Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.99 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN XUÂN SANG

THI HÀNH ÁN GIAO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
CHO NGƯỜI ĐƯỢC GIAO NUÔI DƯỠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

THI HÀNH ÁN GIAO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
CHO NGƯỜI ĐƯỢC GIAO NUÔI DƯỠNG
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số 60.38.0103

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Văn Tiến
Học viên: Nguyễn Xuân Sang
Lớp: Cao học luật khóa 1 - KONTUM

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học thực sự


của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn
Tiến. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong Luận văn này
trung thực và chưa từng được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tơi xin chịu
trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Nguyễn Xuân Sang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ được viết tắt

TAND

Tòa án nhân dân

THADS

Thi hành án dân sự

LTHADS

Luật THADS năm 2008, được sửa đổi, bổ sung
năm 2014

NĐ 62


Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7
năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của LTHADS


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. THI HÀNH ÁN GIAO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN CHO
NGƯỜI ĐƯỢC GIAO NUÔI DƯỠNG THEO THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG
SỰ ...............................................................................................................................7
1.1. Thủ tục thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên cho người
được giao nuôi dưỡng ...............................................................................................7
1.2. Hiệu lực của sự thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng ..................................................................................13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................18
CHƯƠNG 2. CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN VỀ GIAO NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN CHO NGƯỜI ĐƯỢC GIAO NUÔI DƯỠNG............................19
2.1. Căn cứ cưỡng chế thi hành án về giao người chưa thành niên cho người
được giao nuôi dưỡng .............................................................................................19
2.2. Thủ tục cưỡng chế thi hành án về giao người chưa thành niên cho người
được giao nuôi dưỡng .............................................................................................21
2.3. Xử lý hành vi vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án giao
người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng....................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................36
KẾT LUẬN ..............................................................................................................37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng là
loại việc đặc thù trong hoạt động THADS. Điểm đặc thù thể hiện giữa người phải
thi hành án và người được thi hành án có mối quan hệ xã hội đặc biệt là quan hệ hơn
nhân và gia đình. Mặt khác, giữa người phải thi hành án, người được thi hành án và
đối tượng thi hành án có mối quan hệ huyết thống. Hơn nữa, đối tượng thi hành án,
nghĩa vụ, điều kiện thi hành án ở đây không phải là tiền, tài sản mà là người chưa
thành niên. Vì vậy, quá trình tổ chức thi hành án đối với loại việc này nhạy cảm,
gặp phải sự cản trở, chống đối từ đương sự, gia đình, họ hàng, dư luận, ảnh hưởng
đến uy tín, nhân thân của đương sự và tinh thần, tâm lý của người chưa thành niên.
Trong khi đó, thực tiễn THADS cho thấy loại việc giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng khá phổ biến trong hoạt động THADS.
Thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng là một
cơng việc rất khó khăn, phức tạp trong hoạt động THADS nhưng LTHADS và các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật này chưa quy định đầy đủ, chặt chẽ về trình tự, thủ tục.
Thực tế cho thấy, khi đương sự có yêu cầu thi hành án giao người chưa thành niên thì
nhiều vụ việc phát sinh khó khăn, vướng mắc, có quan điểm xử lý khác nhau dẫn đến
việc tổ chức thi hành án chậm trễ, kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của các bên đương sự, đặc biệt quyền lợi của người chưa thành niên.
Một vấn đề nữa đặt ra là tình trạng giành quyền ni con bất chấp phán quyết
của tịa án, cố tình chống đối, chay ỳ, kéo dài việc thi hành án giao người chưa
thành niên đang khá phổ biến, tình trạng bắt con, giấu con, đem con bỏ trốn khi cơ
quan THADS đang tổ chức thi hành án đã làm cho tinh thần người chưa thành niên
bị tổn thương, ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe, sự phát triển bình thường của
người chưa thành niên. Bên cạnh đó, một số cơ quan THADS chưa chuyên tâm, chú
trọng, chậm thi hành đối với loại việc thi hành án giao người chưa thành niên dẫn
đến khiếu nại của đương sự. Có nhiều vụ việc cơ quan thi hành án tích cực tổ chức
thi hành nhưng cưỡng chế thất bại do yếu tố tình cảm và sợ ảnh hưởng đến tâm lý
người chưa thành niên. Cũng có trường hợp người phải thi hành án tha thiết muốn

nhanh chống thi hành án nhưng người được thi hành án đi khỏi địa phương, thông
báo nhiều lần nhưng vẫn khơng đến nhận. Tình trạng tịa tun giao người chưa


2
thành niên cho mẹ nhưng con đòi ở với bố và ngược lại cũng khá phổ biến làm cản
trở, khó khăn cho việc tổ chức thi hành vụ việc.

Thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu làm rõ thêm các
vấn đề pháp lý và thực tiễn về thi hành án giao người chưa thành niên cho người được
giao nuôi dưỡng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành loại việc này.
Vì vậy, việc chọn vấn đề “Thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết nhằm
làm rõ những vấn đề pháp luật, khó khăn, vướng mắc và bất cập liên quan đến thi
hành án giao người chưa thành niên, giúp cho công tác THADS đạt được kết quả
toàn diện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu để phục vụ cho việc thực hiện đề tài, tác
giả nhận thấy liên quan đến đề tài thi hành án giao người chưa thành niên cho người
được giao ni dưỡng có một số cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan.
- Dưới hình thức giáo trình, sách chun khảo có những cơng trình tiêu biểu:
+ Lê Thu Hà (2012), “Giáo trình kỹ năng THADS” (phần nghiệp vụ), Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Tác giả đã nhận định hồ sơ thi hành án giao người chưa
thành niên cho người được giao nuôi dưỡng là công việc rất khó khăn do văn bản
pháp luật chưa hồn chỉnh. Để giải quyết tốt cơng việc này thì phương châm vẫn là
tăng cường công tác vận động, thuyết phục để người phải thi hành án tự nguyện thi
hành. Đồng thời, xác định đây là việc thi hành án đặc biệt bởi đối tượng thi hành án
không phải là tiền, tài sản mà là con người, do đó trong trường hợp cưỡng chế thi
hành án thì cũng khơng thể thực hiện theo trình tự, thủ tục như các vụ việc cưỡng
chế giao vật khác.

+ Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp (2012), “Sổ tay Nghiệp vụ THADS”, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Sổ tay nghiệp vụ này bên cạnh việc nhận diện thi hành
án giao người chưa thành niên cho người được giao ni dưỡng là việc khó khăn,
phức tạp thì cơng trình đã phổ biến kinh nghiệm (có minh họa tình huống cụ thể
trong thực tiễn) để tổ chức thi hành án có hiệu quả đối với loại việc thi hành án giao
người chưa thành niên.


3
- Dưới hình thức bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành luật có một số bài viết
về chủ đề thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao ni dưỡng.
Trong các bài viết đó, nổi bật là:
+ Lê Thị Lệ Duyên (2013), “Kỹ năng giải quyết việc THADS phức tạp”, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 2), tr.4-11. Tác giả Lê Thị Lệ Duyên
đã nhận diện việc thi hành án giao người chưa thành niên cho người khác nuôi
dưỡng do liên quan đến giá trị tinh thần nên các bên ln tìm cách bảo vệ quyền lợi
của mình, đồng thời ln tìm cách cản trở việc thi hành án. Bài viết này đã có một
số đề xuất về kỹ năng thi hành án giao người chưa thành niên.
+ Cù Hoàng Hanh (2008) “Một số vướng mắc, bất cập về thi hành án giao
con” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 8(197), tr. 52 - 53. Tác giả Cù Hoàng Hanh
đã nhận diện khá sát thực tiễn về khó khăn, vướng mắc trong thi hành án giao người
chưa thành niên. Tác giả đã dẫn chứng hai trường hợp điển hình về bất cập của thi
hành án giao người chưa thành niên đó là trường hợp người phải thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án và muốn tự nguyện thi hành án cũng khơng thể thi hành được vì
người được thi hành án không nhận người chưa thành niên. Ngược lại, người được
thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng sau đó lại khơng nhận người chưa
thành niên khi cơ quan thi hành án đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục để giao người chưa
thành niên. Tuy nhiên, bài viết này chưa đề xuất, kiến nghị cụ thể về hướng sửa đổi,
bổ sung pháp luật để khắc phục bất cập mà mới chỉ đưa ra hướng đình chỉ vụ việc.
+ Trần Văn An (2010) “Khi Chấp hành viên làm “Hịa giải viên”, Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về thi hành án tháng 9/2010, tr. 09 - 10. Tác giả đã
nhận định thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng
theo bản án, quyết định ln là loại việc khó thi hành, nhiều vụ việc tồn đọng cho dù
Chấp hành viên đã áp dụng nhiều biện pháp, kể cả cưỡng chế. Tuy nhiên, nếu Chấp
hành viên chú trọng biện pháp động viên, thuyết phục ngay từ giai đoạn trước khi ra
quyết định thi hành án thì việc tổ chức thi hành vụ việc lại đạt kết quả tốt.
- Dưới hình thức bài viết trên website chuyên ngành luật, nổi bật là bài viết
của tác giả Hoàng Thị Thanh Hoa về “Thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định” đăng tải trên Cổng thông tin
điện tử . Tác giả đã phân tích khá kỹ về những bất cập, khó
khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Điều 120 của LTHADS về cưỡng chế giao
người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định như


