với hành vi phạm tội, thể hiện ở chỗ người (pháp nhân thương
mại) phạm tội phải chịu hình phạt – biện pháp cưỡng chế nhằm tước bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của người (pháp nhân thương mại) phạm tội. Đó có thể là quyền
về tài sản, quyền tự do, quyền chính trị, quyền kinh doanh và thậm chí là quyền
sống của người phạm tội, quyền tồn tại của pháp nhân thương mại phạm tội. Ngoài
ra, người (pháp nhân thương mại) bị kết tội có thể phải mang án tích – điều kiện để
xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong vụ án hình sự và cịn là dấu hiệu định
tội đối với một số tội phạm cụ thể.
-

TNHS là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội hoặc của pháp

nhân thương mại phạm tội trước Nhà nước
Quan hệ pháp luật hình sự là một loại quan hệ xã hội đặc biệt, phát sinh giữa
nhà nước và người (pháp nhân thương mại) phạm tội khi có sự kiện phạm tội xảy
ra. Vì vậy, chính chủ thể thực hiện hành vi phạm tội chứ khơng phải là người thân
thích của họ hay một người nào khác phải chịu TNHS trước Nhà nước. Mặt khác,
TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ
không phải đối với cá nhân hoặc tổ chức đã bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại.

8



-

TNHS được xác định bằng trình tự đặc biệt được quy định trong Luật

tố tụng hình sự
Chỉ có Nhà nước, thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng mới có thẩm
quyền xác định TNHS đối với người (pháp nhân thương mại) phạm tội. Việc xác
định TNHS phải tuân theo một trình tự , thủ tục chặt chẽ được quy định trong Luật
tố tụng hình sự nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người (pháp nhân
thương mại), tránh việc bỏ lọt tội phạm, làm oan người (pháp nhân thương mại) vô
tội.
-

TNHS được phản ánh trong bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp

luật của Tịa án.
Kết quả của quy trình xác định TNHS theo Luật tố tụng hình sự của các cơ
quan tiến hành tố tụng được phản ánh trong phán quyết kết tội của Tịa án. Bản án
hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thể hiện sự lên án của Nhà nước
đối với hành vi phạm tội và người (pháp nhân thương mại) phạm tội. “TNHS phát
sinh khi một tội phạm được thực hiện. TNHS được thực hiện kể từ khi bản án kết tội
có hiệu lực và được đưa ra thi hành. TNHS chấm dứt khi khơng cịn những tác động
pháp lý về hình sự bất lợi đối với người (pháp nhân thương mại) phạm tội. Trong
thực tiễn, TNHS chấm dứt khi người (pháp nhân thương mại) phạm tội được miễn
TNHS hoặc được xóa án tích.” [32-tr.253, 254]
1.2.3.

Cơ sở của trách nhiệm hình sự

Cơ sở của TNHS là những nền tảng mà dựa vào đó, Nhà nước buộc một

người (pháp nhân thương mại) phải chịu TNHS về tội phạm mà họ đã thực hiện.
Tìm hiểu về cơ sở của TNHS trong khoa học pháp lý hình sự là tìm hiểu về cơ sở
triết học và cơ sở pháp lý của TNHS.


Cơ sở triết học

9


Triết học nghiên cứu những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới
quan và vị trí của con người trong thế giới quan. Trong đó, triết học Mác – Lênin
khẳng định tất yếu và tự do là những phạm trù biểu hiện mối quan hệ qua lại giữa
các quy luật khách quan và hoạt động của con người. Nhận thức được mối quan hệ
giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người giúp làm sáng tỏ được cơ
sở triết học của TNHS.
Tất yếu là những mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật, tính khơng tránh
khỏi và nhất thiết phải xảy ra của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Hành vi của con người có tính tất yếu, nghĩa là hành vi của con người được hình
thành, tồn tại và thay đổi tuân theo những quy luật khách quan, là kết quả của sự tác
động qua lại của các điều kiện tự nhiên và xã hội. Lý trí, ý chí và hoạt động của con
người đều chịu sự tác động của hoàn cảnh khách quan, biểu hiện hành vi của con
người trong tình huống cụ thể suy cho cùng là do điều kiện khách quan quy định.
Tuy nhiên, điều này khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa sự tác động của hoàn cảnh bên
ngoài mà phủ nhận sự độc lập trong ý thức của con người. Hành vi của mỗi người
chính là kết quả của năng lực nhận thức và sự tự lựa chọn hành vi của chủ thể. Do
đó, cùng một tình huống xảy ra, cùng chịu sự tác động như nhau của hoàn cảnh
khách quan nhưng mỗi người sẽ có xử sự khác nhau, đó là sự tự do ý chí.
Dưới góc độ triết học, tự do là khả năng, năng lực của con người tự quyết
định hành động trên cơ sở nhận thức đúng tính tất yếu khách quan. Tính tự do của

hành vi của con người thể hiện ở chỗ, tuy chịu sự chi phối của các quy luật khách
quan nhưng con người vẫn có khả năng nhận thức được kết quả hành vi của mình
và quyết định lựa chọn thực hiện hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Con
người khi đã có khả năng và điều kiện để lựa chọn là con người có tự do ý chí. Với
sự tự do ý chí, nếu con người lựa chọn thực hiện những hành vi trái pháp luật trong
khi có đủ điều kiện, khả năng để có những xử sự khác phù hợp với địi hỏi của xã
hội thì Nhà nước, thơng qua các cơ quan có thẩm quyền buộc họ phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Như vậy, vấn đề quy kết TNHS chỉ được đặt ra đối với
người có tự do ý chí.

