Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ở việt nam (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HUỲNH MINH QN

QUYỀN TỰ DO NGƠN LUẬN
TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYỀN TỰ DO NGƠN LUẬN
TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ MINH KHƠI
Học viên: HUỲNH MINH QN.
Lớp: Cao học luật Khóa 21

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các số


liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

HUỲNH MINH QUÂN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HRC

: Ủy ban nhân quyền của Liên Hợp Quốc

ICCPR

: Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị

QCN

: Quyền con người

QTDNL

: Quyền tự do ngôn luận

UDRH

: Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên Hợp Quốc



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN
LUẬN TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM ........................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ......... 6
1.1.1. Khái niệm quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí ......................... 6
1.1.2. Đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí .......................... 9
1.2. Vai trị, ý nghĩa quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí ............... 15
1.2.1. Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.............................................. 16
1.2.2. Phản biện xã hội ..................................................................................... 16
1.2.3. Chức năng thông tin ............................................................................... 17
1.2.4. Chức năng phản ánh – quản lý xã hội .................................................... 17
1.2.5. Chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp sức định hướng dư luận xã hội ... 18
1.2.6. Chức năng nâng cao dân trí ................................................................... 18
1.3. Nội dung quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí .......................... 19
1.3.1. Quyền tự do tiếp cận báo chí .................................................................. 19
1.3.2. Quyền trình bày quan điểm của mình ..................................................... 21
1.3.3. Quyền phê bình, đánh giá các chính sách cơng ...................................... 22
1.3.4. Quyền không bị kiểm duyệt trái pháp luật .............................................. 23
1.3.5. Quyền bình đẳng và khơng bị phân biệt đối xử ....................................... 25
1.3.6. Quyền được sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ viết hoặc nói, bảo vệ quyền khi bị
xâm hại ............................................................................................................. 26
1.4. Biện pháp đảm bảo thực hiện quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo
chí ........................................................................................................................ 27
1.4.1. Vai trị, ý nghĩa của những biện pháp bảo đảm quyền tự do ngơn luận
trong lĩnh vực báo chí ....................................................................................... 27
1.4.2. Những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực
báo chí trên thực tế ở Việt Nam hiện nay .......................................................... 29



CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TRONG LĨNH
VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM VÀ HƯỚNG HỒN THIỆN ........................... 35
2.1. Thực trạng pháp luật về quyền và các biện pháp đảm bảo quyền tự do
ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ...................................................................... 35
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận trong lĩnh
vực báo chí ....................................................................................................... 35
2.1.2 Thực trạng quy định pháp luật về các biện pháp để bảo đảm quyền tự do
ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ...................................................................... 44
2.2. Thực tiễn thực thi quyền và biện pháp đảm bảo quyền tự do ngơn luận
trong lĩnh vực báo chí ........................................................................................ 54
2.2.1 Thực tiễn thực thi quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ............ 54
2.2.2. Thực tiễn thực thi các biện pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong
lĩnh vực báo chí ................................................................................................ 62
2.3. Một số giải pháp hồn thiện quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo
chí ........................................................................................................................ 71
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự do ngôn luận giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển ổn định của mỗi
quốc gia và là quyền cơ bản của công dân. Đồng thời là biểu hiện trực tiếp của quan
niệm, chính sách nhân quyền của mỗi quốc gia nên quyền tự do ngôn luận không
chỉ là sự quan tâm của những người cầm quyền ở mỗi quốc gia, mà còn là một đòi
hỏi cơ bản của quyền con người, là nhu cầu tinh thần trong tiến trình tồn tại và phát
triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời đại bùng nổ thơng tin.
Báo chí là một trong những phương thức hiệu quả nhất để thực hiện quyền tự

do ngôn luận, tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước. Vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội cũng như định
hướng phát triển trong mọi lĩnh vực của đất nước. Thơng qua các loại hình báo chí,
các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhanh chóng được
truyền tải đến các tầng lớp nhân dân, đáp ứng được nhu cầu văn hóa, nâng cao dân
trí, giải trí của nhân dân.
Luật Báo chí 2016 đã có hiệu lực bên cạnh việc tạo một hành lang pháp lý
tương đối đồng bộ cho việc quản lý báo chí từ trước đến nay, thì đã có một bước tiến
là dành hẳn Chương II quy định quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí của
cơng dân. Tuy nhiên nội dung liên quan đến quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực
báo chí thì luật chưa có những quy định mang tính nguyên tắc nhằm khái quát quyền
tự do ngôn luận cũng như giới hạn về quyền này trong luật, đồng thời chưa có những
quy định chi tiết hướng dẫn để đảm bảo quyền tự do ngôn luận của công dân.
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay việc
nghiên cứu quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí là rất cần thiết vì một loạt
lí do được thể hiện trên các bình diện chủ yếu dưới đây.
Về mặt lập pháp: Hiện nay, Luật báo chí năm 2016 đã có hiệu lực mặc dù đã có
sự kế thừa nội dung quy định về quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí của Luật
Báo chí 1989. Tuy vậy Luật báo chí 2016 vẫn chưa có những quy định thật sự cần thiết
nhằm đảm bảo quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí của cơng dân và đây được
xem là hạn chế khá lớn của luật đối với việc đảm bảo quyền này trên thực tế.
Về mặt lý luận: Trong nhà nước pháp quyền thì quyền tự do ngơn luận đặc biệt
quan trọng vì “tự do ngơn luận là hạt nhân của dân chủ, là quyền căn bản của con
người”1, và báo chí là phương tiện hiệu quả nhất để thực hiện quyền tự do ngôn
luận của công dân. Tuy vậy, từ khi Luật Báo chí năm 1989 được ban hành đến nay
1

Nigel Warburton (2009), Free Speech: A Very Short Introduction, New York: Oxford University, tr1-21



2
là Luật báo chí 2016 thì vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chun khảo độc
lập nào đề cập riêng đến việc nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về quy
định của pháp luật về quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí.
Về mặt thực tiễn: Việc xây dựng một cơ chế để đảm bảo quyền tự do ngơn
luận trên báo chí là việc làm đúng và nếu Luật Báo chí quy định một cách hoàn
thiện các chế định liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực
báo chí thì sẽ góp phần cho việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo hướng
dân chủ, pháp quyền, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời bảo đảm quyền tự
do dân chủ của cơng dân.
Về mặt chính trị xã hội: Quy định của pháp luật về việc bảo đảm quyền tự do
ngơn luận trong lĩnh vực báo chí khơng những sẽ góp phần bảo vệ quyền con người
mà cịn có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển nhân quyền ở Việt Nam. Đặc biệt
hơn khi Việt Nam là thành viên của hàng loạt các công ước quốc tế về quyền con
người thì việc để người dân thể hiện cơng khai tư tưởng, quan điểm của mình là cực
kỳ quan trọng, vì nó góp phần thúc đẩy một xã hội dân chủ và tiến bộ. Đồng thời
nếu khơng có một khuôn khổ pháp lý sẽ dẫn đến một thực trạng là lạm dụng quyền
tự do ngôn luận thông qua hoạt động báo chí làm xâm phạm các quyền con người,
quyền công dân khác.
Như vậy, tất cả những điều đã được phân tích trên đây khơng những cho phép
khẳng định rằng, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay thì việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý về quyền tự do ngơn
luận trong lĩnh vực báo chí sẽ có rất nhiều ý nghĩa. Và đây cũng là lý do để tác giả
chọn đề tài “Quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam” để làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay các đề tài nghiên cứu về quyền tự do ngôn luận cũng như tự do báo
chí rất là ít và các cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này chủ yếu đề cập đến những
vấn đề lý luận. Ở lĩnh vực tự do ngơn luận thì có tác phẩm: “Cơ sở lý luận về quyền
tự do ngôn luận của công dân” của Trần Phan Tố My (Khóa luận tốt nghiệp cử nhân