4
bất cập về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, vướng mắc về thực hiện thủ tục
thơng báo áp dụng biện pháp cưỡng chế, trình tự, thủ tục về đề nghị cơ quan có
thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khơng chấp hành án. Mỗi bất cập,
vướng mắc tác giả đã đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án giao
người chưa thành niên.
Như vậy, dưới hình thức giáo trình, sách chuyên khảo và các bài viết trên tạp
chí, website chuyên ngành luật trao đổi, phân tích về chủ đề thi hành án giao người
chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng nêu trên đã phản ảnh về bất cập,
khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng và đã có một số kiến nghị có tính khả thi. Đây là
nguồn tài liệu, thơng tin bổ ích để thực hiện đề tài này.
Trước yêu cầu khách quan, cấp thiết của cơng tác THADS nên có khá nhiều
luận văn luật học nghiên cứu về lĩnh vực THADS. Nhưng các đề tài này chủ yếu
xoay quanh quản lý nhà nước về công tác THADS và nghiên cứu về đối tượng, nghĩa
vụ thi hành án về tiền, tài sản. Chưa có đề tài nào đề cập có tính chun sâu về bất

cập, hạn chế của pháp luật và thực tiễn thi hành án giao người chưa thành niên.
Vì vậy, có thể khẳng định thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng là công việc đặc thù trong hoạt động THADS,
mang tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, đến nay chưa có một cơng trình khoa
học nào nghiên cứu một cách tồn diện, bao qt, đầy đủ và có tính chuyên
sâu về chủ đề này. Vì vậy, việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp để nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án giao người chưa thành niên cho người được
giao nuôi dưỡng là yêu cầu khách quan, cấp thiết trong hoạt động THADS.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật, khắc phục
khó khăn, vướng mắc, bất cập và đề xuất biện pháp tổ chức thi hành có hiệu quả
loại án giao người chưa thành niên cho người được giao ni dưỡng trong hoạt
động THADS. Ngồi ra, việc nghiên cứu nhằm phát hiện, làm rõ tính đặc thù của
loại việc thi hành án giao ngưởi chưa thành niên trong hoạt động THADS.
Để đạt được mục đích trên đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Tập hợp và phân tích LTHADS và các văn bản hướng dẫn thi hành
LTHADS về trình tự, thủ tục THADS giao người chưa thành niên cho người được


5
giao ni dưỡng, qua đó phân tích, làm sáng tỏ các quy định hiện hành về thi hành
án giao người chưa thành niên.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành để thi hành án giao người
chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng ở một số cơ quan THADS, phát
hiện khó khăn, vướng mắc và bất cập khi áp dụng.
- Trên cơ sở đó, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và biện pháp áp dụng pháp luật
để thi hành nhanh chóng, hiệu quả thi hành án giao người chưa thành niên, góp
phần tạo chuyển biến trong công tác THADS.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu việc vận dụng quy định của

LTHADS và các văn bản hướng dẫn để giải quyết việc thi hành nghĩa vụ giao người
chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng trong hoạt động THADS của các
cơ quan THADS.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hai vấn đề trọng tâm về thi hành án giao
người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo quy định của
LTHADS, bao gồm: Thứ nhất, nghiên cứu việc tổ chức thi hành án giao người chưa
thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo thỏa thuận của đương sự; thứ hai,
nghiên cứu về cưỡng chế thi hành án giao người chưa thành niên cho người được
giao nuôi dưỡng.
Những bản án, quyết định nghiên cứu trong đề tài là những bản án, quyết định
về hơn nhân, gia đình; hồ sơ thi hành án về giao người chưa thành niên của một số
cơ quan THADS.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt luận văn, tác giả đã chọn các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích: Sử dụng ở mục 1.1, 1.2; 2.1, 2.2, 2.3 để phân tích
quy định của LTHADS và các văn bản hướng dẫn thi hành LTHADS về thi hành án
giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng; đồng thời phương
pháp này cũng được sử dụng để làm rõ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật hiện hành để tổ chức thi hành án giao người chưa
thành niên cho người được giao nuôi dưỡng.


6
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 1.1, 1.2; 2.1, 2.2, 2.3 để so sánh,
nhằm làm rõ thêm tính đặc thù, sự khác biệt giữa trình tự, thủ tục thi hành án giao
người chưa thành niên khi đối tượng, nghĩa vụ thi hành án là con người với trình tự,
thủ tục thi hành án khi đối tượng, nghĩa vụ thi hành án là tiền, tài sản; so sánh thủ
tục thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên trước khi ra quyết định thi
hành án và sau khi ra quyết định thi hành án; so sánh về việc tổ chức cưỡng chế vụ
việc thi hành án giao người chưa thành niên với cưỡng chế giao vật, giao tài sản

khác. So sánh sự khác biệt giữa quy định của pháp luật với thực tiễn tổ chức thi
hành vụ việc giao người chưa thành niên.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thu thập
được trong quá trình tổ chức thi hành các vụ việc thi hành án giao người chưa thành
niên cho người được giao nuôi dưỡng.
Sau cùng, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để kết luận vấn đề trọng tâm
cần đạt được của đề tài và để làm rõ quan điểm của tác giả trên cơ sở tập hợp các tài
liệu và các số liệu đã thu thập được.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Luận văn đã giải quyết vấn đề cơ sở pháp lý về thi hành

án giao người chưa thành niên cho người được giao ni dưỡng, góp phần hồn
thiện các quy định của pháp luật về thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định.
Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo cho
Chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký trong cơ quan THADS và có thể sử dụng để
học tập, nghiên cứu.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Thi hành án giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi
dưỡng theo thỏa thuận của đương sự
Chương 2: Cưỡng chế thi hành án về giao người chưa thành niên cho người
được giao nuôi dưỡng


