Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.34 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

LÊ THỊ HOA

PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN
GỬI CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành : LUẬT THƯƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN
GỬI CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

SVTH
KHĨA
MSSV
GVHD

: LÊ THỊ HOA
: 30


: 3020086
: Th.S NGUYỄN THỊ THUỶ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2009


MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TCTD VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA TCTD ............................................................................................................ 3
1.Khái quát về TCTD......................................................................................... 3
1.1. Khái niệm và phân loại TCTD.................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm TCTD ..................................................................................... 3
1.1.2. Phân loại TCTD ....................................................................................... 5
1.2. Vai trò của các TCTD đối với nền kinh tế ................................................. 6
1.3. Khái quát về các hoạt động huy động vốn của TCTD................................ 8
1.3.1. Nhận tiền gửi ........................................................................................... 8
1.3.2. Phát hành giấy tờ có giá ........................................................................... 9
1.3.3. Vay vốn giữa các TCTD ........................................................................ 11
1.3.4. Vay vốn của NHNN............................................................................... 11
2. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi ................................................................ 12
2.1. Khái niệm, ý nghĩa của huy động vốn bằng nhận tiền gửi. ...................... 12
2.1.1. Khái niệm huy động vốn bằng nhận tiền gửi ......................................... 12
2.1.2. Ý nghĩa của hoạt động nhận tiền gửi ..................................................... 13
2.2. Khái niệm và phân loại tiền gửi ................................................................ 14
2.2.1. Khái niệm tiền gửi ................................................................................. 14
2.2.2. Phân loại tiền gửi ................................................................................... 15

2.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn ........................................................................ 15
2.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn .............................................................................. 17


CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN
TIỀN GỬI CỦA CÁC TCTD .............................................................................. 21
1. Điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi
của các TCTD. ..................................................................................................... 21
1.1. Sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động
vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD................................................................. 21
1.1.1. Xuất phát từ tầm quan trọng của pháp luật đối với sự ổn định và phát triển
của nền kinh tế ..................................................................................................... 21
1.1.2. Xuất phát từ vai trò của hoạt động nhận tiền gửi của TCTD ................ 21
1.1.3. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền .............. 22
1.2. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động nhận tiền gửi của các
TCTD. .................................................................................................................. 22
1.2.1. Điều kiện tham gia vào quan hệ nhận tiền gửi. ..................................... 22
1.2.1.1. Các điều kiện đối với TCTD khi tham gia vào quan hệ nhận tiền gửi
.......................................................................................................................... 22
1.2.1.2. Điều kiện đối với khách hàng là người gửi tiền ................................. 23
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên ............................................................. 25
1.2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của TCTD trong quan hệ nhận tiền gửi ............... 27
1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng là người gửi tiền ........................ 36
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức
nhận tiền gửi của các TCTD ................................................................................ 37
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD.
.............................................................................................................................. 37
2.1.1. Đánh giá về hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD ............................. 37
2.1.2. Một số vướng mắc trong quá trình huy động vốn bằng nhận tiền gửi của
các TCTD. ............................................................................................................ 38

2.1.2.1. Những vướng mắc từ phía khách hàng gửi tiền ................................. 38
2.1.2.2. Những vướng mắc từ phía TCTD ....................................................... 39
2.1.2.3. Những vướng mắc từ điều kiện kinh tế .............................................. 40


2.1.2.4. Những vướng mắc từ các quy định của pháp luật .............................. 41
2.2. Một số giải pháp nâng cao khả năng nhận tiền gửi của các TCTD và kiến
nghị nhằm hồn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi ....
.......................................................................................................................... 43
2.2.1. Một số giải pháp nâng cao khả năng nhận tiền gửi của các TCTD
.......................................................................................................................... 43
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình
thức nhận tiền gửi của các TCTD ........................................................................ 45
2.2.2.1. Các quy định về BHTG ...................................................................... 45
2.2.2.2. Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn .............................................................. 46
2.2.2.3. Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật ......
.......................................................................................................................... 46

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 49


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ Luật dân sự

BHTG

: Bảo hiểm tiền gửi


DTBB

: Dự trữ bắt buộc

NH

: Ngân hàng

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHTMCP

: Ngân hàng thương mại cổ phần

NXB

: Nhà xuất bản

TCTD

: Tổ chức tín dụng



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đất nước ta đang tiến hành cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập nền kinh tế
khu vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng hàng đầu trong sự
nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi đó là vấn đề nguồn lực về vốn. Vấn đề đặt ra là
làm cách nào có thể huy động đủ nguồn vốn đó? Câu hỏi được giải đáp bằng sự ra đời
của các TCTD. Vai trò của nguồn lực về vốn cũng như vị thế của các TCTD đã được
khẳng định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Theo đó,
Đảng đã xác định “chúng ta khơng thể thực hiện cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nếu
khơng huy động được nhiều nguồn vốn trung và dài hạn trong nước mà “nòng cốt” để
thực hiện nhiệm vụ này là các NHTM, các cơng ty tài chính”. Để các TCTD có thể
đảm nhận tốt vai trị “nịng cốt” của mình cần phải có sự trợ giúp đắc lực từ phía các
cơ quan nhà nước mà một trong những vấn đề đặt ra bức thiết là phải tạo được hành
lang pháp lý đầy đủ và minh bạch để các TCTD hoạt động.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn của các TCTD,
trong đó một hình thức có tầm quan trọng đặc biệt là nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh
tế, các cá nhân; với những kiến thức pháp luật đã được học liên quan đến hoạt động
này cùng với việc tìm hiểu thực tiễn huy động vốn tại một số TCTD, em đã lựa chọn
đề tài “Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD”
làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ứng dụng của đề tài.
Với sự cố gắng, nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống đề tài “Pháp
luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD” sẽ phân tích làm
sáng tỏ một số quy định của pháp luật về vấn đề này, chỉ ra một số điểm cịn vướng
mắc trong q trình áp dụng các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng hình
thức nhận tiền gửi, thơng qua đó đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hồn thiện các
quy định của pháp luật và giúp cho thực tiễn áp dụng pháp luật được thuận lợi hơn.
Đặc biệt, khóa luận này là tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu
gửi tiền tại các TCTD có thể dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu thơng tin về các loại tiền

gửi, những ưu điểm cũng như hạn chế của mỗi hình thức gửi tiền; các quyền lợi
và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quan hệ gửi tiền tại các TCTD và những vấn đề
khác có liên quan để từ đó lựa chọn cho mình hình thức gửi tiền phù hợp nhất.Người
viết cũng hy vọng rằng khóa luận có thể là một tài liệu có ích cho các sinh viên trường
đại học Luật khi nghiên cứu pháp luật về hoạt động huy động vốn của các TCTD.