luật, Đại học Luật Tp.HCM 2009). Trong đó tác giả nghiên cứu những nội dung về
mặt lý luận của quyền tự do ngôn luận trên cơ sở Công ước quốc tế về quyền chính
trị và dân sự năm 1966, Hiến pháp Việt Nam qua từng giai đoạn cũng như các văn
bản pháp luật liên quan.
Ở lĩnh vực báo chí hiện nay có các tác phẩm như: Đề tài nghiên cứu khoa học
“Quyền tự do báo chí ở Mỹ và một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam” của Vũ
Văn Nhiêm (chủ nhiệm đề tài, Đại học Luật Tp.HCM 2009). Trong đề tài này tác


3
giả nghiên cứu vấn đề quyền tự do báo chí ở Mỹ trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về báo chí ở Mỹ, và kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa tham khảo đối
với Việt Nam.
Nhóm các đề tài về báo chí như : “Cơ sở lý luận báo chí” của nhóm nghiên cứu
Học viện báo chí và tuyên truyền do tác giả Tạ Ngọc Tuấn làm chủ biên (Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội 2007); “Báo chí: những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Nguyễn Văn Dững (Nxb. Đại học Quốc gia năm 2005); “Báo chí: những vấn đề nhìn
từ thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Dững (Nxb. Văn hóa thơng tin); “Cơ sở lý luận
về báo chí truyền thơng” của Dương Xuân Sơn (chủ biên) (Nxb. Đại học Quốc gia,
Hà Nội 2004); “Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nxb. Thế giới, 1995).
Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra những bàn luận và giải quyết được
một số vấn đề về mặt lí luận và thực tiễn áp dụng pháp luật báo chí ở Việt Nam.
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân “Vấn đề bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng
dân ở Việt Nam hiện nay” của Hồ Thị Oanh (Đại học Luật Tp.HCM). Trong tác
phẩm này tác giả nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam trong việc bảo
đảm quyền tự do báo chí.
Bên cạnh đó cịn có các bài viết như: “Tự do báo chí và vấn đề bảo vệ nhân
phẩm, danh dự, uy tín của cá nhân” của Đỗ Văn Đại (Tạp chí khoa học pháp lý);
“Tự do báo chí qua các bản Hiến pháp và mốt số kiến nghị sủa đổi Hiến pháp
1992”, tạp chí nghiên cứu lập pháp văn phòng Quốc hội Số 24 (232).

Như vậy ở nước ta, các cơng trình nghiên cứu về quyền tự do ngơn luận rất ít,
hơn thế nữa nghiên cứu ở góc độ pháp lý càng ít hơn. Đặc biệt là quyền tự do ngơn
luận trên báo chí thì chưa có một cơng trình nghiên cứu đầy đủ và trực tiếp về vấn
đề này. Vì vậy tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Quyền tự do ngôn luận trong lĩnh
vực báo chí ở Việt Nam” cho luận văn của mình.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề lý luận và
pháp lý liên quan đến quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí, trên cơ sở phân
tích, đánh giá về thực trạng pháp luật hiện nay của Việt Nam về vấn đề trên. Từ đó
tìm ra những hạn chế, bất cập liên quan đến quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực
báo chí để đề xuất các kiến nghị góp phần bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công
dân trong hoạt động báo chí.
Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy phạm pháp luật liên quan đến
việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí của Việt Nam.


4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền tự do
ngôn luận.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lịch sử, phương pháp so
sánh... để giải quyết các vấn đề đặt ra trong Đề tài.
Phương pháp phân tích tổng hợp mang tính xun suốt tồn bộ đề tài khi nghiên
cứu để làm sáng tỏ các vấn đề trong từng mục, chương. Từ những vấn đề được phân tích,
từng nội dung, từng vấn đề, từng tiểu mục, từng mục thì phương pháp tổng hợp sẽ góp
phần làm rõ những nhiệm vụ đặt ra đối với từng chương và toàn bộ đề tài.
Để có được các nhận định chính xác về pháp luật hiện hành, tác giả áp dụng

phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh trong khoa học pháp lý. Theo đó, mục
đích, chức năng và nội hàm quy phạm pháp luật được nhìn nhận trong bối cảnh lập
pháp của chúng, bao gồm bối cảnh chính sách pháp luật, bối cảnh chính sách kinh tế
- xã hội cũng như trình độ khoa học pháp lý và trình độ lập pháp trong việc lý giải
việc cần thiết phải quy định liên quan đến quyền tự do ngôn luận trong từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Nhằm làm sáng tỏ sự khác biệt của pháp luật qua các
thời kỳ và xu hướng phát triển của pháp luật.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tự do ngôn luận là vấn đề mang tính chính trị, pháp lý và xã hội. Cũng vì
phạm vi của quyền tự do ngơn luận khá rộng và bao quát hết tất cả các lĩnh vực. Để
cơng trình nghiên cứu đảm bảo được chất lượng và đi sâu vào việc phân tích, đánh
giá và có những đề xuất cụ thể nên tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu quyền tự do
ngôn luận trong lĩnh vực báo chí dưới góc độ pháp lý theo quy định của Luật Báo
chí 2016, các văn bản hướng dẫn cũng như quy định về vấn đề trên của pháp luật
một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc tiếp cận ở góc độ pháp lý thì một số
mục của đề tài tác giả sẽ tiếp cận ở góc độ khoa học chính trị và một số khoa học
khác có liên quan như đạo đức học, xã hội học và tâm lý học để làm rõ hơn vấn đề
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài này là một cơng trình nghiên cứu khoa học được thực hiện thơng qua
q trình tìm tịi, học hỏi, nghiên cứu, phân tích, chọn lọc và tổng hợp từ những
kiến thức có giá trị của những người nghiên cứu trước, kết hợp với kiến thức mà tác
giả có được trong q trình học tập đã được cập nhật, bổ sung hàng ngày. Do đó, đề
tài sẽ là một tài liệu có giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho những ai muốn


5
nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về pháp luật Việt Nam hiện hành đối với quyền tự do
ngôn luận trong lĩnh vực báo chí. Q trình nghiên cứu, tác giả có chỉ ra và phân
tích trong đề tài những vấn đề còn bất cập và vướng mắc trong quy định của Luật

Báo chí cũng như những văn bản pháp luật liên quan trong việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong q trình thực hiện quyền tự do ngơn luận trong lĩnh
vực báo chí.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực
báo chí ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ở Việt
Nam và hướng hồn thiện.