7
CHƯƠNG 1
THI HÀNH ÁN GIAO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
CHO NGƯỜI ĐƯỢC GIAO NUÔI DƯỠNG

THEO THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ
Thỏa thuận trong THADS xét về bản chất đó là sự tự nguyện của đương sự
nhằm bàn bạc, trao đổi để đi đến thống nhất thi hành toàn bộ hay một phần nội dung
bản án, quyết định dân sự trên cơ sở quyền, nghĩa vụ đã được tuyên trong bản án,
quyết định. Thỏa thuận trong THADS phải xuất phát từ sự tự nguyện của người
được thi hành án, người phải thi hành án và chỉ thực hiện đối với loại việc theo yêu
cầu thi hành án. Biện pháp thi hành án này phù hợp với tính đặc thù của thi hành án
giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng. Hiện nay, các cơ quan
THADS chú trọng đến biện pháp thi hành án này vì tính hiệu quả và vì sự phát triển
bình thường của người chưa thành niên.
1.1. Thủ tục thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng
LTHADS và NĐ62 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
LTHADS đều ghi nhận đương sự có quyền thỏa thuận về thi hành án1. Theo quy
định của LTHADS thì đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án giao người
chưa thành niên2 nếu thỏa thuận đó khơng vi phạm điều cấm của pháp luật và không
trái đạo đức xã hội. Thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái
đạo đức xã hội là yêu cầu nghiêm ngặt của pháp luật đòi hỏi Chấp hành viên và
những người làm công tác THADS phải hết sức thận trọng3.
Thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên cũng giống như các thỏa
thuận khác trong THADS. Bao gồm thỏa thuận trước khi ra quyết định thi hành án
và thỏa thuận sau khi đã ra quyết định thi hành án. Các trường hợp này khác nhau
về thủ tục áp dụng.
Thứ nhất, Thủ tục thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên trước khi
người được thi hành án yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu thi hành án nhưng cơ
1

Điều 6, điều 7, điều 7a LTHADS; Điều 5 Nghị định 62
Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi ( khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015)
3

Đỗ Văn Ngà (2010) “Hòa giải, thỏa thuận trong thi hành án - một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu
quả công tác THADS”, Tạp chí dân chủ và Pháp luật ( số chuyên đề tháng 9), tr.20
2


8
quan THADS chưa ra quyết định thi hành án. Trong trường hợp này, thỏa thuận
phải lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký
hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận. Tuy nhiên, về thể thức của văn bản
thỏa thuận hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể. Thỏa thuận trong trường hợp này chỉ
cần có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thì thỏa thuận có giá trị pháp lý
mà khơng bắt buộc có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp
xã)4. Quy định này góp phần hạn chế áp lực công việc cho Ủy ban nhân dân cấp xã,
đồng thời phù hợp với nguyên tắc thỏa thuận, tôn trọng ý chí của các bên trong thỏa
thuận THADS. Mặt khác, nếu Ủy ban nhân dân cấp xã có xác nhận cũng chỉ là xác
nhận về chữ ký, không thể ràng buộc các bên thực hiện thỏa thuận.
Đối với trường hợp thỏa thuận khi đã có yêu cầu thi hành án nhưng cơ quan
THADS chưa ra quyết định thi hành án giao người chưa thành niên cho người được
giao nuôi dưỡng trong thực tiễn thi hành án đã có vụ việc Chấp hành viên tiến hành
hòa giải, vận động đương sự thỏa thuận giao người chưa thành niên thành công mà
không phải ra quyết định thi hành án. Chẳng hạn như vụ việc tại Chi cục THADS
huyện Quảng trạch - Quảng Bình về tổ chức thi hành án giao người chưa thành niên
theo Quyết định số 45/2010/QĐ-HNGĐ của Tòa án huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình. Cụ thể, khi nhận yêu cầu thi hành án (nhận yêu cầu thi hành án ngày
28/5/2010), Chi cục THADS huyện Quảng Trạch đã cử 2 Chấp hành viên có kinh
nghiệm thực hiện vai trị động viên, thuyết phục, giải thích, ngày 31/5/2010 (3 ngày
kể từ ngày nhận yêu cầu thi hành án) Chi cục THADS huyện Quảng Trạch đã thi
hành xong vụ việc, các bên đã thỏa thuận qua hình thức “Bản cam kết”, người được
thi hành án đã rút yêu cầu thi hành án5.
Thứ hai, Đối với trường hợp thỏa thuận giao người chưa thành niên cho

người được giao nuôi dưỡng sau khi cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án.
Thủ tục thỏa thuận thi hành án trong trường hợp này có điểm khác với trường hợp
thứ nhất. Đó là việc thỏa thuận phải dựa trên cơ sở quyết định thi hành án của cơ
quan THADS. Thỏa thuận này có sự chứng kiến của Chấp hành viên nếu đương sự
yêu cầu.
4

Tại điều 3 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của LTHADS về thủ tục THADS (được thay thế bởi Nghị định 62/2015/NĐCP) quy định thỏa thuận trước khi có quyết định thi hành án phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã.
5
Trần Văn An (2010), “Khi Chấp hành viên làm “Hòa giải viên”, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, Số chuyên
đề về THADS, tr. 09 - 10.