10




Cơ sở pháp lý

Cơ sở pháp lý chính là những căn cứ pháp lý mà dựa vào đó Nhà nước xác
định TNHS đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Cơ sở pháp lý của TNHS
được thể hiện thông qua quy định tại Điều 2 BLHS 2015:
“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự.
2.Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76
của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Theo quy định này, để kết luận hành vi của người (pháp nhân thương mại) đã
thực hiện là tội phạm và phải chịu TNHS thì cần phải xác định hành vi đó thỏa mãn
các dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Tập hợp các dấu hiệu
luật định đặc trưng cho một tội phạm cụ thể được gọi là cấu thành tội phạm. Như
vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ để xác
định tội phạm và TNHS đối với người (pháp nhân thương mại) phạm tội.

Như vậy, nghiên cứu cơ sở triết học của TNHS giúp ta nhận thức được cơ sở
lý luận của việc buộc một người (pháp nhân thương mại) phải chịu TNHS, định
hướng xác định ranh giới giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa các trường
hợp phải chịu TNHS và những trường hợp được loại trừ TNHS. Bên cạnh đó, cơ sở
pháp lý của TNHS chính là nội dung quan trọng để thực hiện nguyên tắc pháp chế
XHCN, là cơ sở bảo vệ các quyền của con người trong lĩnh vực hình sự.
1.3.

Khái quát chung về những trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
1.3.1.

Khái niệm về loại trừ TNHS

Dƣới góc độ ngơn ngữ học, loại trừ được giải thích là “làm cho mất đi, hết
đi cái xấu, cái đối lập”[36-tr.574]. Cịn TNHS được giải thích là trách nhiệm của
người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của
mình [35-tr.801]

11


Như vậy dưới góc độ ngơn ngữ học, các trường hợp loại trừ TNHS là các
trường hợp mà chủ thể thực hiện hành vi gây thiệt hại không phải chịu TNHS vì
hành vi đó.
Dƣới góc độ khoa học pháp luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm các trường hợp loại trừ TNHS, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng các trường hợp loại trừ TNHS là các căn cứ
hợp pháp của hành vi gây thiệt hại [12-tr.34].
Quan điểm thứ hai định nghĩa “loại trừ TNHS là trường hợp một người có
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho xã hội, nhưng theo pháp luật

họ không bị truy cứu TNHS” [21-tr.8]
Quan điểm thứ ba gọi tên các trường hợp loại trừ TNHS là những trường hợp
loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, theo đó hệ thống các trường hợp này là
“tổng hợp (tồn bộ) các tình tiết có cùng bản chất pháp lý chung và do pháp luật
hình sự điều chỉnh, mà việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự khi có một trong
các tình tiết ấy khơng bị coi là tội phạm (mặc dù về mặt hình thức việc gây thiệt hại
này có các dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm)” [5-tr.172]
Dƣới góc độ pháp luật thực định, BLHS 2015 khơng đưa ra khái niệm cụ
thể thế nào là loại trừ trách nhiệm hình sự mà chỉ tổng hợp các trường hợp để quy
định thành một Chương độc lập (Chương IV) với tên gọi “Những trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự”.
Từ tất cả các phương diện nghiên cứu trên, người viết cho rằng loại trừ
TNHS là những trường hợp được quy định trong BLHS, về mặt hình thức khơng có
đủ các yếu tố cấu thành tội phạm hoặc tuy có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm,
nhưng hành vi đó có những tình tiết, căn cứ đặc biệt làm cho hành vi gây thiệt hại
trở nên hợp pháp, không thỏa mãn bản chất của tội phạm nên không bị xem là tội
phạm và không phải chịu TNHS.

12


1.3.2.

Cơ sở của việc quy định các trƣờng hợp loại trừ TNHS

Xuất phát từ định nghĩa của tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015,
một hành vi bị coi là tội phạm khi và chỉ khi có những dấu hiệu sau:
-

Tính nguy hiểm cho xã hội;


-

Tính trái pháp luật hình sự;

-

Tính có lỗi;

-

Do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện;

-

Phải bị xử lý hình sự.

Chính vì vậy, một hành vi trên thực tế mặc dù đã gây thiệt hại về mặt pháp lý
hình sự nhưng hành vi khách quan lại thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm thì
hành vi ấy khơng bị coi là tội phạm. Đây là cơ sở để pháp luật hình sự Việt Nam
cũng như pháp luật hình sự của các quốc gia khác xây dựng các quy định về những
trường hợp loại trừ TNHS.
1.3.3.
-

Đặc điểm của những trƣờng hợp loại trừ TNHS
Những trường hợp loại trừ TNHS được điều chỉnh bởi các quy phạm

của pháp luật hình sự;
Việc xác định hành vi nào là tội phạm và không phải là tội phạm, phải chịu

TNHS hay được loại trừ TNHS khơng phải dựa vào ý chí chủ quan của những
người áp dụng pháp luật mà phải dựa trên những quy định cụ thể, rõ ràng của
BLHS. Những trường hợp loại trừ TNHS được quy định trong BLHS chính là căn
cứ pháp lý xác nhận tính hợp pháp của hành vi gây thiệt hại.
-

Hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự có thể là hành vi nguy

hiểm cho xã hội, có thể có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể bị luật
hình sự cấm nhưng là hành vi hợp pháp về mặt pháp lý vì các lý do: (i) để bảo vệ
quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước,
của cơ quan, tổ chức; (ii) khuyến khích trong việc đấu tranh, phịng chống tội phạm,
khuyến khích sự tiến bộ khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ hoặc để bảo đảm tính kỷ
luật, sức mạnh trong lực lượng vũ trang; (iii) vì mục đích nhân đạo.

13


×