6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO NGƠN LUẬN
TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí
1.1.1. Khái niệm quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí
Tự do ngơn luận là một phạm trù chính trị pháp lý liên quan đến quyền con
người, đến mối quan hệ giữa nhà nước với cơng dân, đến tự do báo chí, tự do thông
tin, và nhiều yếu tố khác về kinh tế, văn hóa và xã hội. Với thuật ngữ này, ta có thể
chia tách câu chữ để tìm hiểu rõ ràng hơn.
“Tự do” theo John Locke (1632-1704) là khả năng con người có thể làm bất
cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào2. Đây được xem
là định nghĩa nguyên thủy nhất về tự do và cũng từng được nhiều người tán đồng.
Tuy nhiên hạn chế ở định nghĩa này là nếu tự do là khả năng con người làm bất cứ
điều gì mình mong muốn thì sẽ dẫn đến việc lạm dụng sự tự do làm phương hại đến
cá nhân khác cũng như trật tự xã hội. Đến lượt Hegel thì ơng đã đưa ra một định
nghĩa để khắc phục hạn chế trên: tự do là cái tất yếu được nhận thức3. “Cái tất yếu”
được hiểu là các quy luật tự nhiên. Vậy có thể hiểu tự do theo quan điểm của Hegel

là quy luật tự nhiên được nhận thức. Montesquieu thì cho rằng: tự do chỉ có thể là
được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm; tự do là
quyền được làm tất cả các điều pháp luật cho phép4. Triết gia Isaiah Berlin (19091997) phân biệt hai khái niệm về sự tự do: tự do tiêu cực và tự do tích cực. Tự do
tiêu cực là tự do khơng có sự cưỡng chế, nghĩa là người ta có thể làm bất cứ điều gì
miễn là khơng bị cấm cản; trái lại, tự do tích cực là tự do con người ta thực sự làm
được điều mình muốn làm5. Với nhiều cách hiểu về “tự do” như vậy, ta có thể hiểu
chung nhất, tự do là được làm những gì pháp luật cho phép, và tự do khơng phải là
tuyệt đối, nó bị giới hạn bởi pháp luật.
“Ngôn luận” là cách dùng ngôn ngữ đưa ra những lý luận để chứng minh,
thảo luận về một vấn đề gì đó, cũng khơng thể chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ dùng
lời nói mà cịn cả chữ viết. Từ cách hiểu trên có thể thấy “ngơn luận” là hành vi của
những người đã trưởng thành về năng lực, tức là khơng áp dụng máy móc cho trẻ
em6, là hành vi của những người “có hiểu biết”.
2

John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Lê Tuấn Huy dịch, NXB Tri Thức (2007).
Hegel (1977), Triết học tôn giáo, gồm 2 tập, t.2. Mátxcơva, tr. 339 (tiếng Nga).
4
Montesquieu 2006), Bàn về tinh thần pháp luật, người dịch Hoàng Thanh Đạm, NXB Lý luận chính trị, tr. 105.
5
truy cập ngày 15/09/2016
6
John Stuart Mill (2006), Bàn về tự do, người dịch Nguyễn Văn Trọng, NXB Tri Thức, tr. 34-35.
3


7
Vậy tự do ngôn luận mang ý nghĩa là tự bản thân mỗi người dùng lời lẽ, luận
điệu của mình thông qua ngôn ngữ, chữ viết để thể hiện quan điểm, ý kiến để cổ vũ,
bình luận hay thậm chí là phản bác về một vấn đề, sự kiện nào đó mà khơng trái các

quy định của pháp luật.
Tự do ngôn luận, cũng là một trong các quyền “tự nhiên” khác của con người,
như quyền tự do báo chí, quyền tự do lập hội… là nội dung quan trọng của quyền
con người. Khi xác định tự do ngôn luận là một quyền thì đó là “những hành vi hợp
pháp mà các cá nhân, pháp nhân, nhà nước thực hiện, không ai có thể ngăn cấm.
Việc thực hiện quyền phụ thuộc vào ý chí của chủ thể, khơng bắt buộc, trừ những
trường hợp quyền đồng thời là nghĩa vụ, trách nhiệm. Quyền của chủ thể có thể là
quyền tự nhiên, vốn có, khơng do ai quy định, cho phép và cũng có thể trên cơ sở
quy định của pháp luật, trên cơ sở ủy quyền của chủ thể khác”7. Tuy nhiên cần hiểu
quyền ở đây chỉ mang tính tương đối, quyền của chủ thể ln bị hạn chế theo ý chí
của nhà nước (giai cấp cầm quyền) và của chủ thể khác.
Sở dĩ quyền tự do ngôn luận (QTDNL) xem là một quyền tự nhiên vì quyền
này gắn liền với nhu cầu giao tiếp của con người, đó là nhu cầu cơ bản và thiết yếu
nhất của mỗi con người để tồn tại và phát triển trong xã hội. Con người sinh ra tự
nhiên đã có quyền, khơng phải do nhà nước ban phát cho cơng dân của mình, nhà
nước có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm cho mọi công dân được thực hiện quyền này
trên thực tế một cách tốt nhất và bất cứ nền dân chủ nào cũng có sứ mệnh tơn trọng
và bảo vệ quyền này8.
QTDNL (tự do biểu đạt) ở đây được hiểu đó chính là tự do tìm kiếm, tiếp nhận
và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thơng nào và
khơng có giới hạn về biên giới. Khoản 2 Điều 19 Cơng ước các quyền dân sự và
chính trị (ICCPR) quy định: “Mọi người có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm
tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh
vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ
thuật, thơng qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của
họ”. Và như vậy khái niệm tự do ngôn luận ở đây sẽ gồm ba nội dung là quyền tự do
tìm kiếm thơng tin, tự do tiếp nhận thông tin và tự do truyền bá, phổ biến thơng tin.
- Tự do tìm kiếm thơng tin là khả năng của cơng dân có quyền u cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp thơng tin, tiếp xúc các thông tin, tài liệu do
cơ quan nhà nước đang nắm giữ mà mình cần hoặc quan tâm trong phạm vi pháp

luật cho phép. Cơng dân có quyền xem, đọc, nghe các tác phẩm, hồ sơ, tài liệu chứa
7
8

“Từ điển Bách khoa Toàn thư” online, truy cập ngày 14/04/2016
truy cập ngày 14/04/2016


8
đựng các thông tin được các cơ quan nhà nước quản lý hoặc kiểm sốt; ghi chép,
trích dẫn, sao chụp các thơng tin đó dưới các hình thức khác nhau và bằng phương
tiện khác nhau… Đây là một trong những điều kiện để đảm bảo việc tiếp cận thông
tin cần thiết để công dân thực hiện quyền truyền bá, phổ biến thông tin9.
- Tiếp nhận thông tin của công dân là khả năng công dân nhận được những
thông tin, tài liệu do cơ quan nhà nước tạo ra, nắm giữ trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý nhà nước thơng qua các kênh truyền thơng cơng khai, sẵn có mà
không cần phải yêu cầu, quyền này thể hiện công dân có quyền tiếp cận những
thơng tin đúng, đủ, kịp thời và dễ tiếp cận10.
- Truyền bá hay phổ biến thơng tin có nghĩa là cá nhân cơng dân có thông tin
được quyền truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin mà mình đang nắm giữ cho mọi
người mà khơng có bất kỳ sự phân biệt nào về ranh giới hay hình thức đưa tin11.
Quyền tìm kiếm thơng tin, quyền tiếp nhận thơng tin và quyền truyền đạt
thơng tin có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Việc đảm bảo thực
tốt quyền tiếp cận thông tin, tiếp nhận thơng tin thì sẽ đảm bảo được thông tin được
công bố công khai để mọi người cùng biết và từ những thơng tin đó thì cơng dân sẽ
chủ động hơn trong việc truyền bá cũng như thể hiện quan điểm của mình.
Như vậy quyền này bao gồm việc biểu đạt và tiếp nhận những thông điệp về ý
tưởng và quan điểm dưới mọi hình thức có thể truyền đạt đến người khác. Quyền
này bao gồm các tranh luận chính trị, bình luận về một người và về các vấn đề
chung, vận động, thảo luận về nhân quyền, báo chí, các biểu đạt văn hóa và nghệ

thuật, giáo dục và tranh luận tôn giáo. Vấn đề ở đây là quyền tự do biểu đạt khơng
phụ thuộc vào hình thức biểu đạt hay nội dung của thông điệp được biểu đạt. Và
mặc dù nó là quyền tự nhiên nhưng vẫn phải có sự hạn chế cần thiết: “mọi hình thức
tuyên truyền cho chiến tranh, mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc
tơn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực
đều phải bị pháp luật nghiêm cấm”. (Khoản 3 Điều ICCPR).
Ngày nay việc sử dụng QTDNL với sự hỗ trợ của các các phương tiện truyền
thông hiện đại sẽ rất hữu ích cho việc hiểu về nội hàm của các quyền cũng như cho
việc sử dụng để vận động thực thi các quyền trong thực tiễn. Báo chí và các phương
tiện truyền thơng có vai trị thiết yếu trong việc truyền tải các quan điểm và ngôn
9

Thái Thị Tuyết Dung (2015), Quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Tp.HCM, tr. 24.
10
Thái Thị Tuyết Dung (2015), tlđd (9), tr. 26.
11
Tường Duy Kiên (2018), “Quyền tiếp cận thông tin: quy định quốc tế và đặc điểm chung của một số
nước”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01, tr.112-114.


9
luận. Trong thời đại ngày nay báo chí và truyền thơng là những cơng cụ chính của
tự do biểu đạt. Vì vậy, tự do báo chí đơi khi được đồng nhất với tự do ngơn luận.
Trên thực tế báo chí có mối quan hệ chặt chẽ với QTDNL, là một phương thức
hữu hiệu để thực hiện QTDNL. Thông qua báo chí và các phương tiện truyền thơng
đại chúng, cơng dân thực hiện QTDNL của mình trong việc thể hiện quan điểm, các
ý kiến riêng của bản thân, trao đổi thảo luận, góp ý với cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội về những vấn đề cụ thể nhằm cải tiến cách làm việc, cải thiện hình thức
hoạt động, hoặc ủng hộ cái đúng, cái tốt, cái tiến bộ, phê phán và phản đối cái sai,

cái xấu, cái lạc hậu….
Nói cách khác, lĩnh vực báo chí là một trong các hình thức để thơng qua đó
mỗi người thực hiện việc sử dụng QTDNL của mình. Trong chính lĩnh vực báo chí
cũng đã có các quy định riêng, cụ thể để QTDNL được thực thi hiệu quả, đảm bảo
mỗi người đều được tiếp cận với QTDNL. Theo khía cạnh này thì tự do truyền bá
thông tin và các ý tưởng về các vấn đề xã hội và chính trị giữa những công dân, các
ứng cử viên và các đại biểu dân cử là cần thiết. Điều này có nghĩa là một tờ báo hay
một phương tiện truyền thơng có thể bình luận về một vấn đề xã hội mà không bị
kiểm duyệt hay hạn chế và để thông tin quan điểm của cơng chúng. Gắn với đó,
cơng chúng cũng có một quyền tương ứng tiếp nhận các sản phẩm truyền thông.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm “tự do ngơn luận trong lĩnh
vực báo chí” như sau: Tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí là quyền tự do tìm
kiếm, tiếp nhận, truyền đạt mọi thơng tin thơng qua các hình thức của báo chí như
báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử để thể hiện quan điểm, tư tưởng, sự cổ
vũ hay phản biện cá nhân đối với bất kỳ sự kiện, vấn đề nào của xã hội mà không bị
kiểm duyệt hoặc hạn chế về phạm vi địa lý hay biên giới quốc gia.
1.1.2. Đặc điểm quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí
1.1.2.1. Chủ thể thực hiện quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí
John Stuart Mill (1806-1873) lưu ý đến cái ranh giới mà tại đó việc nói hay
viết là một hành vi kích động sự bạo lực. Ơng ta cũng nói rõ rằng các luận cứ của
ông ta cho vấn đề tự do chỉ áp dụng cho “những người đã trưởng thành về năng
lực”. Chế độ gia trưởng, theo nghĩa cưỡng chế ai đó vì lợi ích của chính họ, thích
hợp đối với trẻ em và đối với “các trạng thái lạc hậu của xã hội trong đó bản thân
chủng tộc có thể được coi là chưa trưởng thành”, nhưng nó lại khơng thích hợp đối
với các thành viên trưởng thành của một xã hội văn minh, loại người này chắc hẳn
được tự do quyết định lấy cuộc sống của mình12.
12

/>truy cập ngày 21/05/2016



10
Tự do ngơn luận là một quyền dân sự chính trị của con người được pháp luật
của các quốc gia ghi nhận và bảo đảm cho công dân được tự do thể hiện quan điểm
tư tưởng của mình… Tuy nhiên do đặc thù của báo chí cho nên tự do ngơn luận
trong lĩnh vực báo chí gồm 2 chủ thể là công dân và nhà báo.
- Công dân
Trong nhà nước pháp quyền, người dân trao các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp (quyền dân chủ đại diện) cũng chỉ nhằm mục tiêu là để nhà nước bảo đảm
quyền tối cao – tức quyền con người của nhân dân. Quyền dân chủ đại diện là để
bảo vệ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Đồng thời, quyền dân chủ trực tiếp sẽ
kiểm sốt quyền dân chủ đại diện để nó khơng bị lạm dụng phục vụ cho những mục
đích ngồi mục tiêu tối thượng nói trên – chính là “Thượng tôn quyền con người”13.
Và quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được xem như là quan trọng nhất để bảo vệ
quyền con người của nhân dân để kiểm soát ba quyền nhân dân đã trao cho nhà
nước nhằm tránh sự lạm quyền và tùy tiện trong việc sử dụng ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Khi giữ lại quyền này của mình thì tất nhiên nhân dân chính
là chủ thể sẽ phải trực tiếp sử dụng quyền tự do ngôn luận.
Công dân là chủ thể cơ bản và quan trọng nhất của quyền tự do ngôn luận vì
vốn quyền này được hình thành để nhân dân sử dụng bảo vệ và mưu cầu lợi ích cho
mình. Và nếu khơng có quyền này thì nhân dân khơng thể bảo vệ hữu hiệu các
quyền và lợi ích khác. Mặc khác tự do ngôn luận là quyền mà người dân có thể sử
dụng thường xuyên, bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu và bằng bất kỳ phương tiện
nào miễn là bày tỏ được quan điểm của mình với người khác.
Do vậy tự do ngôn luận là quyền cơ bản và tự nhiên của con người nhằm
mục đích để bày tỏ quan điểm, chính kiến, góc nhìn riêng hay kiến nghị, góp ý về
một vấn đề nào đó trong xã hội của mỗi cơng dân và báo chí là công cụ, phương
tiện phổ biến nhất để công dân thể hiện quyền của mình cũng như là đáp ứng được
nhu cầu thông tin, giao tiếp, trao đổi thông tin. Báo chí là diễn đàn quan trọng nhất
để nhân dân thực hiện QTDNL của mình để góp phần đảm bảo được việc bảo vệ

những quyền và lợi ích khác của bản thân.
Để thực hiện QTDNL trên lĩnh vực báo chí của mình thì cơng dân có quyền
gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí. Phát biểu ý kiến trên báo chí về tình
hình đất nước và thế giới, tham gia ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cơng dân cịn thể
13

truy cập ngày 28/06/2016


11
hiện QTDNL trên báo chí của mình thơng qua việc phân tích, góp ý kiến, phê bình,
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cơng dân trên báo chí…
- Nhà báo
Mặc dù tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí là quyền của cơng dân nhưng
khơng phải ai cũng có thể thể hiện quan điểm, chính kiến của mình trên báo chí. Vì
vậy nhà báo sẽ là người giữ vai trò trọng tâm trong nghề báo – người trực tiếp đại
diện cho cơng dân thể hiện các quan điểm, chính kiến trên báo chí, cũng như làm
nên sản phẩm thơng tin để thỏa mãn nhu cầu thông tin của công chúng. Theo đó thì:
Nhà báo là người hoạt động chun nghiệp trong lĩnh vực báo chí, lấy việc sáng tạo
những sản phẩm thông tin làm ý tưởng sống và làm kế sinh nhai, bao gồm phóng
viên, biên tập viên, bình luận viên, thông tin viên, cộng tác viên của các cơ quan
báo in, báo phát thanh, báo truyền hình và báo trực tuyến và hãng thơng tấn.
Nhiệm vụ chính của nhà báo là thể hiện tiếng nói của mình để ghi nhận và
phản ánh những sự thật của đời sống, nhà báo giữ vai trò là chứng nhân lịch sử, là
thư ký của thời đại14. Nhiệm vụ của nhà báo là phải nói lên được sự thật để thực
hiện cái quyền lực thứ tư mà dân chúng trao cho và tín nhiệm đồng thời là phải biết
dùng ngịi bút của mình để vạch trần sự phức tạp của đời sống, cố gắng giải thích
cho cơng chúng biết ý nghĩa của các tin tức cũng như tường thuật các biến cố. Nhà
báo không chỉ là người đưa tin mà nhà báo còn là người sẽ phải sử dụng quyền lực

thứ tư mà dân chúng trao cho và tín nhiệm để thể nói lên sự thật, truyền tải những
thơng điệp, là người giải thích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, biến cố trong đời
sống giúp công chúng nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nó.
Nhà báo khơng chỉ là một danh xưng của một nghề, và đó cũng khơng chỉ là
một nghề thuần túy mà còn là một sứ mệnh: Sứ mệnh duy trì, đảm bảo QTDNL và
các quyền căn bản của công dân trong xã hội dân chủ15.
So sánh về chủ thể thực hiện với QTDNL trên trang mạng xã hội thì trên
trang mạng xã hội, chủ thể thực hiện quyền này là tất cả mọi người, không phân biệt
giới tính, nghề nghiệp, tơn giáo. Trong khi chủ thể của QTDNL trong lĩnh vực báo
chí được xác định cụ thể danh tính thì chủ thể của QTDNL trên trang mạng xã hội
rất khó xác định được danh tính người dùng mà chỉ xác định thông qua các tài
khoản mạng.
Như vậy, chủ thể của QTDNL trong lĩnh vực báo chí là những cá nhân đã
“trưởng thành về mặt năng lực”, cá nhân nhận thức được quyền ngôn luận là một
quyền hợp pháp của mình và những nghĩa vụ pháp lý phải gánh chịu đối với những
14
15

Nguyễn Văn Hà (2012), Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí, NXB Đại học Quốc gia Tp.HCM, tr.213.
Nguyễn Văn Hà (2012), tlđd (14), tr.217.


12
quan điểm mà mình đưa ra theo quy định của pháp luật. Tức là không phải áp dụng
cho tất cả mọi người ở mọi độ tuổi cũng như là mức độ nhận thức khác nhau.
1.1.2.2. Phạm vi, giới hạn của quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí
QTDNL là quyền tự nhiên của con người và thuộc về giá trị đặc thù của một
xã hội dân chủ, vì QTDNL gắn liền với nhu cầu giao tiếp của con người, đó là nhu
cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người để tồn tại và phát triển trong xã hội.
Con người sinh ra tự nhiên đã có quyền, không phải do nhà nước ban phát cho công

dân của mình, nhà nước có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm cho mọi công dân được
thực hiện quyền này trên thực tế một cách tốt nhất và bất cứ nền dân chủ nào cũng có
sứ mệnh tơn trọng và bảo vệ quyền này. QTDNL trong lĩnh vực báo chí của nhân dân
được nhà nước ghi nhận và khuyến khích thực hiện, và tuy nhiên trong quá trình tìm
kiếm, truyền bá quan điểm của mỗi cá nhân để tránh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà nước, cá nhân tổ chức khác nên cần phải đặt ra phạm vi, giới hạn
như: bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, quyền tự do và
thanh danh của người khác hay địa lý16. Chỉ với những lý do này và cũng chỉ duy
nhất lý do này mới cho phép nhà nước hạn chế QTDNL trong lĩnh vực báo chí.
Theo các quy định của pháp luật quốc tế, quyền tự do báo chí (thực chất là
QTDNL của người dân qua báo chí) là một quyền có giới hạn, và các hạn chế quyền
này cần phải được quy định cụ thể ở luật trong trường hợp cần thiết. QTDNL trong
Điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người và Công ước quốc tế về các
quyền dân sự - chính trị thuộc các quyền bị hạn chế. Điều 19, mục 3 của ICCPR ghi
rõ: "Việc thực hiện những quyền quy định tại mục 2 của Điều này (QTDNL), kèm
theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể là đối tượng chịu một số
hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và
cần thiết để: a) nhằm tơn trọng quyền hoặc uy tín của người khác; b) nhằm bảo vệ
an ninh quốc gia, hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng".
Bổ sung cho quy định trong Điều 19, Điều 20 của ICCPR còn quy định một hạn chế
cần thiết của quyền tự do biểu đạt; theo đó, mọi hình thức tuyên truyền cho chiến
tranh, mọi chủ trương nhằm gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tơn giáo để kích
động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, thù địch hoặc bạo lực, đều bị pháp luật
nghiêm cấm. Điều 10 của Công ước nhân quyền châu Âu ghi nhận một danh sách
dài các hạn chế của tự do ngôn luận, vì việc thực hiện nó có thể là đối tượng của các
điều kiện, giới hạn, hay hình phạt như trong Luật và cần thiết trong một xã hội dân
chủ. Những giới hạn đó có thể được biện minh bởi: các lợi ích an ninh quốc gia,
tồn vẹn lãnh thổ hay an tồn cơng cộng; ngăn ngừa rối loạn, tội phạm, bảo vệ sức
16