9
Theo quy định, khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên mới có trách nhiệm
chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận. Nội dung thỏa thuận trong trường hợp
này có thể là thỏa thuận về thời gian, địa điểm, cách thức tổ chức thi hành án giao
người chưa thành niên hoặc có thể thỏa thuận đình chỉ thi hành án giao người chưa
thành niên6.
Ví dụ: Căn cứ Quyết định thi hành án số 151/QĐ-THA ngày 26/12/2008 của
Thi hành án thị xã Kon Tum, ngày 19/2/2009 Chấp hành viên của đơn vị này đã lập
biên bản thỏa thuận thi hành án giữa Nguyễn Tấn Vương (người phải thi hành án)
và Hoàng Thị Tâm (người được thi hành án), biên bản thỏa thuận thể hiện người
phải thi hành án và người được thi hành án thỏa thuận tháng 6 năm 2009 sẽ giao
người chưa thành niên. Đây là việc thỏa thỏa thuận về thời gian giao người chưa
thành niên7. Cũng vụ việc này, ngày 29/6/2009 đương sự thỏa thuận về địa điểm
giao người chưa thành niên. Cụ thể do cháu Trinh đang ở với ông bà nội tại Quảng
Nam nên bên phải thi hành án đề nghị bên được thi hành án từ Kon Tum về Quảng
Nam đón cháu Trinh và đề nghị này bên được thi hành án đã đồng ý8. Cả hai lần

thỏa thuận trên, trong biên bản đều có chữ ký của Chấp hành viên. Chỉ có sự khác
biệt về thể thức là lần thỏa thuận thứ nhất thì thể hiện dưới hình thức “Biên bản thỏa
thuận thi hành án”, lần thỏa thuận thứ hai thể hiện dưới hình thức “Biên bản giải
quyết việc thi hành án”.
Pháp luật quy định Chấp hành viên chỉ chứng kiến và ký văn bản thỏa thuận
khi đương sự có yêu cầu, pháp luật không quy định trách nhiệm của Chấp hành viên
phải chứng kiến khi đương sự khơng có u cầu. Tuy nhiên, trong thực tiễn với tính
chất, đặc thù của thi hành án giao người chưa thành niên thì Chấp hành viên khi
được giao thi hành vụ việc thường chủ động làm việc với các bên đương sự để
thuyết phục đương sự thỏa thuận việc thi hành án. Pháp luật cũng không quy định
thủ tục yêu cầu Chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận là bằng văn bản hay chỉ
đề nghị bằng miệng.
Ví dụ: Ngày 9/3/2017, Chi cục THADS huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang ra
quyết định thi hành án buộc Nguyễn Văn Liêm giao cháu Nguyễn Thu Hằng cho

6

Nếu thỏa thuận đình chỉ thi hành án thì người được thi hành án không được yêu cầu cơ quan THADS thi
hành án trở lại.
7
Phụ lục số 01
8
Phụ lục số 02


10
Ngô thị Oanh nuôi dưỡng. Ngày 9/3/2017, Chấp hành viên đã lập biên bản làm việc
với người được thi hành án; Ngày 21/3/2017, Chấp hành viên đã làm việc với bên
phải thi hành án; sau đó ngày 29/3/2017 đã lập biên bản, chứng kiến thỏa thuận về
thời gian giao cháu Nguyễn Thu Hằng vào 31/3/2017, địa điểm giao tại nhà người

phải thi hành án Nguyễn Văn Liêm9. Căn cứ Biên bản thỏa thuận, ngày 31/3/2017,
Chấp hành viên đã tổ chức giao nhận người chưa thành niên và lập biên bản giao
nhận người chưa thành niên thành công. Như vậy, vụ việc này Chấp hành viên đã
chủ động giải thích pháp luật, vận động các bên thỏa thuận mà không chờ tới sự đề
nghị của các bên đương sự như pháp luật quy định. Đây cũng là kinh nghiệm các cơ
quan thi hành án cần áp dụng để tổ chức thi hành án giao người chưa thành niên có
hiệu quả. Qua vụ việc này cũng cho thấy, hiện nay mẫu biên bản giao, nhận người
chưa thành niên theo thỏa thuận chưa được pháp luật quy định, hướng dẫn cụ thể.
Do đó, các cơ quan THADS vận dụng mẫu D46-THADS là mẫu giao nhận tài sản
thi hành án (ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 của
Bộ Tư pháp) để lập biên bản giao nhận người chưa thành niên10. Như vậy, là chưa
phù hợp với tính đặc thù của thi hành án giao người chưa thành niên và chưa chặt
chẽ về thủ tục.
Một trường hợp khác cũng chứng kiến thỏa thuận nhưng hồ sơ thi hành án tại
Chi cục THADS thành phố Cam Ranh - Khánh Hịa thì cho thấy sự sáng tạo, linh
hoạt của Chấp hành viên. Cụ thể: Ngày 17/09/2013, Chi cục này ra Quyết định thi
hành án về việc bà Trương Thị Kim Phụng được trực tiếp trong nom, chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Trương Tấn Quốc sinh ngày
20/3/2009. Cùng ngày ra quyết định thi hành án (17/09/2013), Chi cục THADS
thành phố Cam Ranh đã tổ chức cho đương sự thỏa thuận giao người chưa thành
niên thành công tại trụ sở Chi cục. Biên bản thỏa thuận thể hiện nội dung chứng
kiến của Chấp hành viên rất chặt chẽ: “Chi cục THADS thành phố Cam Ranh ghi
nhận nội dung sự thỏa thuận của các bên đương sự, hai bên đã giao nhận con
Nguyễn Trương Tấn Quốc, sinh ngày 20/3/2009 xong, hai bên khơng có ý kiến gì
khác và cam kết sẽ khơng thắc mắc hay khiếu nại về sau”11. Như vậy, Chấp hành
viên đã tổ chức cho đương sự thỏa thuận ngay khi ra quyết định thi hành án, ý kiến
của Chấp hành viên ngắn gọn nhưng thể hiện được sự ràng buộc của các bên đương
9

Phụ lục số 03

Phụ lục số 04
11
Phụ lục số 05
10


11
sự, đồng thời vừa thể hiện các bên đã giao nhận con chung trên thực tế. Biên bản
thỏa thuận này cần được xem xét bổ sung hệ thống biểu mẫu nghiệp vụ THADS.
Xét về thủ tục thỏa thuận về thời gian, địa điểm trong thi hành án giao người
chưa thành niên đối với trường hợp đã ra quyết định thi hành án trong thực tiễn
chưa thấy phát sinh khó khăn, vướng mắc, chỉ có sự khác biệt giữa quy định của
LTHADS và thực tiễn thi hành án là Chấp hành viên đã chủ động tổ chức cho
đương sự thỏa thuận mà không chờ đến khi đương sự yêu cầu chứng kiến thỏa
thuận như LTHADS đã quy định. Như vậy, với tính chất, đặc thù của thi hành án
giao người chưa thành niên thì việc chờ đương sự yêu cầu mới chứng kiến việc thỏa
thuận thì chưa thật sự phù hợp.
Đối với trường hợp cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án mà đương sự
thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan THADS thi hành việc giao người chưa
thành niên thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án đối
với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại Điểm c Khoản 1
điều 50 LTHADS, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba.
Về thủ tục chứng kiến thỏa thuận và ra quyết định đình chỉ thi hành án trong
trường hợp này còn một số vấn đề cần phải thống nhất trong hoạt động THADS:
Một là, trong thỏa thuận thi hành án, LTHADS sử dụng cụm từ “Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” và “người thứ ba” trong khi Điều 3 LTHADS phần
giải thích từ ngữ chỉ có khái niệm “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”12 mà
khơng có chủ thể là “người thứ ba”. Đối với việc thi hành án giao người chưa thành

niên cho người được giao ni dưỡng thì đối tượng thi hành án (người chưa thành
niên) được xem là “người thứ ba” hay là “người có quyền, nghĩa vụ liên quan”.
Hai là, đạo đức xã hội là khái niệm khó định lượng và ln biến động về
phạm vi, nội dung, tuỳ thuộc vào quan niệm, lối sống, mang nặng về yếu tố vùng,
miền, phong tục, tập quán. Trong phạm vi hẹp của thi hành án giao người chưa
thành niên thì thế nào là thỏa thuận trái đạo đức xã hội rất khó hình dung, gây băn
khoăn cho Chấp hành viên khi chứng kiến việc thoả thuận.
12

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực
tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự (Khoản 4, điều 3, LTHADS).


12
Ví dụ tại biên bản làm việc ngày 29/6/2009 của THADS thành phố Kon Tum
có nội dung thỏa thuận: Do cháu Trinh đang ở với ông, bà nội tại Quảng Nam nên
chị Tâm phải tự xuống Quảng Nam để đó cháu Trinh, nếu lúc đón ơng, bà nội cản
trở khơng đón được thì anh Vương đón cháu Trinh giao cho chị Tâm tại Kon Tum.
Về đạo đức xã hội nếu anh Vương ngay lúc đầu tự về đón cháu Trinh để giao cho
chị Tâm tại Kon Tum thì phù hợp hơn vì trước đó họ là vợ chồng và cháu Trinh là
con chung của họ. Tuy nhiên, trong biên bản làm việc này chị Tâm đồng ý với đề
nghị của anh Vương vì “phù hợp với tình cảm gia đình” 13. Như vậy, thỏa thuận này
là không trái đạo đức xã hội vì cơ quan THADS đã chứng kiến thỏa thuận. Nhưng
căn cứ để cho rằng thỏa thuận đó là trái hoặc không trái đạo đức xã hội cũng chưa
thuyết phục.
Từ những phân tích như trên, đối với thủ tục thỏa thuận thi hành án giao
người chưa thành niên, tác giả kiến nghị như sau:
Thứ nhất, Tổng cục THADS cần đánh giá thực tiễn công tác thi hành án giao
người chưa thành niên để có hướng dẫn cụ thể về việc thỏa thuận thi hành án giao
người chưa thành niên “không trái đạo đức xã hội”. Đồng thời, đối tượng thi hành

án (người chưa thành niên) ở đây nên xác định là “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan” hay là “người thứ ba” trong quá trình thỏa thuận thi hành án giao người chưa
thành niên.
Dưới góc độ thực tiễn thi hành án, theo tác giả, thỏa thuận không trái đạo
đức xã hội trong thi hành án giao người chưa thành niên nên hướng dẫn theo hướng
là những thỏa thuận khơng xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của đương sự
và người chưa thành niên. Đối tượng thi hành án (người chưa thành niên) là người
thứ ba chứ khơng phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bởi vì, người chưa
thành niên trong trường hợp này chỉ có quyền lợi và pháp luật phải bảo vệ quyền lợi
của đối tượng thi hành án đặc thù này mà khơng có bất cứ nghĩa vụ nào trong q
trình tổ chức thi hành vụ việc thi hành án giao người chưa thành niên. Do đó, đối
tượng thi hành án (người chưa thành niên) xem là người thứ ba là phù hợp.
Thứ hai, việc quy định “khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách
nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận” chỉ là nguyên tắc chung, đối
với việc thi hành án giao người chưa thành niên, Chấp hành viên cần chủ động nắm
13

. Phụ lục số 2


13
bắt tâm tư nguyện vọng của đương sự để vận động, thuyết phục đương sự thỏa
thuận thi hành án, không chờ đương sự “có yêu cầu” sẽ làm cho vụ việc kéo dài.
Hơn nữa, trong biểu mẫu Biên bản thỏa thuận theo quy định hiện hành cũng quy
định Chấp hành viên là thành phần bắt buộc của việc thỏa thuận thi hành án khi cơ
quan THADS đã ra quyết định thi hành án14.
Vì vậy, theo tác giả, NĐ 62 hướng dẫn thi hành Điều 6 LTHADS bổ sung
hướng dẫn với nội dung như sau: Đối với thi hành án giao người chưa thành niên,
Chấp hành viên không chờ đương sự yêu cầu mới chứng kiến thỏa thuận mà Chấp
hành viên phải linh hoạt, chủ động giải thích, giúp đương sự hiểu pháp luật, hiểu

đúng quyền, nghĩa vụ của mình và đi đến thỏa thuận, bảo đảm cho vụ việc được thi
hành nhanh chóng trên thực tế.
Thứ ba, mẫu văn bản thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên khi
cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án và mẫu văn bản giao người chưa
thành niên cần được bổ sung trong hệ thống biểu mẫu ban hành kèm theo Thông tư
số 01/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 của Bộ Tư pháp để áp dụng thống nhất.
Theo tác giả, mẫu văn bản này phải có các nội dung sau: Bên được thi hành
án, bên phải thi hành án; thành phần tham gia, chứng kiến thỏa thuận (Chấp hành
viên, đại diện cơ quan kiểm sát, chính quyền cơ sở, đại diện các tổ chức chính trị xã
hội ở địa phương…); họ và tên; ngày, tháng, năm sinh của người chưa thành niên;
nội dung thỏa thuận, nội dung giao, nhận. Ngoài ra, mẫu biên bản giao nhận, biên
bản thỏa thuận phải có sự xác nhận của các thành phần tham gia việc giao nhận,
thỏa thuận thi hành án.
1.2. Hiệu lực của sự thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên
cho người được giao nuôi dưỡng
Theo quy định của LTHADS hiện hành thì hiệu lực của thỏa thuận thi hành
án giao người chưa thành niên được quy định tại điều 6 LTHADS. Theo đó, kết quả
thi hành theo thỏa thuận được công nhận. Trường hợp đương sự không thực hiện
đúng thỏa thuận thì có quyền u cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa
được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.

14

Biểu số: D37 -THADS (Ban hành theo Thông tư số: 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp).


14
Hướng dẫn điều 6 LTHADS, tại điều 5 NĐ 62 quy định: Trường hợp đương
sự thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan THADS
chưa ra quyết định thi hành án thì đương sự có nghĩa vụ tự thực hiện đúng nội dung

đã thỏa thuận. Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa
thuận mà thời hiệu yêu cầu thi hành án vẫn cịn thì bên có quyền được yêu cầu thi
hành án đối với phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Sau khi ra quyết định thi hành án, trường hợp các bên không tự nguyện thực
hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan THADS căn cứ nội dung quyết
định thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa thuận, đề nghị của đương sự để tổ
chức thi hành, trừ trường hợp thỏa thuận đình chỉ thi hành án.
Về hiệu lực thỏa thuận, việc quy định kết quả thi hành án theo thoả thuận
được công nhận là chưa rõ, khó hiểu, đồng thời cũng khơng có giải thích nào trong
các văn bản hướng dẫn LTHADS. Vấn đề quan trọng ở đây kết quả thoả thuận của
các đương sự không trái đạo đức xã hội, không trái pháp luật và khơng làm ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba phải có giá trị pháp lý cụ thể,
pháp luật về THADS phải bảo đảm hiệu lực của thỏa thuận. Một trong những
nguyên nhân của hiệu lực thỏa thuận chưa được thực thi trên thực tế là do “việc các
đương sự thoả thuận Chấp hành viên chỉ lập biên bản thoả thuận là chưa thật đảm
bảo quyền lợi của các bên bởi vì biên bản là loại văn bản ghi chép lại những sự việc
đã xảy ra hoặc đang xảy ra, biên bản khơng có hiệu lực pháp lý để thi hành mà chủ
yếu được dùng làm chứng cứ minh chứng các sự kiện thực tế đã xảy ra”15. Tác giả
đồng ý với ý kiến trên. Nếu quy định chung chung như trên thì hiệu lực của thỏa
thuận tùy thuộc rất nhiều vào thái độ, ý thức tự nguyện của bên có nghĩa vụ. Trong
trường hợp này, bên có nghĩa vụ thi hành án giao người chưa thành niên có thể lợi
dụng cơ chế thỏa thuận để kéo dài việc thi hành án.
Ví dụ: Việc tổ chức thi hành Bản án sơ thẩm về hôn nhân gia đình số
44/HNGĐ-ST, ngày 12/11/2011 của Tồ án nhân dân huyện T. Chị Trần Thị B có
đơn yêu cầu Chi cục THADS huyện T tổ chức thi hành. Thủ trưởng cơ quan THADS
huyện T đã ra quyết định thi hành án về khoản giao cháu Nguyễn Văn A cho chị Trần
Thị B nuôi dưỡng và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành. Chấp hành viên đã
15

Phạm Quang Dũng, “Thỏa thuận trong THADS những vấn đề cần hoàn thiện”,

cập nhật
Lúc 14h, ngày 10/01/2017


15
xây dựng kế hoạch và tiến hành lập biên bản làm việc giữa anh H, chị B và đại diện
chính quyền địa phương về nội dung anh H tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi
dưỡng. Anh H, chị B đã ký đầy đủ vào biên bản làm việc với sự chứng kiến của Chấp
hành viên cơ quan THADS và đại diện chính quyền địa phương. Bản chất của việc
này chính là Chấp hành viên đã chứng kiến sự thoả thuận giữa anh H và chị B về việc
anh H tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc thoả thuận giao, nhận cháu A
giữa anh H và chị B đã được thực hiện, nhưng ngay sau đó, anh H đã khơng tơn trọng
thoả thuận đó, gây cản trở cho chị B trong việc thực hiện quyền của mình16. Về hiệu
lực thỏa thuận của vụ việc nêu trên, có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cơ quan THADS đã hết trách nhiệm kể từ khi
anh H, chị B cùng các thành phần đã ký vào biên bản giao, nhận cháu A. Vì vậy,
việc thực tế anh H lại khơng cho chị B đón cháu về ni dưỡng, cơ quan THADS
khơng cịn trách nhiệm giải quyết, mà thuộc trách nhiệm của chính quyền địa
phương. Việc thi hành án đến đây kết thúc.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Cơ quan THADS chưa thể kết thúc vụ việc với
lý do anh H, chị B cùng các thành phần đã ký vào biên bản giao, nhận cháu A. Cơ
quan THADS phải tổ chức cưỡng chế để giao cháu A cho chị B ni dưỡng.
Trong tình huống này, chị B chưa được đảm bảo quyền là được nuôi dưỡng
cháu A, nên chị mới tiếp tục đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo về mặt thực tế.
Đề nghị này là hoàn tồn hợp pháp và chính đáng. Theo quy định của khoản 2 Điều
6 LTHADS: “trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền
u cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung
bản án, quyết định”. Đối chiếu với trường hợp nêu trên, việc thoả thuận giao, nhận
cháu A giữa anh H và chị B đã được thực hiện, nhưng ngay sau đó, anh H đã khơng
tơn trọng thoả thuận đó, gây cản trở cho chị B trong việc thực hiện quyền của mình.

Lúc này chị B hồn tồn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành
theo đúng nội dung bản án. Đối với việc thi hành án mà đối tượng phải giao ở đây là
người chưa thành niên chứ không phải là một tài sản nhất định, do đó khơng thể áp
dụng quy định tại khoản 4 điều 13 NĐ 62 để đẩy trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân

Lương Thanh Tùng, “Lúng túng trong việc thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác
nuôi dưỡng”, cập nhật lúc 11h, ngày 20/3/2017
16


16
cấp xã giải quyết được17. Quy định này chỉ phù hợp với trường hợp đối tượng thi
hành án là tài sản, chưa phù hợp với trường hợp thi hành án giao người chưa thành
niên. Vì vậy, tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai về vụ việc nêu trên.
Một vụ việc khác thể hiện về hiệu lực của thỏa thuận thi hành án giao người
chưa thành niên chưa được thực thi đầy đủ trên thực tế. Cụ thể: Hồ sơ thi hành án
tại Chi cục THADS thị xã Kon Tum - tỉnh Kon Tum giữa Nguyễn Tấn Vương
(người thi phải thi hành án) và Hoàng Thị Tâm (người được thi hành án). