Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Phápluật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.89 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

KIỀU ANH VŨ

PHÁP LUẬT VỀ CHỦ THỂ KÝ KẾT
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HCM - 2011

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ CHỦ THỂ KÝ KẾT
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN: KIỀU ANH VŨ
KHĨA: 32. MSSV: 3220226

TP. HỒ CHÍ MINH, 2011


2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
thông tin, nội dung được trích dẫn trong khóa luận đều được dẫn nguồn
tài liệu tham khảo cụ thể và chính xác.

Tác giả khóa luận

Kiều Anh Vuõ

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ Trang 01
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG, TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG .............................................................................. Trang 07
1.1. Sơ lược về tín dụng ........................................................................................ Trang 07
1.1.1. Sơ lược về sự ra đời của tín dụng.................................................................. Trang 07
1.1.2. Sơ lược về các hình thức của tín dụng .......................................................... Trang 08
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng................................................................. Trang 10
1.2. Khái quát về tín dụng ngân hàng ................................................................ Trang 12
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng ngân hàng ............................................... Trang 12
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng ................................................................... Trang 12
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng .............................................................. Trang 13

1.2.2. Vai trị của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ........................ Trang 14
1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng................................................................. Trang 15
1.2.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng ..................................................................... Trang 15
1.2.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay ...................................................... Trang 16
1.2.3.3. Căn cứ vào mức độ bảo đảm vốn vay ........................................................ Trang 16
1.3. Khái quát về hợp đồng tín dụng .................................................................. Trang 16
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ................................................ Trang 16
1.3.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng..................................................................... Trang 16
1.3.1.2. Đặc điểm hợp đồng tín dụng ...................................................................... Trang 18
1.3.2. Phân loại hợp đồng tín dụng ......................................................................... Trang 19
1.3.2.1. Căn cứ vào thời hạn vay............................................................................. Trang 19
1.3.2.2. Căn cứ vào mức độ bảo đảm vốn vay ........................................................ Trang 19
1.3.2.3. Căn cứ vào mức độ sử dụng vốn vay ......................................................... Trang 20
1.3.3. Nguyên tắc ký kết hợp đồng tín dụng ........................................................... Trang 21
CHƯƠNG 2:
PHÁP LUẬT VỀ CHỦ THỂ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ................... Trang 24
2.1. Sự cần thiết có sự điều chỉnh của pháp luật đối với chủ thể ký kết hợp đồng
tín dụng.................................................................................................................. Trang 24
2.2. Pháp luật về điều kiện chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng ......................... Trang 25
2.2.1. Điều kiện chủ thể đối với bên cho vay trong hợp đồng tín dụng .................. Trang 25
2.2.1.1. Chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng .................................................. Trang 25
2.2.1.2. Những điều kiện chủ thể đối với bên cho vay trong hợp đồng tín dụng.... Trang 28
2.2.2. Điều kiện chủ thể đối với bên vay trong hợp đồng tín dụng......................... Trang 42
2.3. Pháp luật về hạn chế tín dụng đối với các chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng .. Trang 52
2.3.1. Những trường hợp khơng được cấp tín dụng ................................................ Trang 52
2.3.2. Những trường hợp hạn chế tín dụng ............................................................. Trang 54
4


2.3.3. Những trường hợp giới hạn tín dụng ............................................................ Trang 55

2.4. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể ký kết
hợp đồng tín dụng ................................................................................................ Trang 57
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay ............................................................. Trang 57
2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên vay .................................................................... Trang 60
2.5. Một số đề xuất, kiến nghị .............................................................................. Trang 61
2.5.1. Kiến nghị đối với các quy định của pháp luật có liên quan đến điều kiện
chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng của bên cho vay ................................................. Trang 61
2.5.2. Kiến nghị đối với các quy định của pháp luật có liên quan đến điều kiện
chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng của bên vay........................................................ Trang 65
2.5.3. Kiến nghị đối với các quy định hạn chế tín dụng đối với chủ thể
ký kết hợp đồng tín dụng......................................................................................... Trang 66
2.5.4. Đề xuất đối với các chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng ................................. Trang 67
KẾT LUẬN ........................................................................................................... Trang 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Quyết định số 2399/QĐ-NHNN ngày 15/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước
về việc cấp Giấy phép hoạt động cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam
Thương Tín.
Phụ lục 2: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế công ty cổ phần do
Phòng Đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và đàu tư tỉnh Sóc Trăng cấp cho Ngân hàng
Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín.
Phụ lục 3: Quy chế ủy quyền ký kết, thực hiện hợp đồng dân sự, thương mại và tham
gia tố tụng trước pháp luật của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín.
Phụ lục 4: Giấy ủy quyền của Giám đốc chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh - Ngân hàng
Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín cho Giám đốc kinh doanh chi nhánh Tp.
Hồ Chí Minh - Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín.
Phụ lục 5: Hợp đồng tín dụng hạn mức số ASU.DN.02.130111 giữa Ngân hàng
Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín - Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh với khách
hàng (do Giám đốc Chi nhánh ký).
Phụ lục 6: Hợp đồng tín dụng hạn mức số PCH.HM.DN.01160311 giữa Ngân hàng

Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín - Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh với khách
hàng (do Giám đốc kinh doanh ký theo ủy quyền của Giám đốc Chi nhánh).
Phụ lục 7: Hợp đồng tín dụng số 1787/HĐ-CVTSBĐ-TN-ADDON/TCBHCM giữa
Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam - Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh
với khách hàng.

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Qua 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới (1986 – nay) chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã
“tranh thủ, tận dụng được thời cơ và vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác
động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực và tồn cầu, đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”1. Việt Nam đã trở thành thành viên thứ
150 của tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới – WTO. Đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh và ổn định, lạm phát được kiểm sốt ở mức
hợp lí, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đạt được những kết quả đó, ngồi
sự nỗ lực chung của cả nước phải kể đến sự đóng góp của hệ thống ngân hàng đã nỗ
lực không ngừng thực hiện mục tiêu “đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm
phát, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế
và thực hiện thắng lợi cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”2.
Sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng là một trong những điều kiện cơ
bản của sự phát triển, hệ thống ngân hàng được ví như là hệ thần kinh của nền kinh tế.
Đại hội lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định phương hướng phát triển kinh tế trong
những năm tới là “phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao”3. Bên cạnh đó, hệ thống các

tổ chức tín dụng ngày càng lớn mạnh với 3 ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà
nước, 2 ngân hàng chính sách, 39 ngân hàng thương mại cổ phần, 5 ngân hàng liên
doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 53 chi nhánh ngân hàng nước ngồi, 18
cơng ty tài chính, 13 cơng ty cho th tài chính, 1.037 quỹ tín dụng nhân dân,...4

1

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng do đồng chí
Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh trình bày ngày 12/01/2011, Tìm hiểu Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc và Điều
lệ Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Nxb. Thời đại, Hà Nội, tr. 14 – 15.
2
Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, xem thêm tại:
/>A09_X-AYNcAQwNzA_2CbEdFAFjmS9E!/?WCM_PORTLET=PC_7_0D497F540O8A70IOVKL3FS1GE5_WCM&
WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv_vn/vn.sbv.research/vn.sbv.research.research/Mfu
PySn-EKPekHeVLffFiZM2010-03-05-05-29-16
3
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI của
Đảng, Tìm hiểu Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Nxb. Thời
đại, Hà Nội, tr. 146.
4
/>
6