Điều 14, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


13
khỏe hay đạo đức; bảo vệ danh dự và quyền của người khác; ngăn ngừa tiết lộ thông
tin mật, hay duy trì quyền lực và tính cơng bằng của tư pháp.
“Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó
nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. Khi hưởng thụ các
quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định,
nhằm mục đích bảo đảm sự cơng nhận và tơn trọng thích đáng đối với các quyền và
tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những u cầu chính đáng về đạo
đức, trật tự cơng cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ” (Điều 29)
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc (UDRH).
Tại Hội nghị thường niên mạng thông tin Châu Á, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã phát biểu :"...khẳng định quyền tự do báo chí là quyền cơ bản của quyền
cơng dân, tự do báo chí là xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, tự do báo chí phải
theo quy định của luật pháp để đảm bảo tự do của người này, tổ chức này không
xâm phạm đến tự do và lợi ích của tổ chức và cá nhân khác...”17
Tự do ngơn luận, tự do báo chí là quyền căn bản của con người được pháp
luật Việt Nam thừa nhận và bảo đảm, được thể hiện sinh động trong đời sống xã
hội. Nhưng tự do khơng có nghĩa là vô tổ chức, là tự do thay trắng đổi đen, tự do
làm trái pháp luật, không được xâm phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân
tổ chức khác. Tự do biểu đạt những gì chúng ta nghĩ hay mong muốn tuy là “quyền”
cơ bản nhưng nó chỉ có thể mang lại tốt đẹp cho bản thân và xã hội khi diễn ra trong
mối quan hệ hài hịa với các quyền khác, song song với tơn trọng nhân phẩm, đức
tin và giá trị của các cá nhân và cộng đồng khác.
“Tự do ngôn luận” hay “Tự do biểu đạt” là một trong những Quyền Con
Người cơ bản nhất, vốn được thừa nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp của các thể chế
dân chủ và công ước quốc tế. Dù vậy, tự do ngôn luận không phải là một quyền
tuyệt đối bởi sự giới hạn của quyền này ln gây tranh cãi và có thể được hiểu theo

nhiều cách. Như phát biểu của Giáo Hoàng Francis “Tự do ngơn luận cũng có giới
hạn nhất là khi nó xúc phạm các đức tin của người khác” và “…Tự do ngôn luận
cần được thực hành mà không tạo ra sự xúc phạm”18
Thực tế cho thấy không một quốc gia nào coi QTDNL và tự do báo chí là
tuyệt đối. Một quốc gia đề cao QTDNL, tự do báo chí như Mỹ thì những gì liên
quan đến tự do ngơn luận, báo chí chỉ được ghi một câu trong tu thính án lần thứ
nhất (điều bổ sung, sửa đổi): “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào giới
hạn QTDNL hay quyền tự do báo chí của cơng dân…”. Tuy nhiên nó vẫn phải có
17

/>truy cập ngày 18/06/2016
18
truy cập ngày 18/06/2016


14
những giới hạn và chịu sự kiểm sóat của quyền lực nhà nước khi cơ quan lập pháp
đề ra pháp luật xác định trách nhiệm và quyền hạn đối với báo chí, cơ quan tư pháp
có quyền truy tố phóng viên nhà báo vì tội phỉ báng Chính phủ, đưa họ ra tòa trên
cơ sở các đạo luật đã quy định19.
Đối với QTDNL trên các mạng xã hội, việc biểu đạt thông tin được xem là
cởi mở, không giới hạn biên giới lãnh thổ quốc gia, tác động đến nhiều lĩnh vực đời
sống và việc chia sẻ thông tin trên các trang mạng xã hội cũng khơng có sự cản trở
của bất cứ lực lượng nào. Tuy nhiên khi thực hiện tự do ngơn luận trên báo chí lại
phải đảm bảo được tính đúng đắn khách quan của thơng tin khi chia sẻ. Đồng thời
thông tin được chia sẻ ở mạng xã hội không được kiểm duyệt nên dẫn đến tình trạng
có những thơng tin sai trái, tun truyền gây bất ổn, hoang mang trong dư luận.
Như vậy, tự do ngơn luận trong lĩnh vưc báo chí mặc dù là một quyền tự
nhiên của con người nhưng vẫn phải chịu những giới hạn nhất định trong trong việc
trình bày quan điểm để tránh xâm phạm đến quyền và lợi ích của nhà nước, của các

cá nhân, tổ chức trong xã hội.
1.1.2.3. Phương thức thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí
Báo chí là hoạt động sản xuất, cung cấp thông tin thời sự về mọi mặt của đời
sống xã hội ở trong nước và trên thế giới. Hoạt động báo chí ngày càng đa dạng
theo sự tiến triển của xã hội với bốn loại hình báo chí là báo in, phát thanh, truyền
hình và báo điện tử. Đối với các chủ thể của QTDNL trong lĩnh vực báo chí sẽ tùy
thuộc vào đặc điểm của từng loại hình báo chí mà sử dụng những phương thức thực
hiện quyền phù hợp với mình.
Đối với cơng dân thì tùy thuộc vào từng đối tượng, điều kiện xã hội, cũng
như là khả năng tiếp cận báo chí mà khi thực hiện quyền tự do ngôn luận trong lĩnh
vực báo chí của mình có thể sử dụng hình thức viết để đưa ra các đề xuất kiến nghị
đến các cơ quan báo chí. Hoặc cũng có thể thực hiện phương thức ghi âm, ghi hình,
nói lên các kiến nghị đề xuất, các quan điểm, ý kiến của mình hay đơn giản là để
phản ảnh một vấn đề nào đó trong xã hội. Trong trường hợp cần thiết cơng dân có
thể thể hiện quyền tự do ngơn luận của mình thơng qua các hình ảnh, tranh vẽ khi
bắt gặp nhưng tình huống cần phải chụp lại để thơng qua đó truyền tải một thông
điệp cụ thể rõ ràng đến người xem sẽ đảm bảo được tính chân thực và thời sự của cá
nhân khi thực hiện quyền.

19

Vũ Văn Nhiêm (2009), Quyền tự do báo chí ở Mĩ và một số giá trị tham khảo ở Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu khoa học, Trường Đại học Luật Tp.HCM, tr.51.


15
Đối với nhà báo là người sẽ trực tiếp sử dụng các loại hình báo chí để truyền
tải thơng tin đến cơng chúng. Vì vậy nhà báo sẽ phải linh hoạt, chủ động trong việc
sử dụng tất cả các hình thức viết, quay phim, quay ảnh, tranh vẽ, ảnh,…của các loại
hình báo chí trong từng hồn cảnh, tình huống cụ thể để thể hiện quan điểm, ý kiến,

hoặc cập nhật một cách kịp thời, chân thật nhất những thông tin thời sự, đời sống
hằng ngày.
Nếu QTDNL trong lĩnh vực báo chí được thể hiện qua nhiều phương thức
nói viết, hình ảnh, ghi âm, ghi hình và được thể hiện bởi các loại hình báo chí thì
QTDNL trên các trang mạng xã hội cũng có những phương thức đó và chúng được
thể hiện trên các trang mạng xã hội. Chỉ cần đơn thuần một chiếc điện thoại di động
thơng minh có kết nối internet thì mọi chia sẻ gì cũng sẽ được phát tán nhanh chóng
trên các mạng xã hội mà không cần đến thời gian xem xét, đánh giá lại nội dung.
Trong xã hội hiện đại dưới sự phát triển không ngừng của các phương tiện
truyền thông, QTDNL trong lĩnh vực báo chí cũng sẽ được thể hiện bằng nhiều
phương thức khác nhau để phù hợp với các loại hình báo chí hiện đại (báo phát
thanh, báo hình, báo giấy và báo điện tử), cũng như là đối tượng tiếp cận, để đảm
bảo quyển tự do ngôn luận của công dân được thực hiện một cách triệt để nhất cũng
như là để phù hợp với từng cá nhân trong việc tiếp cận thông tin, tiếp nhận và
truyền bá thông tin.
1.2. Vai trị, ý nghĩa quyền tự do ngơn luận trong lĩnh vực báo chí
Để bảo đảm quyền con người thì chúng ta đã và đang làm những điều cần
thiết để có các tự do đích thực cho hạnh phúc của nhân dân, cho an ninh và phát
triển của đất nước. QTDNL, báo chí và thơng tin là quyền của cơng dân trong một
xã hội dân chủ, pháp quyền, là chuẩn mực xác nhận một xã hội trong đó người dân
có tự do, có quyền lực thực sự. Quyền này có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu các
quyền con người cũng như quyền công dân. Đây vừa là quyền mà mỗi cơng dân có
quyền được hưởng, lại vừa là điều kiện để đảm bảo các quyền khác, đặc biệt là các
quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Lịch sử nhân loại đã xác nhận
mỗi khi xã hội bị ngưng trệ, các quyền con người bị vi phạm nghiêm trọng thì nhu
cầu về QTDNL, báo chí và thơng tin lại nổi lên thể hiện tinh thần phản kháng, yêu
tự do và sự tiến bộ. Đối với cơng chúng báo chí là nơi họ thể hiện thái độ, nguyện
vọng, ý chí, ước mơ, khát vọng một cách cụ thể và trực tiếp20. Do đó, QTDNL, báo
chí và thông tin không được tôn trọng, nhà nước và xã hội thường bị rơi vào tình


20

Nguyễn Văn Hà (2012), tlđd (14), tr.89.


16
trạng bảo thủ và trì trệ, các quyền con ngươi bị vi phạm21. QTDNL, báo chí và
thơng tin có vai trị chính trị - xã hội to lớn. Về thực chất đó là các hình thức, các
phương thức, phương tiện để nhân dân làm chủ đât nước, thật sự tham gia vào quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong thời đại khoa học cơng nghệ phát triển, báo chí,
thơng tin và truyền thơng có vị trí đặc biệt quan trọng. Thiếu báo chí và thơng tin thì
hoạt động của công dân trong đời sống xã hội, cũng như tham gia vào các công việc
của nhà nước sẽ thiếu hiệu quả. Ta có thể khái qt một số vai trị, chức năng chính
của QTDNL trong lĩnh vực báo chí như sau:
1.2.1. Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền luôn đảm bảo quyền con người, quyền lực thuộc về
nhân dân, trong các quyền lập pháp – hành pháp – tư pháp thì quyền tự do báo chí là
quyền lực thứ tư để nhằm đảm bảo được sự kiểm tra giám sát của nhân dân. Tiếng
nói phản biện chính sách, phản ánh thực tế của báo chí cũng là tiếng nói của nhân
dân, khơng thể thiếu tiếng nói ấy trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân – do dân – vì dân.
Dân chủ và nhà nước pháp quyền là cặp “song sinh” trong một thể chế chính trị
hiện đại, “tiếng nói của báo chí là tiếng nói của cơng luận” cũng là sức mạnh của
chúng ta22. Cơng dân được tự do ngơn luận, báo chí và thông tin, được cung cấp
thông tin. Trên cơ sở được biết thông tin, người dân sẽ bàn, đánh giá, kiến nghị lên
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hồn thiện chính sách pháp luật, sau đó tự
giác thực hiện và kiểm sốt thực hiện. Khơng có tiếng nói phản hồi từ phía người dân,
nhà nước khơng đủ thông tin để quyết định đúng, phù hợp với ý chí, lợi ích của nhân
dân và khó có thể quản lý hiệu lực và hiệu quả. Mặt khác, người dân khơng được tự
do ngơn luận, báo chí và tiếp cận thơng tin của nhà nước, thì khó tránh khỏi đứng

ngồi chính trị, khơng thể tham gia thực sự vào việc quản lý đất nước, quản lý xã hội.
Do vậy QTDNL, báo chí là phương tiện hữu hiệu gắn bó nhân dân với nhà nước,
khắc phục tệ quan liêu, hách dịch, nâng cao tính minh bạch của chính sách, tính hiệu
quả của quản lý nhà nước và góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân.
1.2.2. Phản biện xã hội
Đây là một chức năng quan trọng của QTDNL, tự do báo chí. Trong xã hội
hiện đại, thơng tin có vai trị đặc biệt quan trọng, chính thơng qua sử dụng và giám
sát thơng tin nên báo chí thể hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội của
mình. Chức năng này thể hiện quyền lực của báo chí trong đời sống xã hội. Giám
21

truy cập ngày 04/09/2016
22
truy cập ngày 08/09/2016


17
sát xã hội bằng QTDNL thực chất là thông qua “tai mắt” của nhân dân, giám sát
bằng dư luận xã hội. Qua giám sát, theo dõi một cách khách quan và có định hướng
mà báo chí thực hiện vai trị phản biện xã hội của mình, góp phần điều chỉnh các
chương trình, chính sách cho phù hợp với thực tế và vạch rõ những hiện tượng sai
phạm, tiêu cực trong đời sống xã hội. Phản biện xã hội theo nghĩa tích cực và xây
dựng là bản chất của QTDNL trong lĩnh vực báo chí muốn hướng đến.
1.2.3. Chức năng thơng tin
Thông tin - giao tiếp là một biểu hiện, một nhu cầu mang tính bản chất của con
người. Sự ra đời của báo chí góp phần khơng nhỏ trong việc thể hiện QTDNL, góp
phần đáp ứng nhu cầu thơng tin trong xã hội, theo đó cơng dân hoặc nhà báo sẽ
thơng qua các loại hình báo chí để chia sẻ đến các đối tượng có nhu cầu thơng tin
trong xã hội. Báo chí thơng tin để thực hiện chức năng tư tưởng, định hướng dư
luận xã hội, thông tin để thực hiện vai trò giám sát, quản lý xã hội23.

Khi thực hiện QTDNL để đáp ứng nhu cầu thông tin chính đáng của cơng dân
thì người đưa tin phải đảm bảo tính chân thực, tính chính xác, độ nhanh nhạy, kịp
thời và thể hiện rõ mục tiêu phục vụ xã hội.
1.2.4. Chức năng phản ánh – quản lý xã hội
Báo chí được coi là chứng nhân, là trọng tài, là “quyền lực thứ tư” bên cạnh
những quyền khác là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong xã hội dân chủ. Vì
thơng qua báo chí cơng dân sẽ nói lên được tiếng nói của mình để kiểm sốt, giám
sát hoạt động các cơ quan công quyền, các tổ chức chính trị cũng như tất cả các q
trình xã hội khác.
Phạm vi giám sát rất rộng và gần như tỷ lệ thuận với phạm vi hiện thực mà nó
phản ánh, báo chí sẽ theo dõi và phản ánh việc thực thi các chính sách, chế độ, pháp
luật của các cơ quan cơng quyền có đầy đủ trách nhiệm và đảm bảo sự cơng bằng
cho mọi cơng dân. Báo chí sẽ kiểm soát sự tuân thủ pháp luật, chuẩn mực đạo đức,
thuần phong mỹ tục của mọi cơng dân. Báo chí sẽ nhân danh công luận, công lý để
tạo áp lực đối với cái sai, cái xấu, cái ác và đòi hỏi pháp luật phải có những biện
pháp chế tài, ngăn chặn một cách nhanh chóng và hữu hiệu.
Báo chí theo dõi và phản ánh quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách
của nhà nước trong xã hội. Những thành cơng và hạn chế, những khó khăn và thuận
lợi trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của nhà nước sẽ được nhân dân
phản hồi qua báo chí bằng QTDNL của mình.

23

Dương Xuân Sơn (2012), Giáo trình Lý luận báo chí truyền thơng, NXB Giáo Dục Việt Nam, tr.105.


18
Giám sát xã hội của báo chí trong q trình thực hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước là kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay
để biểu dương, khích lệ và tổng kết thực tiễn; đồng thời cũng sớm phát hiện những

“khiếm khuyết” của các kiến tạo chính sách - thể chế, qua đó nâng cao chất lượng
quản trị của bộ máy nhà nước. Vai trò và sức mạnh giám sát xã hội của báo chí
trước hết là phát hiện những việc làm tốt và những sai phạm của tổ chức, cá nhân
qua đó khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội theo hướng ủng hộ hay phản bác,
tạo áp lực dư luận xã hội và yêu cầu các cơ quan thẩm quyền giải quyết, giải thích
và giải đáp trước cơng luận, trước nhân dân24.
1.2.5. Chức năng tạo ra dư luận xã hội, góp sức định hướng dư luận xã hội
Là một trong những chức năng quan trọng khi thực hiện QTDNL thơng qua
báo chí. Báo chí thơng tin nhanh, đầy đủ, phong phú và đa chiều về các sự kiện và
vấn đề thời sự liên quan mật thiết đến lợi ích của đông đảo công chúng và các tầng
lớp nhân dân, giúp họ nhận thức những gì đang diễn ra, trên cơ sở ấy ý thức được
vai trò, vị thế và lợi ích của chính mình.
Tất cả những sự kiện và vấn đề thời sự liên quan đến lợi ích của đơng đảo
cơng chúng và nhân dân thì báo chí cần thơng tin, bình luận để thu hút họ vào tầm
ảnh hưởng của mình, từ đó góp phần định hướng nhận thức, thái độ và thống nhất
hành vi trong giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội.
1.2.6. Chức năng nâng cao dân trí
Báo chí là bộ phận cấu thành của văn hóa, vì thế, nó trực tiếp góp phần phát
triển, bảo tồn và giao lưu văn hóa. Trước hết, cơng dân, nhà báo sử dụng báo chí để
chuyển giao – phát triển văn hóa, tham gia bồi đắp, hướng dẫn, nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân, góp phần định hướng, điều chỉnh và cổ vũ xây dựng môi
trường văn hóa mới. Giao tiếp qua báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
khẳng định, phổ biến, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc. Chức năng
giáo dục của QTDNL trong lĩnh vực báo chí trong xã hội hiện đại rất phong phú và
đa dạng. Đó là giáo dục tư tưởng chính trị, trách nhiệm công dân, giáo dục pháp
luật, trao đổi kỹ năng sống, kinh nghiệm làm ăn,... cho cá nhân và cộng đồng; phổ
biến kiến thức, các thành tựu khoa học mới, hướng dẫn áp dụng, chuyển giao công
nghệ, tham gia cổ vũ, tổ chức thực hiện… Trách nhiệm của người làm báo là

24


Nguyễn Quang Vinh, “Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí trong giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí cộng sản, truy cập ngày 18/09/2016


19
chuyển tải rộng rãi những giá trị văn hóa lành mạnh, thể hiện được nhưng giá trị
văn hóa, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết, giáo dục tư tưởng.
1.2.7. Là một quyền, biện pháp bảo vệ quyền cơ bản
QTDNL trong lĩnh vực báo chí là một trong các quyền cơ bản của con người,
các quyền cơ bản tồn tại song song cùng nhau. Tuy nhiên, với vai trò là một quyền
có tính định hướng dư luận với việc tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến, tiếp nhận thông
tin thơng qua các hình thức báo chí thì nó lại có tác dụng như một quyền, một biện
pháp bảo vệ các quyền cơ bản còn lại.
Với phạm vi tác động rộng lớn, đối với tất cả các lĩnh vực đời sống chính trị,
văn hóa, xã hội…và hệ thống truyền tin báo chí hiện đại, bất cứ những vấn đề xảy
ra, nhất là việc liên quan đến các quyền cơ bản của con người bị xâm hại thì chính
QTDNL trong lĩnh vực báo chí sẽ châm đuốc để tìm ra sự thật, tìm ra cơng lý. Các
quyền cơ bản của con người chính là các lợi ích thiết thực gắn liền với cuộc sống
của mỗi con người. QTDNL với mục tiêu là bảo vệ cho các lợi ích chính đáng của
con người sẽ không thể nào bỏ qua những vấn đề quan trọng như thế.
Với phương châm đó, QTDNL trong lĩnh vực báo chí đi tiên phong trước hết
là một quyền cơ bản độc lập, sau đó chính là một biện pháp hữu ích để bất cứ ai
cũng có thể sử dụng để nêu quan điểm, ý kiến, trao đổi các thơng tin đa chiều, hay
nói cách khác QTDNL trong lĩnh vực báo chí chính là “quyền bảo vệ quyền” 25 đối
với các quyền cơ bản của con người ở nhiều lĩnh vực khác.
1.3. Nội dung quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí
1.3.1. Quyền tự do tiếp cận báo chí
Tự do tiếp cận báo chí mà khơng có bất kỳ sự cản trở nào chính là một đặc
điểm quan trọng khi nói đến QTDNL trong báo chí, nó chính là sự tự do tiếp cận

các phương tiện báo chí như báo in, báo hình, báo phát thanh và báo điện tử. Việc
tự do tiếp cận này giúp cho mỗi cá nhân cập nhật kịp thời, đầy đủ, chính xác những
thơng tin từ những sự kiện văn hóa, xã hội hay các chính sách cơng từ phía các cơ
quan nhà nước. Đồng thời, mỗi người có thể phản ánh tâm tư, nguyện vọng, thắc
mắc thông qua các bài viết, bình luận trên các phương tiện báo chí tới các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội hay đơn giản chỉ để nhằm thay đổi cách nhìn, suy nghĩ
theo hướng tích cực hơn trong cuộc sống. Đặc biệt, với xu thế hội nhập cùng các
phương tiện truyền thông hiện đại, sẽ rất hữu ích cho việc hiểu về nội hàm các

25

Trung tâm nghiên cứu quyền con người & quyền công dân (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị, khoa Luật đại học quốc gia Hà Nội, NXB Hồng Đức, tr. 307


×