1


3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận.
Khóa luận này có mục đích chủ yếu là giúp người gửi tiền biết được các quyền
và nghĩa vụ của mình trong quan hệ gửi tiền với TCTD thông qua việc phân tích các
quy định của pháp luật về lĩnh vực này. Đồng thời thông qua việc nghiên cứu vấn đề
này, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật về
huy động vốn bằng nhận tiền gửi của TCTD, để đảm bảo hơn nữa quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ của khóa luận là:
-

Khái quát về TCTD và các hình thức huy động vốn của TCTD;
Làm rõ hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi;
- Phân tích các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của TCTD và
khách hàng là người gửi tiền trong quan hệ nhận tiền gửi;
- Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật, chỉ ra một số
vướng mắc và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD.

4. Phạm vi nghiên cứu.
Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các TCTD là một
vấn đề có nội dung tương đối lớn, có thể được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Trong khóa luận này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa TCTD
và người gửi tiền, các quy định của pháp luật có liên quan đến việc xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nhận tiền gửi.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để làm sáng tỏ các vấn đề nội dung của đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó bài
viết cịn có sự kết hợp của các phương pháp khoa học khác như: phương pháp liệt kê,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp… làm cho nội dung của đề tài có thể tiếp
cận một cách dễ hiểu hơn.
6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận này
được trình bày theo 2 chương.

Chương 1: Khái quát về TCTD và các hình thức huy động vốn của TCTD.
Chương 2: Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các
TCTD.

2


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TCTD VÀ
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TCTD.
1.Khái quát về TCTD
1.1. Khái niệm và phân loại TCTD
1.1.1. Khái niệm TCTD
Khi nền kinh tế phát triển, một bộ phận dân cư trong xã hội có của cải dư thừa.
Những người này có nhu cầu tìm một nơi an toàn để gửi tài sản. Ban đầu những người
nhận tiền gửi chủ yếu là những tiệm vàng, nhà thờ hay những nhà thương nhân giàu
có… Những người này nhận thấy ln có một lượng lớn tiền và vàng nhàn rỗi vì

thường khi có một người đến rút tiền ra thì lại có người khác đem tiền gửi vào. Đồng
thời họ cũng nhận thấy trong xã hội luôn tồn tại nhu cầu vay mượn để chi tiêu, đầu tư
kinh doanh. Từ những nhận thức này những người giữ hộ tài sản đã nghĩ đến việc sử
dụng một phần số tiền nhàn rỗi đó để cho vay kiếm lời. Và thay vì thu phí giữ hộ tài
sản, người ta trả một khoản lãi cho người có tài sản đem đến gửi. Chính những việc
làm này đã dẫn đến sự xuất hiện của một loại hình tổ chức chuyên đứng ra thực hiện
việc điều hòa nguồn vốn từ những nơi tạm thời thừa đến những nơi tạm thời thiếu, đó
chính là các TCTD.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì vai trò điều hòa nguồn vốn của các
TCTD ngày càng trở nên quan trọng hơn. Tác động từ hoạt động của các trung gian tổ
chức tài chính này cũng ngày càng khó kiểm sốt hơn. Chính vì vậy, pháp luật của các
nước đều có những quy định cụ thể về việc thành lập cũng như hoạt động của các tổ
chức này.
Tại Việt Nam, khái niệm về TCTD đã được giải thích tại Khoản 1 Điều 20 Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các TCTD 1997 (sau đây gọi là Luật các TCTD
2003). Theo đó,
“TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật các TCTD và
các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng”.
Như vậy, đặc trưng cơ bản của các TCTD là thực hiện “hoạt động ngân hàng”,
có nghĩa là tiến hành hoạt động “kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán”1.
Qua khái niệm vừa nêu ta thấy còn một số điểm chưa thật sự chính xác và
khơng cịn phù hợp với thực tế. Có thể kể ra một vài ví dụ như sau:
1

Khoản 7 Điều 20 Luật các TCTD 2003

3



Thứ nhất, theo cách giải thích của Điều luật thì TCTD là doanh nghiệp thành
lập để hoạt động ngân hàng; mà hoạt động ngân hàng là hoạt động “kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng”. Liên từ “và” cho phép chúng ta hiểu rằng TCTD là doanh
nghiệp phải thực hiện đồng thời cả hai nghiệp vụ là “kinh doanh tiền tệ” và “dịch vụ
ngân hàng”. Nếu thiếu một trong hai hoạt động đó thì liệu có được xem là TCTD hay
khơng? Vấn đề này chúng ta chưa có câu trả lời rõ ràng theo Luật các TCTD hiện
hành.
Trong khi đó trên thực tế, khơng phải TCTD nào cũng thực hiện và cũng có đủ
khả năng thực hiện cả hai nghiệp vụ này, mà tùy theo định hướng, chiến lược kinh
doanh, năng lực tài chính và đội ngũ nhân lực mà mỗi TCTD sẽ lựa chọn nội dung
kinh doanh phù hợp.
Thứ hai, khái niệm về “hoạt động ngân hàng” theo quy định của luật hiện
hành là “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh tốn” có nội hàm q hẹp so với hoạt động ngân hàng của các TCTD hiện nay,
đã kìm hãm tính đa năng trong hoạt động của các TCTD.
Các TCTD thực hiện hoạt động “đi vay” bằng nhiều cách thức khác nhau,
khơng chỉ có “nhận tiền gửi” mà cịn bao gồm các hình thức khác như “phát hành giấy
tờ có giá”2, “vay của các TCTD khác”3 hoặc “vay của NHNN”4…
Xuất phát từ những bất cập vừa nêu, Dự thảo Luật các TCTD ngày 15/4/2009
(sau đây gọi là Dự thảo) đã sửa đổi bổ sung và đưa ra khái niệm về TCTD như sau:
“TCTD là doanh nghiệp có hoạt động chủ yếu và thường xuyên là thực hiện một, một
số hoạt động ngân hàng”5.
Như vậy điều kiện cần để một doanh nghiệp được xem là TCTD là việc doanh
nghiêp thực hiện chủ yếu và thường xuyên một, một số hoạt động ngân hàng mà
không nhất thiết phải thực hiện đồng thời tất cả các nghiệp vụ của hoạt động ngân
hàng.
Để làm sáng tỏ hơn cho khái niệm về TCTD, đồng thời cũng nhằm giải thích rõ
hơn về nội hàm của khái niệm “hoạt động ngân hàng”, Dự thảo đã quy định:

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
trong các nghiệp vụ sau đây dưới mọi hình thức:
Nhận tiền gửi;
2

Điều 46 Luật các TCTD
Điều 47 Luật các TCTD
4
Điều 48 Luật các TCTD
5
Khoản 1 Điều 4 Dự thảo
3

4


Cấp tín dụng;
Cung cấp dịch vụ thanh tốn.6
Nhận tiền gửi ở đây được hiểu là nghiệp vụ huy động vốn của các TCTD, trong
đó bao gồm các hình thức “nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức dưới hình thức tiền gửi
khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và các
hình thức nhận tiền gửi khác theo ngun tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc cho người
gửi tiền”7.
Khi Dự thảo được thông qua một số hạn chế của Luật các TCTD về khái niệm
“TCTD” và “hoạt động ngân hàng” sẽ được điều chỉnh một cách chính xác, phù hợp
hơn.
1.1.2. Phân loại TCTD
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau sẽ có những cách phân loại khác nhau
Dựa vào phạm vi hoạt động, TCTD được chia thành hai loại: TCTD là ngân
hàng và TCTD phi ngân hàng.

“Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện tồn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động có liên quan”8.
Tùy thuộc vào mục tiêu hoạt động khác nhau mà ngân hàng lại được chia thành
các nhóm khác nhau, bao gồm:
NHTM: lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động của các ngân hàng
thuộc nhóm này.
Ví dụ: NHTMCP Á Châu, NHTMCP Đơng Á, …
NH đầu tư phát triển: mục tiêu là thực hiện các dự án đầu tư phát triển. Vì vậy
nhóm các ngân hàng này thường hướng tới các dự án đầu tư trung và dài hạn.
NH chính sách xã - hội: thành lập để thực hiện các chính sách của Nhà nước
Ví dụ: NH chính sách xã hội, NH phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long…
NH tiết kiệm: hướng tới những khoản tiền nhỏ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
của người dân.
Ở Việt Nam có các TCTD có quy mơ nhỏ có bản chất giống NH tiết kiệm. Tuy
nhiên ở nước ta chưa có NH tiết kiệm theo đúng nghĩa của nó; các NHTM đảm nhận
ln các hoạt động của NH tiết kiệm.
Qũy tín dụng nhân dân: nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên.

6

Khoản 11 Điều 4 Dự thảo
Khoản 12 Điều 4 Dự thảo
8
Khoản 2 Điều 20 Luật các TCTD 2003
7

5


“TCTD phi ngân hàng: là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động

ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi
không kỳ hạn , khơng được làm dịch vụ thanh tốn”9
TCTD phi ngân hàng bao gồm cơng ty tài chính và cơng ty cho th tài chính
và các TCTD phi ngân hàng khác.
Như vậy, so với TCTD là ngân hàng, phạm vi hoạt động của TCTD phi ngân
hàng bị hạn chế hơn. Trong khi ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động khác có liên quan thì TCTD phi ngân hàng chỉ được thực hiện
một số hoạt động ngân hàng, không được nhận tiền gửi khơng kỳ hạn và vì vậy cũng
khơng được cung cấp dịch vụ thanh toán.
Việc phân định giữa ngân hàng và TCTD phi ngân hàng thông qua việc xác
định nội dung và phạm vi hoạt động của chúng là cơ sở để xây dựng một hành lang
pháp lý thích hợp và đảm bảo an toàn đối với hoạt động của các TCTD.
Dựa vào tính chất sở hữu, TCTD bao gồm:
TCTD Nhà nước: là TCTD có 100% vốn thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc tỷ lệ
sở hữu của Nhà nước chiếm trên 50% tổng số vốn của TCTD.
TCTD cổ phần: là TCTD có sự gốp vốn của nhiều tổ chức, cá nhân, trong đó
một bên góp vốn ln là Nhà nước.
TCTD hợp tác: là TCTD mà mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau giữa các
thành viên tham gia tổ chức. Hình thức chủ yếu ở Việt Nam là các quỹ tín dụng được
thành lập ở Trung ương và cơ sở (chủ yếu ở xã, phường).
TCTD liên doanh: là TCTD có vốn góp từ các chủ sở hữu trong nước và các
chủ sở hữu nước ngoài
TCTD nước ngoài là TCTD có 100% vốn thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân
nước ngồi.
1.2. Vai trị của các TCTD đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức tín dụng vừa đóng vai trị kênh huy động
vốn vừa đóng vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. Được xem là những chủ thể tạo
nên huyết mạch của nền kinh tế, tổ chức tín dụng đóng góp những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, TCTD là chủ thể trung gian điều hịa nguồn vốn từ nơi tạm thời có
nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi cần vốn.

Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu về vốn cho
quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh cũng ngày càng tăng, trong khi đó năng lực tài
chính của các chủ thể là có hạn, khơng phải lúc nào cũng có thể đáp ứng được nhu cầu
9

Khoản 2 Điều 30 Luật các TCTD

6


hoạt động. Để mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, ngồi nguồn vốn
tự có các chủ thể ln có nhu cầu vay vốn.
Mặt khác, cũng do sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của người dân ngày
một được cải thiện, của cải tích lũy được ngày càng nhiều tạo nên một nguồn vốn nhàn
rỗi khá lớn. Những người có nguồn vốn dư thừa có nhu cầu được bảo tồn về tài sản
của mình đồng thời họ cũng mong muốn có thêm nguồn tăng thu.
Với vai trò trung gian, TCTD sẽ thực hiện việc “huy động và tập trung các
nguồn vốn thặng dư nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới hình thức “vốn vay” để tái phân
phối các nguồn vốn này cho các nhu cầu cần vốn để phát triển kinh tế của các thể
nhân và pháp nhân dưới dạng cho vay” 10. Qua đó TCTD đã đóng vai trị như một mắt
xích giúp cho q trình lưu thơng của nguồn vốn trong nền kinh tế, đáp ứng được nhu
cầu của những chủ thể đang cần vốn và cả những người có nguồn vốn đang tạm thời
chưa sử dụng tới.
Thứ hai, TCTD là chủ thể góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng
khốn.
Vai trị của các TCTD đối với sự phát triển của thị trường chứng khốn được
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Trong quá trình hoạt động, các TCTD được quyền phát hành cổ phiếu (đối với
TCTD được tổ chức dưới hình thức cơng ty cổ phần), trái phiếu để huy động vốn.
Cơng việc này khơng chỉ giúp các TCTD có thể tìm kiếm được nguồn vốn phục vụ cho

hoạt động của mình mà cịn góp phần tạo ra nguồn hàng quan trọng cho thị trường
chứng khốn sơ cấp.
Bên cạnh đó, khi thực hiện các nghiệp vụ tư vấn phát hành, đại lý, bảo lãnh
phát hành các TCTD đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chứng khốn sơ cấp.
Ngồi ra, các TCTD cũng tham gia vào thị trường chứng khốn thứ cấp thơng
qua việc thành lập các cơng ty chứng khốn độc lập để thực hiện các hoạt động mơi
giới chứng khốn, tự doanh chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán…
Thực tế ở Việt Nam nói riêng và nhiều nước khác trên thế giới nói chung, các
chứng khốn do ngành ngân hàng phát hành là một trong những loại chứng khoán
được giao dịch với số lượng nhiều, có ảnh hưởng đến sự “khởi sắc” hay sụt giảm
chung của thị trường. Việc thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện hoạt động

10

GS.Võ Đình Hảo, Chủ biên, (H.1993), Các cơng cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường, Viện kinh tế tài
chính, Bộ tài chính, trang 115.