Thực tiễn đó địi hỏi pháp luật ngân hàng phải được tiếp tục nghiên cứu, hồn
thiện nhằm “hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng”5 như định
hướng của Đảng ta đã đề ra trong Chiến lược kinh tế - xã hội 2011 – 2020, cũng như
định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã được
xác định trong Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của

Thủ tướng là: “Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết
chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Xây dựng môi
trường pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng
nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Các chính
sách và quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng góp phần tạo mơi trường lành
mạnh và động lực cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và người dân phát triển sản
xuất kinh doanh”.
Đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, hoạt
động cho vay là hoạt động thường xuyên và chủ yếu nhất. Cơ sở pháp lý của hoạt động
cho vay là hợp đồng tín dụng. Để một hợp đồng tín dụng tồn tại trong thực tế và có
hiệu lực thì hợp đồng tín dụng đó phải được ký kết bởi những chủ thể có năng lực,
thẩm quyền và những điều kiện khác theo quy định của pháp luật. Nếu một hợp đồng
tín dụng được ký kết khơng đáp ứng điều kiện về chủ thể thì bị vô hiệu. Điều này sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng tín dụng đó; đồng thời cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, ổn định
của các tổ chức tín dụng. Từ đó, về mặt vĩ mơ, có thể sẽ dẫn đến những hệ quả khơng
tốt cho nền kinh tế. Chính vì thế, những quy định của pháp luật về chủ thể ký kết hợp
đồng tín dụng là rất quan trọng. Cũng vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về chủ thể ký
kết hợp đồng tín dụng là rất cần thiết, nghiên cứu để hệ thống hóa và làm sáng tỏ
những quy định của pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng, để dễ dàng vận
dụng vào thực tế, tăng tính thực thi của pháp luật. Đồng thời, nghiên cứu về vấn đề này
để thấy được những hạn chế, vướng mắc của pháp luật hiện hành về chủ thể ký kết hợp
đồng tín dụng, đề ra các kiến nghị để xây dựng, hồn thiện pháp luật.
Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hợp đồng tín dụng với
các góc độ nghiên cứu khác nhau nhưng theo khảo sát của người viết, chưa có cơng
trình nghiên cứu chun biệt nào về pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng.
Vì những lý do nêu trên, với sự quan tâm của người viết đối với đề tài này, cùng
với điều kiện thời gian và những hiểu biết của bản thân, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp
5


Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Tìm hiểu Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc và Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Nxb. Thời đại, Hà Nội, tr. 80.

7


luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nói hợp đồng tín dụng là một chủ đề pháp lý rộng lớn thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều tác giả với các đề tài nghiên cứu, góc độ nghiên cứu khác nhau.
Qua q trình khảo sát về tình hình nghiên cứu tại trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh, người viết nhận thấy các tác giả đã tập trung nghiên cứu nhiều về tranh chấp
hợp đồng tín dụng như khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng tín dụng ngân hàng – lí luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Cao Cường
(năm 2002), khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng ngân hàng – thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Kiều Anh Thư
(năm 2003), luận văn cao học “Giải quyết tranh chấp về lãi suất cho vay trong hợp
đồng tín dụng của tổ chức tín dụng tại Tịa án” của tác giả La Hồng (năm 2007), khóa
luận tốt nghiệp “Tranh chấp hợp đồng tín dụng – nguyên nhân và giải pháp qua thực
tiễn giải quyết tại Tòa án” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa (năm 2008), khóa luận
tốt nghiệp “Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng” của tác giả Phạm Lê Ninh
(2010),...Ngồi ra, mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với các hợp đồng, giao dịch
bảo đảm tiền vay cũng đã có tác giả quan tâm nghiên cứu như đề tài “Mối quan hệ giữ
hợp đồng tín dụng và giao dịch bảo đảm tiền vay” của tác giả Nguyễn Thị Kim Liên
(năm 2010). Vấn đề hợp đồng tín dụng vơ hiệu và hậu quả của nó cũng đã được nghiên
cứu qua khóa luận tốt nghiệp “Hợp đồng tín dụng vơ hiệu và xử lý hợp đồng tín dụng
vơ hiệu – thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện” của tác giả Lâm Vương Mỹ Linh
(năm 2003).
Như vậy, các nghiên cứu về hợp đồng tín dụng đã được thực hiện, cơng bố tương

đối nhiều và đa dạng. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên biệt nào về
“Pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng”. Đối với các cơng trình nghiên cứu kể
trên, nội dung pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng khơng phải là chưa được
đề cập đến nhưng chỉ được nghiên cứu ở mức độ sơ lược trong chương viết về lí luận
chung về hợp đồng tín dụng. Trong các đề tài trên, có lẽ chỉ có khóa luận tốt nghiệp
“Hợp đồng tín dụng vơ hiệu và xử lý hợp đồng tín dụng vơ hiệu – thực trạng pháp luật
và hướng hoàn thiện” của tác giả Lâm Vương Mỹ Linh là có đề cập một cách tương
đối cụ thể về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng. Trong khóa luận này, người viết đã
trình bày, phân tích những quy định của pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng
để làm sáng tỏ nội dung hợp đồng tín dụng vơ hiệu do vi phạm điều kiện chủ thể.
Ngoài ra, pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng cũng được đề cập trong một số
cơng trình khác, như: khóa luận “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của Ngân
hàng – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của tác giả Phan Thỵ Tường Vy (năm 2002)
8


có viết về chủ thể hợp đồng tín dụng ngân hàng; khóa luận “Các biện pháp pháp lý
nhằm bảo đảm an toàn hoạt động cho vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng” của
tác giả Lê Thị Quế Châu (năm 2008) có đề cập đến “chủ thể của hợp đồng tín dụng
(hơp đồng cho vay)”.
Khảo sát trên internet và một số tạp chí chuyên ngành Luật và ngân hàng như tạp
chí Khoa học pháp lý, tạp chí Luật học, tạp chí Ngân hàng,... tác giả cũng nhận thấy
rằng đề tài “pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng” cũng chưa được nghiên
cứu nhiều và cũng chỉ được đề cập ở mức độ khái quát, “điểm qua”.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả lựa chọn đề tài khóa luận là “Pháp luật về chủ thể
ký kết hợp đồng tín dụng” như là một nghiên cứu mới trong lĩnh vực này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, tác giả thực hiện khóa luận này là nhằm trang bị thêm cho chính mình
những kiến thức chun mơn nhất định, đồng thời hướng đến việc phục vụ công việc
của tác giả trong tương lai.

Thứ hai, như phần trên đã trình bày, các đề tài nghiên cứu về “pháp luật về chủ
thể ký kết hợp đồng tín dụng” là chưa nhiều và chưa sâu. Do đó, tác giả thực hiện cơng
trình nghiên cứu này nhằm đóng góp thêm một cơng trình nghiên cứu mới trong lĩnh
vực khoa học pháp lý nói chung và pháp luật ngân hàng nói riêng, đồng thời làm phong
phú và đang dạng thêm các nghiên cứu về hợp đồng tín dụng.
Thứ ba, nghiên cứu đề tài này là để hệ thống hóa, đồng bộ hóa những quy định
của pháp luật hiện hành về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng. Đồng thời phân tích, bình
luận, làm sáng tỏ những quy định đó để vận dụng, áp dụng trong thực tế được dễ dàng.
Bên cạnh đó, phát hiện những vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện hành về chủ thể
ký kết hợp đồng tín dụng để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện.
Thứ tư, tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu của mình sẽ được dùng làm tài
liệu tham khảo hữu ích đối với sinh viên chuyên ngành Luật Thương mại nói riêng và
sinh viên ngành Luật, ngành tài chính – ngân hàng nói chung. Người viết cũng hy vọng
đề tài của mình cũng sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho các chủ thể tham gia vào
hoạt động tín dụng, chuẩn bị ký kết hợp đồng tín dụng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Như tên gọi của đề tài, đối tượng nghiên cứu của cơng trình này là những quy
định của pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, để làm tiền đề, nền
tảng cho việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín
dụng, cần phải có những kiến thức lí luận cơ bản có liên quan. Vì thế, tác giả cịn tìm
hiểu một số vấn đề lí luận về tín dụng, tín dụng ngân hàng và hợp đồng tín dụng.
Trọng tâm nghiên cứu của tác giả là những quy định của pháp luật thuộc lĩnh vực
luật ngân hàng về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng. Tuy vậy, vấn đề chủ thể ký kết
9


hợp đồng, dù là hợp đồng tín dụng hay bất cứ hợp đồng nào khác, cũng đồng thời là
một vấn đề thuộc ngành luật dân sự. Vì vậy, lí luận về hợp đồng và chủ thể ký kết hợp
đồng dân sự cũng như các quy định của pháp luật dân sự về chủ thể ký kết hợp đồng
cũng được tác giả quan tâm nghiên cứu, đề cập, vận dụng và kết hợp trình bày trong

cơng trình này để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu của cơng trình là “pháp luật về chủ
thể ký kết hợp đồng tín dụng”. Đây cũng là q trình hệ thống hóa, đồng bộ hóa những
quy định của pháp luật hiện hành về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng mà tác giả đã đề
cập ở trên.
Trong thời gian và điều kiện nghiên cứu có hạn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
về những quy định của pháp luật hiện hành về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng chứ
khơng nghiên cứu tồn bộ những quy định của pháp luật từ trước đến nay về vấn đề
này cũng như không nghiên cứu về sự phát triển, tiến bộ của các quy định pháp luật
qua các thời kỳ, giai đoạn. Những quy định của pháp luật hiện hành được nghiên cứu ở
đây là những quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực luật ngân hàng và ngành luật dân sự
điều chỉnh về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng, chứ khơng điều chỉnh về hợp đồng tín
dụng nói chung cũng như các khía cạnh khác có liên quan đến hợp đồng tín dụng.
“Pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng” được tác giả nghiên cứu là những quy
định của pháp luật được hệ thống hóa nhằm làm sáng tỏ các vấn đề: Một là, ai là chủ
thể ký kết hợp đồng tín dụng? Hai là, các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng tín dụng
cần có những điều kiện gì? Ba là, pháp luật có những quy định nhằm hạn chế tín dụng
đối với các chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng hay khơng? Bốn là, quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng tín dụng là gì? Trên cơ sở đó, tác sẽ có
những nhận định, đánh giá và đề xuất một số kiến nghị đối với những quy định của
pháp luật hiện hành về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cũng như các cơng trình nghiên cứu khác, trong cơng trình này, tác giả cũng vận
dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Tác giả đã vận dụng lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp, so sánh, phân
tích, tổng hợp, tổng – phân – hợp,… trong quá trình nghiên cứu, chú trọng liên hệ thực
tiễn để làm sáng tỏ vấn đề. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đã kế thừa các
thành quả nghiên cứu trước đó nhưng cũng đảm bảo tính khoa học, tính riêng, tính đặc
thù trong cơng trình nghiên cứu của mình. Đồng thời tác giả cũng đã ứng dụng công
nghệ thông tin, internet trong việc nghiên cứu để có được hiệu quả nghiên cứu cao

nhất.
6. Kết cấu của khóa luận

10


Khóa luận bao gồm phần mở đầu, ội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục. Trong đó, nội dung khóa luận được chia làm hai chương như sau:
- Chương 1: Khái quát về tín dụng, tín dụng ngân hàng và hợp đồng tín dụng
1.1. Sơ lược về tín dụng
1.2. Khái quát về tín dụng ngân hàng
1.3. Khái quát về hợp đồng tín dụng
- Chương 2: Pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng
2.1. Sự cần thiết có sự điều chỉnh của pháp luật đối với chủ thể ký kết hợp đồng
tín dụng
2.2. Pháp luật về điều kiện chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng
2.3. Pháp luật về hạn chế tín dụng đối với các chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng
2.4. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng
2.5. Một số đề xuất, kiến nghị

11


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG, TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trước khi nghiên cứu pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng, trước hết
chúng ta cần phải có những hiểu biết cơ bản mang tính khái qt chung về tín dụng nói
chung và tín dụng ngân hàng, hợp đồng tín dụng nói riêng. Vì vậy, trong chương này,
tác giả sẽ trình bày những kiến thức khái quát chung đó, bao gồm ba phần: một là, sơ

lược về tín dụng với các nội dung khái quát nhất về sự ra đời của tín dụng, các hình
thức tín dụng trong nền kinh tế và khái niệm, đặc điểm của tín dụng; hai là một số vấn
đề lí luận cở bản về tín dụng ngân hàng với các nội dung là khái niệm và đặc điểm của
tín dụng ngân hàng; vai trị của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và các
hình thức tín dụng ngân hàng; ba là khái quát về hợp đồng tín dụng với các nội dung
là khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng, phân loại hợp đồng tín dụng và
nguyên tắc ký kết hợp đồng tín dụng. Đây là những kiến thức cần thiết, cơ bản, làm cơ
sở, nền tảng để nghiên cứu chương tiếp theo trong cơng trình này cũng như là cơ sở
chung để nghiên cứu các đề tài khác về tín dụng, hợp đồng tín dụng và ngân hàng.
1.1. Sơ lược về tín dụng
1.1.1. Sơ lược về sự ra đời của tín dụng
Các tài liệu nghiên cứu về tín dụng đều chỉ ra rằng tín dụng đã xuất hiện từ thời
kỳ chiếm hữu nơ lệ, khi xã hội đã có sự phân cơng lao động. Sự phân công lao động xã
hội tạo ra sự phân hóa xã hội: một nhóm người trở nên giàu có, nắm giữ tư liệu sản
xuất, của cải, tiền bạc,...(tạm gọi là nhóm người thứ nhất); trái lại, cũng có những
người thu nhập thấp hoặc không đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống hoặc gặp
những rủi ro, biến cố bất thường,... (tạm gọi là nhóm người thứ hai). Trong tình hình
đó, nhóm người thứ hai có nhu cầu vay mượn tài sản, tiền tệ của nhóm người thứ nhất.
Lúc đầu, việc vay mượn này chỉ mang tính trợ giúp phi kinh tế nhưng về sau một số
người đã lợi dụng việc này để kiếm lời làm giàu cho riêng mình, họ trở thành người
sống bằng nghề cho vay. Như vậy, trong xã hội đã xuất hiện quan hệ cho vay lấy lãi.
Đó chính là sự ra đời của tín dụng.
Lúc bấy giờ, có rất ít người cho vay nhưng lại có rất nhiều người đi vay và việc
đi vay thường rất cấp bách nên lãi suất cho vay rất cao. Vì thế, quan hệ vay mượn trong
thời kỳ này được gọi là tín dụng nặng lãi. Trong thời gian đầu, tín dụng nặng lãi được
thực hiện bằng hiện vật, hàng hóa. Về sau, nó dần dần được tiền tệ hóa theo q trình
mở rộng của quan hệ hàng hóa – tiền tệ.

12



Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, để phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, các
nhà tư bản rất cần bổ sung vốn nhưng không thể chấp nhận quan hệ tín dụng nặng lãi
nên họ đã thơng qua nhà nước, sử dụng tôn giáo, pháp luật để đấu tranh với những
người cho vay nặng lãi. Kết quả là nhà nước ban hành các đạo luật khống chế mức lãi
suất. Về sau, giai cấp tư sản tự góp vốn lại và cho nhau vay với lãi suất vừa phải. Nói
cách khác, họ thiết lập quan hệ tín dụng cho riêng mình. Đây là thời điểm mở đầu cho
giai đoạn phát triển mới ngày càng lớn mạnh của hệ thống tín dụng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển và hiện đại hóa của nền kinh tế thị trường, các
quan hệ và hình thức tín dụng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú, phù hợp với
yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia.
1.1.2. Sơ lược về các hình thức tín dụng
Trong nền kinh tế, tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Căn cứ vào
yếu tố chủ thể, tín dụng bao gồm bốn hình thức sau:
Một là, tín dụng nhà nước.
Theo quan điểm của người viết, có thể hiểu tín dụng nhà nước là quan hệ tín
dụng có sự tham gia của nhà nước với tư cách là chủ thể cho vay hoặc chủ thể đi vay.
Với tư cách là chủ thể cho vay, nhà nước sử dụng nguồn vốn thuộc sở hữu của
mình từ quỹ ngân sách nhà nước để tiến hành cho một số tổ chức, cá nhân vay. Mục
đích của nhà nước khi tham gia vào quan hệ tín dụng này nhằm cung ứng vốn cho một
số chủ thể mà nhà nước có chính sách ưu đãi.
Với tư cách là chủ thể đi vay6, nhà nước (Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh) phát hành các loại trái phiếu để huy động nguồn vốn từ nhân dân (nhân dân là
người cho vay) để tập trung vào quỹ ngân sách nhà nước. Nếu trái phiếu do Bộ tài
chính phát hành thì gọi là trái phiếu Chính phủ7. Trái phiếu Chính phủ bao gồm các
loại trái phiếu, tín phiếu, cơng trái, như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và công
trái xây dựng tổ quốc8. Trái phiếu do Chính quyền địa phương phát hành, cụ thể là Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, thì gọi là trái phiếu chính quyền địa phương9. Như vậy, cơ sở
pháp lý xác lập quan hệ vay mượn này là các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính

quyền địa phương. Nhà nước sẽ thanh toán cả vốn và lãi cho chủ sở hữu những loại trái
phiếu này khi đến hạn. Với tư cách là chủ thể đi vay, nhà nước không chỉ vay từ nhân
6

Mục đích đi vay của nhà nước là để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách
nhà nước; cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ Chính phủ; cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính
quyền địa phương vay lại theo quy định của pháp luật và các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính
quốc gia (Khoản 1 Điều 4 Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011 của Chính phủ).
7
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011 của Chính phủ về phát hành trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu được chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
8
Điều 10 Nghị định Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011 của Chính phủ.
9
Khoản 3 Điều 3 Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011 của Chính phủ.

13


dân, các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước mà trong một số trường hợp, Nhà nước còn
đi vay nước ngồi, có thể là Chính phủ, tổ chức kinh tế nước ngồi hoặc tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế10.
Hai là, tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các thương nhân được thực hiện
thơng qua việc mua bán chịu hàng hóa cho nhau. Khi đến thời hạn đã được thoả thuận,
người mua phải hồn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ cùng với một khoản
lãi. Tín dụng thương mại cịn gọi là tín dụng hàng hóa vì đối tượng của tín dụng thương
mại là hàng hóa, dịch vụ.
Trong tín dụng thương mại, vốn vay tồn tại dưới hình thức hàng hoá chứ chưa
phải là tiền nhàn rỗi. Chủ thể của tín dụng thương mại, người đi vay và người cho vay,

đều là các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào q trình sản xuất và lưu thơng hàng
hố. Trong quan hệ tín dụng thương mại, người đi vay là người mua chịu, người cho
vay là người bán chịu. Đặc điểm của hình thức tín dụng này là cho vay dưới hình thức
hàng hóa, thu nợ dưới hình thức tiền tệ. Cơ sở pháp lý để xác lập quan hệ mua chịu và
bán chịu trong tín dụng thương mại là hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ. Hối
phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát (người bán chịu) lập, yêu cầu người bị
ký phát (người mua chịu) thanh tốn khơng điều kiện một số tiền xác định khi có yêu
cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng11. Hối
phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh tốn khơng điều
kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương
lai cho người thụ hưởng12. Người thụ hưởng có thể là người bán chịu hoặc người khác
theo quy định của pháp luật về các công cụ chuyển nhượng.
Ba là, tín dụng tự huy động vốn.
Tín dụng tự huy động vốn là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc
các doanh nghiệp phát hành trái phiếu để tiến hành huy động vốn phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật trong tín dụng tự huy động vốn là
tờ trái phiếu do các doanh nghiệp được phép phát hành. Trái phiếu là chứng khoán
nhận nợ do các doanh nghiệp phát hành nhằm mục đích bổ sung thêm nguồn vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sỡ dĩ, quan hệ phát hành trái phiếu của các doanh
nghiệp là quan hệ tín dụng vì, căn cứ vào thời hạn cũng như lãi suất được thỏa thuận
trong tờ trái phiếu, chủ thể phát hành sẽ phải hoàn trả cả vốn và lãi cho người sở hữu
10

Theo một số tài liệu, quan hệ tín dụng phát sinh giữa nhà nước Việt Nam với nước ngoài hoặc giữa tổ chức
kinh tế Việt Nam với nước ngồi được gọi là hình thức tín dụng quốc tế. Ví dụ, Giáo trình Luật Ngân hàng của
trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb. Công an nhân dân, năm 2007), tr. 100.
11
Khoản 2 Điều 4 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005.
12

Khoản 3 Điều 4 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005.