7


trong lĩnh vực chứng khoán cũng được nhiều TCTD chú trọng vì đây được xem là một
trong những lĩnh vực kinh doanh “siêu lợi nhuận”.
Thứ ba, hoạt động của các TCTD góp phần vào việc thực hiện các chính sách
tiền tệ của Nhà nước. Cụ thể:
Khi muốn thực hiện chính sách kích cầu, thúc đẩy phát triển sản xuất, đẩy mạnh
tiêu dùng, NHNN sẽ tăng cường “bơm tiền” vào lưu thơng bằng cách “nới lỏng” các
điều kiện cấp tín dụng cho các NHTM. Đến lượt mình, các NHTM lại mở rộng cho
vay đối với các TCTD phi ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Đồng thời

NHNN có thể quy định giảm mức dự trữ bắt buộc đối với các TCTD. Ngược lại, khi
muốn hạn chế lượng tiền trong lưu thông, giảm lạm phát của nền kinh tế, NHNN sẽ
thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” bằng việc buộc các TCTD phải tăng mức dự
trữ bắt buộc tại NHNN hoặc yêu cầu các TCTD phải mua trái phiếu bắt buộc…
Ngồi những vai trị chủ yếu kể trên, các TCTD cịn có một số vai trị khác như
góp phần thúc đẩy q trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc mở rộng đầu tư
trong và ngoài nước, hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu (thơng qua các hoạt động
như bao thanh tốn, mở và thanh tốn cho khách hàng theo hình thức thư tín dụng…);
cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì vai trị của các TCTD cũng sẽ
ngày càng được nâng cao.
1.3. Khái quát về các hoạt động huy động vốn của TCTD
1.3.1. Nhận tiền gửi
Hoạt động ngân hàng, trong đó có một trong những nội dung quan trọng là nhận
tiền gửi là đặc trưng trong hoạt động của các TCTD. Song để có thể hiểu được hoạt
động nhận tiền gửi trước hết chúng ta cần hiểu về khái niệm “tiền gửi”.
“Tiền gửi là số tiền khách hàng gửi tại TCTD dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức tiền gửi khác. Tiền gửi được
hưởng lãi hoặc khơng được hưởng lãi và phải được hồn trả cho người gửi tiền”11.
Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn chủ yếu của các TCTD. Do đó pháp
luật cần có các quy định nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các TCTD hoạt động.
Luật các TCTD hiện hành khơng đưa ra khái niệm về hình thức huy động vốn này có
thể xem như là một sự thiếu sót và thiếu sót này đã được dự thảo Luật các TCTD bổ
sung, cụ thể như sau:
“Nhận tiền gửi là việc TCTD nhận tiền của cá nhân, tổ chức dưới hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và
11

Khoản 9 Điều 20 Luật các TCTD 2003.


8


các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hồn trả đầy đủ tiền gốc cho
người gửi tiền”12.
Về phạm vi nhận tiền gửi: Các loại hình TCTD khác nhau sẽ thực hiện nhận
tiền gửi với phạm vi khác nhau. Cụ thể:
“Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới
các hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác”13.
“TCTD phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các
tổ chức, cá nhân theo quy định của NHNN”14.
Như vậy, phạm vi nhận tiền gửi của TCTD phi ngân hàng bị hạn chế, không
được nhận tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm. Đây là một
trong những quy định nhằm bảo đảm an tồn cho hoạt động của TCTD phi ngân hàng
nói riêng và hệ thống các TCTD nói chung. Các TCTD phi ngân hàng chủ yếu cấp tín
dụng trung và dài hạn, nếu cho phép nhận tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn
dưới một năm thì sẽ khó bảo đảm được khả năng thanh khoản khi khơng thể rút vốn về
để đáp ứng nhu cầu rút tiền hoặc thanh toán của khách hàng gửi tiền.
Theo quy định của Dự thảo luật các TCTD thì quyền huy động tiền gửi của các
TCTD có sự thay đổi. Theo đó, TCTD phi ngân hàng, bao gồm cơng ty tài chính, cơng
ty cho th tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác, không được nhận tiền gửi của
cá nhân, kể cả đó là tiền gửi có kỳ hạn trên một năm, mà chỉ được nhận tiền gửi của tổ
chức15, kể cả tiền gửi thanh tốn.
Nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn có tính truyền thống gắn liền với lịch
sử ra đời của NH. Nguồn vốn huy động được thơng qua hình thức nhận tiền gửi
thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng vốn huy động được của các TCTD.
Nhận tiền gửi cũng là quyền riêng có của TCTD xuất phát từ đặc thù về đối
tượng kinh doanh, vai trò của TCTD đối với nền kinh tế.
1.3.2. Phát hành giấy tờ có giá
Nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động của các TCTD chủ yếu là vốn huy động.

Bên cạnh nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá cũng được xem là một cách thức đem
lại nguồn vốn tương đối lớn cho các TCTD.
Theo Khoản 1 Điều 7 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD,
ban hành kèm theo Quyết định 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 của Thống đốc
NHNN, giấy tờ có giá được hiểu là “chứng nhận của TCTD phát hành để huy động
12

Khoản 12 Điều 4 Dự thảo
Khoản 1 Điều 45 Luật các TCTD
14
Khoản 2 Điều 45 Luật các TCTD
15
Điểm a Khoản 1 Điều 108 và Khoản 1 Điều 112 Dự thảo
13

9


vốn, trong đó xác định nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định,
điều khoản trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua”.
Để huy động vốn TCTD có thể phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn hoặc dài hạn,
dưới hình thức ghi danh hoặc vơ danh.
Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm, bao
gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác16.
Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên, bao
gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác17.
Giấy tờ có giá vơ danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ, khơng ghi tên người sở hữu . Giấy tờ có giá vơ danh thuộc quyền sở
hữu của người nắm giữ giấy từ có giá18.

Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu19.
Theo Dự thảo Luật các TCTD “phát hành giấy tờ có giá là hoạt động huy động
vốn của TCTD dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái
phiếu và các loại giấy tờ có giá khác”20.
Về quyền phát hành giấy tờ có giá:
“TCTD được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài”21.
Yêu cầu về việc phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD theo quy định
của Luật các TCTD hiện hành “phải được sự chấp thuận của Thống đốc NHNN”.
Đồng thời, theo quy định tại quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD
thì việc phát hành giấy tờ có giá cịn phải tn thủ các quy định của pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Quy định này đã gây khơng ít khó khăn cho các
TCTD.
Với sự phát triển mạnh mẽ của chứng khoán và thị trường chứng khốn, phát
hành giấy tờ có giá đã và đang là một kênh huy động vốn quan trọng của các TCTD.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các TCTD huy động vốn thông qua phát hành giấy
tờ có giá, Dự thảo Luật các TCTD đã “cởi trói” cho các TCTD bằng việc quy định
“việc phát hành trái phiếu, trừ trái phiếu chuyển đổi, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín
16

Khoản 2 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá
Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá
18
Khoản 5 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá
19
Khoản 4 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá
20
Khoản 15 Điều 4 Dự thảo
21

Điều 46 Luật các TCTD
17

10


phiếu để huy động vốn của TCTD không chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chứng
khoán liên quan đến hoạt động phát hành chứng khốn ra cơng chúng”22.
1.3.3. Vay vốn giữa các TCTD
TCTD hoạt động kinh doanh tiền tệ theo phương thức đi vay để cho vay, vì vậy
trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của mình sẽ xảy ra trường hợp có
những TCTD có nguồn vốn nhàn rỗi do huy động được mà chưa có khách hàng vay.
Ngược lại, có một số TCTD có nhu cầu cần vốn ngay để thực hiện hoạt động thanh
toán cho khách hàng. Để đáp ứng nhu cầu cần vốn và kiếm lợi nhuận trên số vốn tạm
thời nhàn rỗi, các TCTD đã cho nhau vay.
Như vậy, “Vay vốn giữa các TCTD là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay
của TCTD (bên cho vay) cho một TCTD khác (bên vay)”23.
Theo Điều 47 Luật các TCTD, các TCTD được vay vốn của nhau và vay vốn
của TCTD nước ngoài.
Vay vốn giữa các TCTD là hoạt động huy động vốn được thực hiện trên thị
trường liên ngân hàng, thông qua việc các TCTD vay mượn lẫn nhau. Các TCTD có
dự trữ vượt mức yêu cầu do có kết dư tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc
việc điều tiết giảm cho vay sẽ có thể sẵn lịng cho các TCTD khác vay để tìm kiếm lãi
suất cao hơn. Ngược lại, các TCTD đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức
thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ các TCTD khác là để đáp
ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung, thay thế
cho khoản vay từ NHNN.
Thị trường liên ngân hàng phát triển ngày càng sơi động nhờ có sự trợ giúp của
các phương tiện kỹ thuật hiện đại và sự quan tâm của NHNN đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các TCTD có thể hỗ trợ lẫn nhau trong việc giải quyết vấn đề thiếu hụt tạm thời

khả năng thanh khoản.
1.3.4. Vay vốn của NHNN
TCTD là tổ chức trung gian thực hiện việc điều hòa các nguồn vốn trong xã hội
từ những nơi tạm thời thừa vốn đến những nơi tạm thời thiếu vốn, vì vậy trong q
trình hoạt động sẽ có trường hợp TCTD chưa kịp thu hồi nguồn vốn đã cho vay để
hoàn trả cho khách hàng gửi tiền khi họ yêu cầu, nói một cách khác là TCTD rơi vào
tình trạng tạm thời mất khả năng chi trả. Để đảm bảo ổn định chung cho nền kinh tế,
giúp cho các TCTD vượt qua khó khăn tạm thời về thanh khoản, bảo vệ quyền lợi cho
người gửi tiền, các TCTD có thể được NHNN cho vay. Cụ thể:

22
23

Điều 90 Dự thảo
Khoản 1 Điều 2 Quy chế vay vốn giữa các TCTD. Ban hành kèm theo Quyết định 1310/2001/QĐ-NHNN

11


“TCTD là NH được vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp
24

vốn” .
Theo Điều 17 Luật NHNN, NHNN thực hiện việc tái cấp vốn cho các NH theo
những hình thức sau:
“Cho vay theo hồ sơ tín dụng;
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác.
Cho vay bằng bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu”.
Như vậy, vay vốn của NHNN là biện pháp có tính hạn chế, chỉ áp dụng đối với

TCTD là NH và khoản vay ngắn hạn.
Sở dĩ pháp luật quy định chỉ có TCTD là NH mới được vay vốn của NHNN và
nguồn vốn vay chỉ là vốn ngắn hạn quy định này không áp dụng đối với TCTD phi
ngân hàng, bởi vì, xuất phát từ đặc thù hoạt động của các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng chủ yếu là cấp tín dụng trung và dài hạn, nếu NHNN cho các chủ thể này vay vốn
ngắn hạn để giải quyết nhu cầu cấp tín dụng trung và dài hạn thì rủi ro sẽ rất cao.
Mặc dù vay vốn của NHNN là một biện pháp huy động vốn chỉ áp dụng đối với
TCTD là NH và nguồn vốn vay là ngắn hạn, song trong trường hợp đặc biệt khi rơi
vào tình trạng “tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ mất an tồn cho hệ thống các
TCTD”25, được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, TCTD sẽ được NHNH cho
vay để giải quyết khó khăn, đảm bảo an toàn cho chung cho cả hệ thống. Trường hợp
này sẽ khơng có sự phân biệt đó là NH hay TCTD phi ngân hàng.
2. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
2.1. Khái niệm, ý nghĩa của huy động vốn bằng nhận tiền gửi.
2.1.1. Khái niệm huy động vốn bằng nhận tiền gửi
Không giống như các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác, hoạt
động của các TCTD chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động. Chính vì vậy huy động vốn
là một trong những nghiệp vụ vô cùng quan trọng trong hoạt động của các TCTD. Tuy
nhiên, Luật các TCTD lại khơng giải thích về khái niệm “huy động vốn” nói chung
cũng như “huy động vốn bằng nhận tiền gửi” nói riêng. Do đó, để hiểu được khái niệm
này ta cần phải hiểu được từng yếu tố cấu thành nên nó.
“Vốn là tồn bộ giá trị của chủ đầu tư để tạo ra các tài sản nhằm mục tiêu thu
nhập trong tương lai”.26

24

Điều 48 Luật các TCTD
Khoản 2 Điều 30 Luật NHNN
26
Giáo trình Kinh tế học phát triển, Học viện chính trị quốc gia TP.HCM, năm 2002.

25

12


“Vốn là toàn thể các yếu tố mà một cá nhân sở hữu để thực hiện sản xuất một
loại hàng hóa hay một loại dịch vụ nào đó”.27
“Vốn là tổng thể nói chung những tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng
tiền, sử dụng trong sản xuất kinh doanh nói chung, trong hoạt động sinh lợi”28
“Huy động là điều động một số đông, một số lớn vào một việc gì đó”29
Từ các cách hiểu về “vốn” và “huy động” như trên, chúng ta có thể rút ra kết
luận về huy động vốn bằng nhận tiền gửi như sau:
Huy động vốn bằng nhận tiền gửi là việc TCTD điều động một số lượng lớn tiền
gửi của tổ chức, cá nhân trong trong xã hội để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
mình nhằm mục tiêu sinh lợi
2.1.2. Ý nghĩa của hoạt động nhận tiền gửi
Trong các hình thức huy động vốn của TCTD thì nhận tiền gửi là hoạt động
xuất hiện sớm nhất và thường đem lại nguồn vốn lớn nhất cho các TCTD. Nhận tiền
gửi cũng chính là hoạt động sơ khai đầu tiên dẫn đến việc hình thành nên các tổ chức
chuyên đứng ra thực hiện hoạt động “đi vay để cho vay”. Những NH xuất hiện đầu
tiên trên thế giới cũng chỉ đơn thuần là những tổ chức nhận tiền gửi từ chủ thể có
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăng ghen
đúc kết trong tuyển tập Tư bản như sau:
Ngân hàng Am –xtéc-đam, thành lập năm 1609, cũng như ngân hàng
Hăm-buốc, thành lập năm 1619, đều không đánh dấu một thời đại trong
sự phát triển của chế độ tín dụng hiện đại. Nó chỉ đơn giản là một ngân
hàng nhận tiền gửi30.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, các TCTD thực hiện việc nhận tiền
gửi từ các tổ chức, cá nhân tạm thời thừa vốn để phân phối lại cho những chủ thể khác
đang có nhu cầu về vốn, hoạt động này đã góp phần đem lại lợi ích cho tất cả các chủ

thể tham gia và lợi ích chung của nền kinh tế, cụ thể:
Đối với khách hàng gửi tiền, lợi ích mà họ có được từ việc gửi tiền tại các
TCTD trước hết đó chính là khoản lãi của tiền gửi. Bởi vì, tiền mà các TCTD chi phối
“thứ nhất, đó là bộ phận tư bản nhàn rỗi nằm trong tay các nhà cơng nghiệp và
thương nghiệp dưới hình thái tiền, với tư cách là dự trữ hay tư bản còn đợi đem đầu
tư…Thứ hai, đó là một phần các thứ thu nhập hay của những số tiền tiết kiệm nhằm
tích lũy một cách vĩnh viễn hay tạm thời”31, những nguồn vốn nhàn rỗi này khơng tự
27

A.Silem (1999), Bách khoa tồn thư về kinh tế học -Khoa học pháp lí.
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Tiếng Việt.
29
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Tiếng Việt.
30
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập 25, phần I, trang 125
31
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập 25, phần II, trang 228
28

13


nhiên đem lại thu nhập cho chủ sở hữu nhưng từ hoạt động nhận tiền gửi, các TCTD
đã tập hợp chúng lại và tạo thu nhập cho người gửi tiền thơng qua việc trả lãi cho
khoản tiền gửi.
Ngồi ra, người gửi tiền cịn được hưởng những lợi ích khác do TCTD đã đảm
bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tiện lợi.
Đối với khách hàng vay tiền của TCTD: đây là những đối tượng đang có nhu
cầu về vốn để hoạt động. Hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD tạo nên nguồn vốn
luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của các đối tượng trên, giúp cho các chủ thể này thỏa

mãn nhu cầu về vốn để kinh doanh, chi tiêu mà khơng phải tiêu tốn nhiều chi phí về
sức lực, thời gian cho việc tìm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Đối với TCTD: các TCTD sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Đây là yếu tố quyết định sự
tồn tại và phát triển của TCTD.
Đối với nền kinh tế: Việc cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp đã khuyến
khích sản xuất, tạo việc làm, tăng sản lượng, giảm nhập khẩu hàng hóa. Mặt khác việc
điều tiết vốn trong khu vực dân cư góp phần tăng thu nhập và khuyến khích tăng nhu
cầu tiêu dùng hàng hóa, qua đó góp phần tăng cường sản xuất. Với chức năng này, các
TCTD đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích q trình
ln chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh.
2.2. Khái niệm và phân loại tiền gửi
2.2.1. Khái niệm tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn huy động quan trọng nhất của các
TCTD, đặc biệt là đối với các NHTM. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của các
TCTD, tiền gửi từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế thường chiếm một tỷ trọng lớn.
Theo Khoản 9 Điều 20 Luật các TCTD, “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi
tại TCTD dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
và các hình thức tiền gửi khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và
phải được hoàn trả cho người gửi tiền”.
Như vậy, ta nhận thấy một đặc điểm chung nhất của tiền gửi là chúng phải
được hoàn trả khi người gửi tiền có yêu cầu.
2.2.2. Phân loại tiền gửi
Căn cứ vào sự khác nhau của phương thức gửi và rút tiền, tiền gửi được chia
thành tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.

14


2.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn

Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút tiền theo yêu
cầu hoặc thực hiện hoạt động thanh tốn vào bất kỳ lúc nào mà khơng cần báo trước
với tổ chức nhận tiền gửi.
Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm khơng
kỳ hạn.
- Tiền gửi thanh tốn: Là tiền gửi của doanh nghiệp, cá nhân gửi vào NH để
nhờ giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các yêu cầu chi trả của
doanh nghiệp, cá nhân đều được NH thực hiện. Đây là loại tiền gửi có thể phát hành
séc để thực hiện các hoạt động thanh tốn khơng dùng tiền mặt.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài
khoản tiền gửi tiết kiệm, người gửi có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo
trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm32.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chỉ áp dụng đối với cá nhân và “tài khoản tiền
gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện các giao dịch thanh
toán”, trừ trường hợp “tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng Đồng Việt Nam của người cư
trú được sử dụng để chuyển khoản thanh tốn tiền vay của chính chủ sở hữu tiền gửi
tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển khoản sang tài khoản
khác do chính chủ sở hữu tiền gửi tiệt kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là
chủ tài khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó”33, đây là điểm khác biệt của tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn so với tiền gửi thanh toán.
Những ưu và nhược điểm của tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn có những ưu điểm sau:
Việc gửi và rút tiền theo phương thức này rất thuận tiện, linh hoạt, tính lưu
động vốn lớn, thích hợp cho những người có số tiền tạm thời nhàn rỗi chưa có kế
hoạch sử dụng tới hoặc những người có nhu cầu thanh tốn thường xun qua NH.
Khi lựa chọn hình thức ký thác này khách hàng khơng có ý định để dành và
cũng khơng địi hỏi tiền lãi. Thực tế khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ này
bằng một hình thức tiền tệ khác và thích thanh tốn bằng séc hơn dùng tiền mặt; khách
hàng cũng mong muốn được hưởng những dịch vụ tiện ích do NH cung cấp.
Gửi tiền theo hình thức không kỳ hạn cũng là một cách bảo quản tài sản an toàn

đối với khách hàng, hạn chế việc bị trộm cắp, cướp giật hay mất mát do việc cất giữ
tiền tại nhà hoặc mang theo tiền mặt để thanh toán.

32
33

Khoản 8 Điều 6 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm. Ban hành kèm theo Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN
Điều 11 Quy chế tiền gửi tiết kiệm.

15


Đối với TCTD, mặc dù phải ln duy trì một lượng tiền mặt để đáp ứng nhu
cầu thanh toán song trên thực tế do lượng tiền gửi vào và rút ra không cùng một lúc và
chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của mình trong tài khoản trong một
thời gian dài. Số dư ấy được các NH dùng để đầu tư và cho vay. Do đó tài khoản tiền
gửi khơng kỳ hạn khơng những có thể bù đắp được chi phí cho việc quản lý mà cịn có
thể mang lại lợi nhuận cho các NH.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới được
ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy số lượng doanh nghiệp, cá nhân mở tài
khoản thanh toán tại các NH ngày càng nhiều làm gia tăng đáng kể loại tiền gửi khơng
kỳ hạn. Chi phí huy động vốn thấp là một ưu thế của loại tiền gửi này.
Bên cạnh những ưu điểm như trên, tiền gửi khơng kỳ hạn cịn có một số hạn chế
sau:
Đối với khách hàng: do tính biến động tăng giảm của nguồn vốn tương đối lớn
nên lãi suất của loại tiền gửi này thường thấp hơn so với lãi suất tiền gửi định kỳ, thậm
chí khơng có lãi.
Đối với TCTD: do rất khó kiểm sốt được biến động của nguồn vốn này nên
TCTD khơng dám dùng nó vào việc cho vay có kỳ hạn, ln phải duy trì số tiền mặt
nhất định để đảm bảo khả năng chi trả. Vì vậy nguồn vốn này thường ít mang lại lợi

nhuận cho các TCTD.
Chính vì khoản ký thác khơng kỳ hạn này ít mang lại lợi ích trong khi nó lại
làm tăng đáng kể khối lượng cơng việc cho các NH nên có một số NH đã bắt buộc
khách hàng phải gửi một số tiền nhất định cho lần đầu mở tài khoản hoặc thu một
khoản hoa hồng tương đối cao để tránh các tài khoản mà NH cho là không cần thiết,
những tài khoản mà khách hàng chỉ để lại một số tiền rất khiêm tốn và rất ít hoạt động.
Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngân hàng, sự đổi mới
trong tư duy quản lý, các NH nhận thấy rằng việc áp dụng chính sách như trên sẽ để
mất một lượng khách hàng rất tiềm năng và sau này việc “chinh phục” lại các khách
hàng này không phải dễ. Vì vậy các NH hiện nay đã thực hiện chính sách đón tiếp cởi
mở , tự do hơn đối với các đơn xin mở tài khoản, không thu hoa hồng và cũng chỉ cần
gửi một số tiền tượng trưng cho lần gửi đầu tiên.
Ví dụ: các NH như Đơng Á, Vietinbank, Agribank…đã và đang triển khai các
chương trình mở tài khoản (ATM) miễn phí cho khách hàng.
Để tăng tính cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, nhiều NH đã kết hợp tài
khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi, chi trội trên số dư “Có” của
tài khoản thanh toán).

16


2.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền sau một kỳ
hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi.
Căn cứ vào chủ thể gửi tiền, tiền gửi có kỳ hạn bao gồm tiền gửi có kỳ hạn
thơng thường và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ áp dụng đối với khách hàng gửi tiền là cá nhân,
không áp dụng cho tiền gửi của tổ chức.
Đặc điểm chung của tiền gửi có kỳ hạn là được hưởng lãi cao hơn tiền gửi
không kỳ hạn và không được phát hành séc.

Những ưu và nhược điểm của tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn có một số ưu điểm sau:
Có nhiều loại kỳ hạn khác nhau tương ứng với các mức lãi suất khác nhau theo
nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao, khách hàng có thể căn cứ vào kế hoạch
dự định sử dụng nguồn vốn của mình để lựa chọn loại kỳ hạn phù hợp.
So với các kênh đầu tư khác như đầu tư vào hoạt động sản xuất hay đầu tư vào thị
trường chứng khoán, thị trường vàng, thị trường bất động sản… lãi suất tiền gửi có thể
thấp hơn lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh đó. Tuy nhiên, tiền gửi có kỳ hạn vẫn
có những ưu thế riêng của mình và trong thực tế, các TCTD vẫn thu hút được một
lượng không nhỏ tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Có thể kể đến một vài
ưu thế của loại tiền gửi này như sau:
Trước hết, lợi tức thu được từ tiền gửi có tính ổn định tương đối và là một con
số có thực, có thể tính tốn được cịn lợi nhuận từ các kênh đầu tư trên chỉ là một con
số dự tính vào thời điểm ta bỏ vốn ra đầu tư, nó cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả
khách quan lẫn chủ quan
Mặt khác, nếu bỏ tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận
mà chúng ta có thể thu được sẽ là khoản thu nhập phải chịu thuế thu nhập, có nghĩa là
khoản thu nhập thực tế sẽ giảm đi một phần do phải trích ra để đóng thuế; trong khi đó
lãi từ tiền gửi tại các TCTD lại là đối tượng được miễn nộp loại thuế này34.
Phương thức gửi tiền này thích hợp với những đối tượng có khoản tiền mà theo
kế hoạch thì họ chưa sử dụng tới. Bên cạnh đó, do khơng bị khống chế ở mức gửi tối
thiểu nên cách thức gửi tiền này thích hợp đối với tất cả những người có số tiền nhàn
rỗi, dù đó chỉ là những số tiền nhỏ. Tiền gửi có kỳ hạn cũng phù hợp với sự lựa chọn
của những người muốn tăng thêm thu nhập từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình
nhưng lại khơng đủ thời gian để tiến hành đầu tư kinh doanh hoặc họ chưa đủ khả
34

Khoản 7 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân

17



năng để thực hiện kinh doanh ở những lĩnh vực khác, bởi vì khi gửi tiền vào ngân hàng
họ sẽ nhận được lãi tiền gửi nhưng lại không cần phải đầu tư nhiều thời gian và công
sức, việc quản lý và đảm bảo khả năng sinh lời của nguồn vốn sẽ do TCTD thực hiện.
Hình thức gửi tiền này khơng những đáp ứng được nhu cầu tăng thu của người
gửi tiền mà cũng như tiền gửi không kỳ hạn, đây cũng là một biện pháp bảo quản tài
sản khá an tồn đối với khách hàng.
Đối với TCTD, với đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, TCTD có thể chủ động kế
hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm khoản đầu tư hợp lý và thu lợi nhuận
cao.
Loại tiền gửi này mang lại lợi ích lớn cho các TCTD, vì vậy các TCTD đều cố
gắng đưa ra các giải pháp như: mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy
động đa dạng, lãi suất cạnh tranh… để thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn này.
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, tiền gửi có kỳ hạn có những hạn chế sau:
Về mặt nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền sau một kỳ hạn nhất định như
đã thỏa thuận với TCTD, tính lưu động của nguồn vốn bị hạn chế, tiền gửi có kỳ hạn
khơng được sử dụng để thanh tốn, vì vậy cũng không được phát hành séc.
Tuy nhiên, việc các TCTD phát hành các chứng chỉ tiền gửi, chứng nhận cho
khoản tiền gửi có kỳ hạn, với đặc tính có thể chuyển nhượng. Khi cần tiền mặt, người
có chứng chỉ tiền gửi (người gửi tiền) có thể chuyển nhượng lại cho người khác và
nhận về một khoản tiền mặt. Điều này vừa giúp đảm bảo được tính ổn định sinh lãi của
tiền gửi khơng kỳ hạn vừa đảm bảo được tính lưu động vốn của tiền gửi không kỳ hạn.
Hạn chế đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là sổ tiết kiệm khơng dùng để
thanh tốn tiền hàng và dịch vụ được song nó lại có thể thế chấp để vay vốn nếu được
TCTD chấp nhận.
Đối với TCTD, việc cân nhắc tính hiệu quả giữa chi phí bỏ ra để huy động vốn
và lợi nhuận có thể thu được từ việc sử dụng nguồn vốn đó ln là bài tốn khó. Như
chúng ta đã biết, TCTD hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” song không
phải tất cả nguồn vốn “đi vay” được đều có thể sử dụng để cho vay. Nói một cách

khác, chỉ một phần số vốn huy động được mang lại lợi nhuận cho các TCTD. Bởi vì,
thứ nhất, theo luật định, các NH trung gian phải ký quỹ tại NHTƯ, khoản ký quỹ này
không được trả lãi và tất nhiên không mang lại lợi nhuận. Thứ hai, trong một số
trường hợp số vốn đã huy động bị ứ đọng tạm thời, tức là không cho vay được, trong
khi vẫn phải trả lãi cho khách hàng (người gửi tiền) và trong nhiều trường hợp thì
ngược lại, số vốn huy động không đủ để phục vụ khách hàng (người đi vay tiền)35.
35

GS.TS Lê Văn Tư Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng, trang 232.

18


Ý nghĩa của việc phân loại tiền gửi.
Việc phân chia tiền gửi thành nhiều loại khác nhau có nhiều ý nghĩa đối với
TCTD và người gửi tiền đồng thời còn có ý nghĩa đối với cả các cơ quan quản lý nhà
nước.
Đối với TCTD, trước hết việc phân loại tiền gửi giúp cho TCTD sử dụng vốn
một cách có hiệu quả. Với mỗi loại kỳ hạn vay khác nhau, TCTD phải trả cho khách
hàng gửi tiền một mức lãi suất tương ứng. Nguồn vốn chủ yếu để các TCTD cho vay
là từ nguồn tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng. Đối với nguồn vốn này, chi phí lớn
nhất là khoản trả lãi cho người gửi tiền. Mặt khác, trong tổng số tiền huy động được
TCTD phải giữ lại một phần để duy trì các tỷ lệ bảo đảm an tồn như tỉ lệ dự trữ bắt
buộc, dự phịng rủi ro, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn được sử
dụng để cho vay trung và dài hạn… mà khơng được sử dụng tồn bộ nguồn vốn này để
cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác. Như vậy, để đạt được lợi
nhuận các TCTD ln phải tính tốn mức chênh lệch giữa chi phí huy động vốn và
doanh thu có thể đạt được từ việc sử dụng vốn đó sao cho có sự cân đối hài hịa giữa
lợi ích của khách hàng gửi tiền, của khách hàng vay đồng thời bảo đảm hoạt động của
TCTD có lợi nhuận.

Bên cạnh đó, việc phân loại tiền gửi còn nhằm đảm bảo khả năng chi trả của
TCTD. Đối với tiền gửi không kỳ hạn, giữa TCTD với khách hàng gửi tiền khơng có
sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền, khách hàng gửi tiền có thể rút tiền hoặc sử dụng số
tiền đó để thanh toán cho các giao dịch vào bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo
trước với tổ chức nhận tiền gửi. Do đó, TCTD ln phải duy trì trên tài khoản tiền gửi
của khách hàng số dư đủ để thực hiện việc thanh tốn, chi trả mà khơng thể sử dụng số
tiền gửi này để cho vay hay đầu tư kinh doanh dài hạn.
Đối với tiền có kỳ hạn, TCTD cũng phải tính tốn, lên kế hoạch sử dụng vốn
một cách phù hợp đảm bảo khi đến hạn có thể thu hồi vốn để hồn trả cho khách hàng
gửi tiền.
Trong thực tế, rất ít trường hợp khách hàng đồng thời kéo đến các TCTD rút
tiền gửi gây nên tình trạng mất khả năng thanh khoản tạm thời của các TCTD. Tuy
nhiên, đối với hoạt động kinh doanh nói chung, đặc biệt là kinh doanh trong lĩnh vực
ngân hàng nói riêng thì chữ “Tín” có một vai trị hết sức quan trọng. Sự mất lòng tin
của khách hàng gửi tiền, những người có độ nhạy cảm rất cao đối với việc bảo vệ
quyền lợi của mình, nếu TCTD khơng đảm bảo được khả năng thanh toán cho khách
hàng, đặc biệt là đối với tiền gửi không kỳ hạn, rất có thể dẫn đến hiện tượng “đột biến

19


×