14


trái phiếu. Trong quan hệ tín dụng này, chủ thể phát hành trái phiếu là người đi vay,
còn tổ chức, cá nhân sở hữu trái phiếu là chủ thể cho vay13.
Bốn là, tín dụng ngân hàng (cịn gọi là tín dụng của các tổ chức tín dụng).
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là các tổ chức tín dụng, cịn
bên kia là các tổ chức và cá nhân, được thực hiện thông qua việc các tổ chức tín dụng
huy động tiền nhàn rỗi trong cơng chúng và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng theo
ngun tắc có hồn trả cả vốn và lãi vay14.
Trong tín dụng ngân hàng, tổ chức tín dụng đóng vai trị là tổ chức trung gian
trong q trình huy động vốn và cho vay vốn. Các tổ chức tín dụng vừa là người cho
vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi
của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy
động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, các tổ chức tín dụng cung cấp tín
dụng cho các chủ thể khác trong xã hội.
Hiện nay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng được cấp
tín dụng dưới các hình thức cho vay, chiết khấu các giấy tờ có giá, cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và bao thanh tốn15. Trong các hoạt động này, hoạt động cho vay là
hoạt động thường xuyên, chủ yếu và phổ biến nhất. Cơ sở pháp lý của hoạt động cho
vay là hợp đồng tín dụng. Mặc dù cũng là quan hệ tín dụng ngân hàng như hoạt động
cho vay nhưng các hợp đồng nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong các
quan hệ cho thuê tài chính, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá, bao thanh tốn khơng
gọi là hợp đồng tín dụng. Trong quan hệ cho thuê tài chính, các bên ký kết hợp đồng
cho thuê tài sản; trong hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá, các bên ký kết hợp đồng
chiết khấu giấy tờ có giá,...
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là huy động vốn và cho vay đều được thực hiện
dưới hình thức chủ yếu là tiền tệ, vì vậy nó có thể đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn

của các chủ thể. Nhờ đặc điểm này mà tín dụng ngân hàng là tín dụng phổ biến, linh
hoạt nhất trong nền kinh tế thị trường.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng
Mặc dù tín dụng đã ra đời từ rất lâu và tồn tại với nhiều hình thức khác nhau như
đã nêu trên nhưng cho đến nay, dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất, đầy
đủ về tín dụng. Khái niệm tín dụng đã được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa ở các góc
độ khác nhau. Có tác giả định nghĩa theo cách giải thích nguồn gốc của thuật ngữ này,
có tác giả giải thích nghĩa của từ, có tác giả định nghĩa theo dạng liệt kê,...
13

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, khoa Luật Thương mại (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 212.
14
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, khoa Luật Thương mại (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 210.
15
Khoản 14 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010.

15


Theo tìm hiểu của người viết, ở Việt Nam, từ cuối thập niên 60 đầu thập niên 70
của thế kỷ trước, những tác phẩm đầu tiên nghiên cứu về tín dụng – ngân hàng đã xuất
hiện16 và thuật ngữ “tín dụng” cũng đã bắt đầu được định nghĩa. Theo đó, tín dụng
được nhìn nhận như sau: “có 3 yếu tố chánh phối hợp lẫn nhau để tạo thành tín dụng.
Ba yếu tố đó là: “thời giờ, tín nhiệm và sự hứa hẹn hồn trái”17.
Ngày nay, các định nghĩa, giải thích về “tín dụng” rất đa dạng:
- Theo tập bài giảng Luật tài chính – ngân hàng Việt Nam của trường Đại học
Luật Hà Nội thì “tín dụng là quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa người cho
vay và người đi vay theo ngun tắc có hồn trả, dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm”18.

- Theo sách “Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng” của tác giả Lê Văn Tư, “Danh từ tín
dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp, như: bán chịu hàng hóa (vante à
crédit), cho vay, chiết khấu (escompte), bảo lãnh (acceptation), ký thác (dépôt), phát
hành giấy bạc”19.
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hùng, tác giả quyển “Lý thuyết tài chính – tiền tệ”
thì “Thuật ngữ tín dụng xuất phát từ chữ Latinh “creditium,” có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm. Trong tiếng Anh, được gọi là credit. Theo ngơn ngữ dân gian Việt Nam, tín
dụng có nghĩa là sự vay mượn”20.
- Theo Từ điển Luật học, “tín dụng là mối quan hệ giữa người cho vay và người
vay. Theo đó, người cho vay chuyển giao quyền sử dụng một lượng tài sản cho người
vay trong một thời hạn nhất định. Khi đến hạn trả nợ, người vay phải hồn trả người
cho vay lượng tài sản đã vay có hoặc khơng kèm theo một khoản lãi”21.
- Theo Giáo trình Luật Ngân hàng của trường Đại học Luật Hà Nội thì “Tín dụng
là một từ Hán – Việt với nghĩa gốc là “tin dùng” – sử dụng với sự tín nhiệm. Dần dần
từ này được sử dụng với nghĩa là giao vốn, tài sản trên cơ sở của sự tín nhiệm”22.
- Theo Giáo trình Lý thuyết tiền tệ của tác giả Nguyễn Minh Kiều thì “về mặt tài
chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang
cho người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định”23.
- Theo Giáo trình Luật Ngân hàng của trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thì
“tín dụng là tổng hợp các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chuyển giao và sử

16

Năm 1969, quyển sách đầu tiên bằng tiếng Việt nghiên cứu về ngân hàng và ngoại thương “Nghiệp vụ Ngân
hàng dẫn giải – Luật lệ ngoại thương và hối đoái” của tác giả Nguyễn Văn Tuyền được xuất bản. Năm 1973, tác
giả này tiếp tục cho xuất bản quyển “Tín dụng – Ngân hàng – Lý thuyết và thực hành”.
17
Nguyễn Văn Tuyền (1973), Tín dụng – Ngân hàng – Lý thuyết và thực hành, tr.11.
18
Trường Đại học Luật Hà Nội (1995), Tập bài giảng Luật tài chính - Ngân hàng Việt Nam, tr. 144 – 145.

19
Lê Văn Tư (1997), Tiền tệ, Tín dụng và ngân hàng, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.96.
20
Nguyễn Ngọc Hùng (1998), Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.333.
21
Tủ sách tri thức bách khoa (1999), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 493.
22
Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 97 – 98.
23
Nguyễn Minh Kiều (2008), Giáo trình Lý thuyết tiền tệ, Nxb. Thống kê, TP. HCM, tr. 96.

16


dụng tạm thời các nguồn vốn tiền tệ, tài sản nhất định dựa trên ngun tắc có hồn trả
cả vốn và lãi vay”24...
Tựu trung lại, theo người viết, có thể hiểu tín dụng là một quan hệ vay mượn dựa
trên sự tin tưởng, tín nhiệm, có thời hạn và có hồn trả cả vốn và lãi vay. Theo đó, bên
cho vay chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản cho bên vay để bên vay sử
dụng theo mục đích vay trong một thời hạn nhất định. Khi đến hạn, bên vay có nghĩa
vụ hồn trả cả vốn cho bên vay, kèm theo lãi suất.
Từ định nghĩa nêu trên, có thể thấy tín dụng có các đặc điểm sau:
- Một là, cơ sở thiết lập quan hệ tín dụng là sự tin tưởng, tín nhiệm. Sự tin tưởng,
tín nhiệm được thể hiện ở chỗ bên cho vay tin rằng bên vay sẽ có khả năng hồn trả
những gì đã vay kèm theo lãi vay. Sự tin tưởng có thể dựa trên uy tín của bên vay, khả
năng kinh tế của bên vay hoặc sự đảm bảo của bên thứ ba. Bên cạnh đó, ngày nay, sự
tin tưởng, tín nhiệm còn xuất phát từ sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ này.
Hai là, tín dụng là một quan hệ chuyển giao quyền sở hữu có thời hạn. Trong
quan hệ tín dụng, bên cho vay chuyển giao cho bên vay các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài
sản và đây là sự chuyển giao quyền sở hữu nhưng có thời hạn. Là sự chuyển giao

quyền sở hữu vì thực tế bên cho vay đã chuyển giao cả ba quyền năng chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt cho bên vay. Sự chuyển giao này là sự chuyển giao có thời hạn vì
khi đến thời điểm nhất định, bên vay phải hoàn trả nguồn vốn đã vay cho bên vay, kèm
với lãi suất.
Ba là, tín dụng là quan hệ có sự hoàn trả. Bên vay chỉ được bên cho vay chuyển
giao quyền sử hữu trong một thời hạn nhất định. Vì vậy, tất yếu khi đã hết thời hạn vay
thì bên vay phải hoàn trả vốn đã vay kèm với lãi suất cho bên cho vay.
1.2. Khái quát về tín dụng ngân hàng
Trên đây là sơ lược về sự ra đời của tín dụng, các hình thức tín dụng trong nền
kinh tế và khái niệm, đặc điểm của tín dụng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này,
đối tượng nghiên cứu trọng tâm là pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng nên từ
phần này trở đi, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về các nội dung có liên quan mật thiết
nhất với đối tượng nghiên cứu của đề tài như tín dụng ngân hàng, hợp đồng tín dụng,
hoạt động cho vay và những quy định của pháp luật về chủ thể ký kết hợp đồng tín
dụng. Trong phần này, tác giả trình bày một số vấn đề lí luận về tín dụng ngân hàng.
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế. Trong quan
hệ tín dụng này, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là tổ chức trung gian, đứng ra huy
24

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, khoa Luật Thương mại (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 203.

17


động nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay lại nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của một số tổ
chức, cá nhân, đồng thời các tổ chức tín dụng kiếm lời từ việc cho vay lại từ nguốn vốn
nhàn rỗi này. Như vậy, có thể hiểu tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng được biểu

hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc tài sản, phát sinh giữa một bên là các tổ chức tín dụng
với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu vay vốn, trong đó ngân
hàng giữ vai trị vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Tuy vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ nghiên cứu khía
cạnh tổ chức tín dụng tham gia vào quan hệ tín dụng với tư cách là người cấp tín dụng,
là chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng nên khái niệm tín dụng ngân hàng được
hiểu như sau: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa tổ chức tín dụng (bên cấp tín dụng)
với các tổ chức và cá nhân (bên đi vay), trong đó tổ chức tín dụng thực hiện việc
chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản cho bên đi vay trong một thời gian nhất
định theo ngun tắc có hồn trả cả vốn và lãi vay”25.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng cũng là một hình thức tín dụng nên nó cũng mang những đặc
điểm chung của tín dụng như đã trình bày ở phần trên là: cơ sở thiết lập quan hệ tín
dụng ngân hàng là sự tin tưởng, tín nhiệm; tín dụng ngân hàng cũng là một quan hệ
chuyển giao quyền sở hữu có thời hạn; tín dụng ngân hàng là quan hệ có sự hồn trả.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cịn có một số đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, một bên tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng ln là các tổ chức tín
dụng hoặc các tổ chức khác được phép thực hiện hoạt động ngân hàng. Vì trong quan
hệ tín dụng này, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là tổ chức trung gian, đi vay để cho
vay. Do đó, các tổ chức tín dụng ln là một bên trong quan hệ tín dụng ngân hàng, có
thể là bên vay (khi đi vay) hoặc bên cho vay (khi cấp tín dụng).
Thứ hai, đối tượng cấp tín dụng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ hoặc tài sản. Là
chủ thể cấp tín dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các tổ chức tín dụng có thể cấp
tín dụng dưới các hình thức cho vay, chiết khấu các giấy tờ có giá, cho th tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và bao thanh tốn. Trong các hình thức cấp tín dụng này thì vốn
tiền tệ là đối tượng trong hoạt động cho vay, bảo lãnh, chiết khấu và bao thanh tốn của
tổ chức tín dụng, cịn tài sản là đối tượng trong hoạt động cho thuê tài chính.
Thứ ba, thời hạn cho vay trong tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Do
tổ chức tín dụng được phép huy động vốn dưới nhiều kỳ hạn khác nhau nên khi cấp tín
dụng, tổ chức tín dụng có thể đáp ứng các nhu cầu vay vốn với các kỳ hạn khác nhau

của các bên đi vay. Thời hạn cho vay trong tín dụng ngân hàng đa dạng ở chỗ có thời

25

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, khoa Luật Thương mại (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 213.

18


hạn vay ngắn hạn (đến 12 tháng), có thời hạn vay trung hạn (trên 12 tháng đến 60
tháng) và có thời hạn vay dài hạn (trên 60 tháng)26.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn có sinh lãi. Lãi là phần chênh
lệch giá trị giữa nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản mà bên cho vay nhận được từ sự hoàn
trả của bên vay so với giá trị của nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản đã cho vay ban đầu.
Trong hoạt động cấp tín dụng, thơng qua công cụ lãi suất, qua sự chênh lệch giữa lãi
suất huy động và lãi suất cho vay, các tổ chức tín dụng thường thu về một phần lợi
nhuận cho mình. Do đó, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn có sinh lãi và hoạt
động ngân hàng được xem là hoạt động kinh doanh, là hoạt động có sinh lợi.
1.2.2. Vai trị của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng có vai trị quan trọng trong việc giữ gìn sự
ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, được thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế
vĩ mô của Nhà nước .
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế về mặt vĩ
mô. Sự quản lý, điều tiết này của Nhà nước được thực hiện qua nhiều chính sách, cơng
cụ khác nhau. Trong đó, chính sách tiền tệ quốc gia và các cơng cụ thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia được sử dụng thường xuyên và chủ yếu. Các công cụ để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc và nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của

Chính phủ. Và để thực hiện các cơng cụ này của chính sách tiền tệ, Nhà nước (Ngân
hàng Nhà nước, Chính phủ) phải thực hiện thơng qua các tổ chức tín dụng – chủ thể
của tín dụng ngân hàng hay nói cách khác thơng qua tín dụng ngân hàng, Nhà nước sử
dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ quốc gia để điều tiết nền kinh tế vĩ mơ. Có thể
nói tín dụng ngân hàng là “phương tiện của chính sách tiền tệ quốc gia”, Nhà nước
thông qua “phương tiện” này để sử dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ quốc gia, từ
đó điều tiết nền kinh tế vĩ mơ. Điều đó cho thấy tín dụng ngân hàng đóng vai trị rất
quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mơ của Nhà nước.
Hai là, tín dụng ngân hàng góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế ln xảy ra hiện tượng cùng một lúc có những chủ thể tạm thời
dư thừa về vốn (vốn nhàn rỗi) do họ khơng có nhu cầu sử dụng hoặc do yếu tố sản xuất
mang tính thời vụ trong khi các chủ thể khác lại có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh
doanh, đầu tư, tiêu dùng,... Sự dư thừa và thiếu hụt tạm thời về vốn như vậy địi hỏi cần
phải sự điều hồ vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Khi ấy, cần đến tín dụng ngan hàng. Tín
dụng ngân hàng đóng vai trị là chiếc cầu nối để các tổ chức, cá nhân điều hòa nhu cầu
26

Theo Điều 8 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành kèm theo Quyết định số
1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (gọi tắt là Quy chế cho vay 1627).

19


về vốn lẫn nhau. Các tổ chức tín dụng tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng nhằm
kiếm lời trên số vốn tạm thời nhàn rỗi, ngược lại bên vay có thể giải quyết được nhu
cầu tạm thời thiếu vốn của mình. Như vậy, thơng qua tín dụng ngân hàng, nguồn vốn
được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu, đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể trong
nền kinh tế thị trường.
Ba là, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát
triển, là địn bẩy trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân27.

Nhờ vào vai trò điều hòa vốn của tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp được đáp
ứng nhu cầu về vốn để đảm bảo quá trình sản xuất bình thường và đầu tư, phát triển
sản xuất, trang trải các chi phí lưu thơng, đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng. Trong
nền kinh tế, không phải chỉ có một vài doanh nghiệp có nhu cầu về vốn, cần đến tín
dụng ngân hàng mà là rất nhiều doanh nghiệp, thuộc các lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Thông qua tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề kinh tế được
đáp ứng vốn kịp thời, giúp họ đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều hàng hóa cho xã hội.
Nhờ vậy, nền sản xuất hàng hóa cũng phát triển theo và kéo theo sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện tạo điều kiện thúc đẩy
nền sản xuất hàng hóa phát triển, thật sự là địn bẩy trong việc phát triển nền kinh tế
quốc dân.
Bốn là, tín dụng ngân hàng góp phần phát triển, nâng cao đời sống xã hội.
Như phần trên đã trình bày, tín dụng ngân hàng giúp đáp ứng nhu cầu vốn của doanh
nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa. Nhờ vậy, các doanh nghiệp cũng sẽ
phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp làm cho họ tăng quy mô sản xuất, cần nhiều
nhân cơng, qua đó góp phần giải quyết nhu cầu lao động, việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong xã hội. Cũng thơng qua tín dụng ngân hàng, và thơng qua các chính sách hỗ trợ vốn
thơng qua tín dụng của Nhà nước đối với các đối tượng dân cư, người dân có vốn để sản
xuất, từng bước cải thiện đời sống của họ (chẳng hạn như tín dụng đối với người nghèo,
các đối tượng chính sách khác; hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội). Doanh nghiệp
và người dân được đáp ứng nhu cầu về vốn để đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh sẽ làm cho nền sản xuất hàng hóa phát triển, giúp cho tổng sản phẩm quốc nội tăng
cao, thu ngân sách dồi dào và từ đó, đời sống nhân dân cũng được nâng cao.
1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Các hình thức tín dụng ngân hàng rất đa dạng. Tùy theo các tiêu chí phân loại mà
có các hình thức tín dụng ngân hàng khau nhau. Dưới đây là một số căn cứ phân chia
tín dụng ngân hàng và các hình thức của của nó.
1.2.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
27


Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, khoa Luật Thương mại (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 204.

20


Theo tiêu chí này, tín dụng ngân hàng được chia làm ba loại, đó là:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm (12 tháng),
thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ
nhu cầu cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm (trên
12 tháng đến 60 tháng), được dùng để đáp ứng nhu cầu về vốn để mua sắm tài sản cố
định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật và mở rộng, xây dựng các cơng trình nhỏ, có thời
gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm (trên 60 tháng), được
sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường sá,
bến cảng, sân bay...), cải tiến, đầu tư công nghệ mới và mở rộng sản xuất có quy mơ
lớn.
1.2.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Theo cách phân loại này, tín dụng ngân hàng có hai loại:
- Tín dụng cho sản xuất kinh doanh: là loại tín dụng cấp cho các doanh nghiệp
và các chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thơng hàng hố.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại và những hàng hóa tiêu dùng khác.
1.2.3.3. Căn cứ vào mức độ bảo đảm vốn vay
Theo căn cứ này, tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: là loại tín dụng mà khi đi vay, người vay có
tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản
của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín dụng khác) để đảm bảo khả năng hồn trả
nợ vay.

- Tín dụng khơng có bảo đảm bằng tài sản: là loại tín dụng khơng có tài sản cầm
cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng hoàn trả của
khoản vay mà việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo đảm bằng tín chấp
của các tổ chức đồn thể, chính trị - xã hội. Hình thức tín dụng này thường áp dụng đối
với các cá nhân và hộ gia đình với một khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng để phục vụ
kinh tế gia đình.
1.3. Khái qt về hợp đồng tín dụng
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1.3.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
Hợp đồng, hiểu một cách chung nhất, là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập
quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể. Bản chất của hợp đồng là sự tự nguyện
thỏa thuận và thống nhất ý chí. Hiện nay, tồn tại rất nhiều loại hợp đồng: hợp đồng dân
sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động,... Hợp đồng tín dụng cũng là một trong các
21


loại hợp đồng phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay, nhất là trong điều kiện hệ thống
các tổ chức tín dụng ngày càng lớn mạnh.
Tuy hợp đồng tín dụng ngày càng phổ biến nhưng hiện nay pháp luật ngân hàng
nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung khơng đưa ra định nghĩa về hợp đồng tín
dụng. Ngay cả Luật các tổ chức tín dụng hiện hành là Luật các tổ chức tín dụng 2010,
vừa có hiệu lực ngày 01/01/2011, cũng khơng có bất kỳ điều luật riêng biệt nào quy
định về hợp đồng tín dụng mặc dù trước đó Luật các tổ chức tín dụng 1997 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2004) cũng đã có một điều luật quy định về hợp đồng tín dụng tại
Điều 5128. Vì thế, hiện nay, hợp đồng tín dụng chỉ cịn được quy định tại Điều 17 Quy
chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (đã được
sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 và Quyết
định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005) (sau đây gọi chung là Quy chế cho vay
1627). Cụ thể: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập

thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục
đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay,
hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác
được các bên thoả thuận”. Điều luật này hầu như hoàn toàn giống với quy định Điều 51
của Luật các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004).
Như vậy, pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa về hợp đồng tín dụng mà
chỉ quy định những nội dung cơ bản của hợp đồng tín dụng. Do đó, để định nghĩa hợp
đồng tín dụng, cần phải dựa vào định nghĩa hợp đồng dân sự vì khái niệm hợp đồng
dân sự trong Bộ luật Dân sự 2005 được xem là khái niệm chung về hợp đồng. Hợp
đồng dân sự được định nghĩa tại Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 như sau: “Hợp đồng
dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Từ quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay 1627, định nghĩa về hợp
đồng dân sự và định nghĩa về tín dụng ngân hàng, có thể hiểu hợp đồng tín dụng là sự
thỏa thuận bằng văn bản giữa các tổ chức tín dụng (bên cho vay) với các tổ chức, cá
nhân (bên đi vay) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quá trình vay vốn tiền tệ, sử dụng và thanh toán tiền vay.
Xuất phát từ quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay 1627, có thể thấy hợp đồng
tín dụng chính là cơ sở pháp lý của hoạt động cho vay và hợp đồng tín dụng chỉ được

28

“Việc cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện
vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài
sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận”.

22


lập trong quan hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng vay. Vì vậy, hợp
đồng tín dụng còn được gọi là hợp đồng cho vay.

1.3.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng được xem là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự nên nó
cũng mang những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự như: mang tính tự do ý chí của
các bên, thỏa thuận tự nguyện,... Bên cạnh đó, hợp đồng tín dụng có những đặc điểm
riêng biệt như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, một bên chủ thể luôn là các tổ chức tín dụng với tư cách là
bên cho vay. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều các tổ chức tín dụng (trường hợp
cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định: thủ tục thành lập, vốn pháp định, có
điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y và có đại diện hợp pháp khi tham gia ký kết
hợp đồng tín dụng,... Cịn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân thoả mãn những điều kiện vay vốn. Chủ thể của hợp đồng tín dụng cũng là chủ
thể ký kết hợp đồng tín dụng. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là các quy
định của pháp luật hiện hành đối với các chủ thể này.
Thứ hai, về hình thức, hợp đồng tín dụng ln được ký kết dưới hình thức văn
bản. Mặc dù hợp đồng tín dụng được hình thành trên cơ sở tín nhiệm, tin cậy lẫn nhau,
song do tính chất phức tạp, tính rủi ro cao của quan hệ tín dụng mà hợp đồng tín dụng
nhất thiết phải được thể hiện bằng văn bản với đầy đủ nội dung về điều kiện vay, mục
đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo
đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên
thoả thuận. Hợp đồng tín dụng được ký kết dưới hình thức pháp lý là văn bản bao gồm
cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng dưới dạng thông điệp dữ liệu. Dù hợp
đồng tín dụng ký kết dưới hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và
đều là chứng cứ trong q trình giao dịch29. Thơng thường, hợp đồng tín dụng là hợp
đồng mẫu do chính tổ chức tín dụng soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù
hợp với quy chế cho vay của chính tổ chức tín dụng đó. Tên gọi của hợp đồng tín dụng
có thể là hợp đồng tín dụng, hợp đồng cho vay,... Hoặc phụ thuộc vào thời hạn vay,
mục đích vay mà có thể có thêm các cụm từ “ngắn hạn”, “trung hạn”, “dài hạn”, “đồng
Việt Nam”, “ngoại tệ”, “tiêu dùng”,...
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng tín dụng ln là vốn tiền tệ. Vốn tiền tệ trong
hợp đồng tín dụng có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Ngồi ra, trong từng

thời kỳ, vàng cũng có thể trở thành vốn tiền tệ trong hoạt động cho vay cũng như là đối
tượng của hợp đồng tín dụng. Chẳng hạn, trong giai đoạn từ 29/10/2010 đến ngày
01/5/2011, theo Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010, các tổ chức tín
29

Xem Khoản 1 Điều 124 BLDS 2005 và Điều 11, 12, 13, 14 Luật giao dịch diện tử năm 2005.

23


dụng được phép cho vay vốn bằng vàng nên vàng trong giai đoạn này là đối tượng của
hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay theo Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày
29/4/2011 của Ngân hàng Nhà nước (có hiệu lực từ ngày 01/5/2011) thì hiện nay, các
tổ chức tín dụng khơng được phép cho vay bằng vàng nên vàng khơng cịn là đối tượng
của hợp đồng tín dụng nữa.
Thứ tư, hợp đồng tín dụng ln nhằm mục đích sinh lợi.
Tính chất sinh lợi của hợp đồng tín dụng biểu hiện cụ thể qua tỷ số chênh lệch
giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn của tổ chức tín dụng. Lãi suất cho vay
luôn cao hơn lãi suất huy động vốn và sự chênh lệch này phụ thuộc vào cung cầu về
vốn trên thị trường tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể. Tổ chức tín dụng là doanh
nghiệp hoạt động theo quy định của luật các tổ chức tín dụng và các quy định của pháp
luật khác có liên quan, hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là hoạt động kinh
doanh nên mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận không chỉ là điều tất yếu mà cịn là động lực
giúp tổ chức tín dụng duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng càng nhiều,
hợp đồng tín dụng càng tăng thì lợi nhuận của tổ chức tín dụng cũng sẽ tăng.
1.3.2. Phân loại hợp đồng tín dụng
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại hợp đồng tín dụng, dưới đây là một số
tiêu chí:
1.3.2.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Theo tiêu chí này, hợp đồng tín dụng có 3 loại:

- Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: là những hợp đồng tín dụng mà thời hạn cho vay
đến 12 tháng30.
- Hợp đồng tín dụng trung hạn: là những hợp đồng tín dụng mà thời hạn cho vay
từ trên 12 tháng đến 60 tháng31.
- Hợp đồng tín dụng dài hạn: là những hợp đồng tín dụng mà thời hạn cho vay từ
trên 60 tháng32.
1.3.2.2. Căn cứ vào mức độ bảo đảm vốn vay
Hợp đồng tín dụng được chia thành:
- Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: là sự thoả thuận bằng văn bản
giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng chấp thuận để khách
hàng sử dụng vốn vay trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hồn trả và bảo
đảm nghĩa vụ bằng tài sản của người vay hoặc người thứ ba.
- Hợp đồng tín dụng khơng có bảo đảm bằng tài sản: là sự thoả thuận bằng văn
bản giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng chấp thuận để khách
30

Căn cứ vào khoản 1 Điều 8 Quy chế cho vay 1627.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Quy chế cho vay 1627.
32
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Quy chế cho vay 1627.
31

24


hàng sử dụng vốn vay trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hồn trả, dựa trên
sự bảo đảm bằng uy tín của các tổ chức chính trị - xã hội đối với người đó hoặc hồn
tồn dựa trên sự tín nhiệm của mình đối với người đó mà khơng cần phải có tài sản bảo
đảm.
1.3.2.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay

Theo cách phân loại này, hợp đồng tín dụng có thể phân chia thành hai loại:
- Hợp đồng tín dụng tiêu dùng: là hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng
với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại
và những hàng hóa tiêu dùng khác.
- Hợp đồng tín dụng cho sản xuất kinh doanh: là hợp đồng tín dụng giữa các tổ
chức tín dụng với các chủ thể kinh doanh.
Ngồi ra, trong thực tế cịn có các loại hợp đồng như: hợp đồng tín dụng nguyên
tắc, hợp đồng tín dụng hạn mức33. Hợp đồng tín dụng nguyên tắc là hợp đồng tín dụng
mà trong đó các bên xác định các ngun tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ
về việc cho vay một số vốn nhất định khi bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều
kiện vay vốn theo quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. Hợp đồng
tín dụng nguyên tắc là căn cứ để ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các hợp đồng tín
dụng cụ thể sau này. Khi ấy, hợp đồng tín dụng cụ thể có thể khơng cần nhắc lại những
thoả thuận chung đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nguyên tắc. Các bên thường
sử dụng hợp đồng tín dụng nguyên tắc trong trường hợp bên vay có nhiều tài sản bảo
đảm đưa vào ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra trong một thời gian dài. Khi đó
hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo đảm cho hợp đồng tín dụng ngun
tắc, thay vì cứ mỗi hợp đồng tín dụng lại phải ký một hợp đồng bảo đảm tiền vay, vừa
mất chủ động trong giao dịch vay vốn, vừa tốn kém chi phí định giá, cơng chứng, đăng
ký thế chấp lại.
Hợp đồng tín dụng hạn mức là hợp đồng tín dụng cụ thể nhưng có thêm điều
khoản cho phép bên vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay trong
mọi thời điểm không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận. Mỗi lần vay
vốn, bên vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều hợp đồng tín dụng với
những điều kiện tương tự nhau34.

33

Trương Thanh Đức, Hợp đồng tín dụng (quy định và thực tiễn), />34
Xem thêm các hợp đồng tín dụng hạn mức trong phần phụ lục.


25


×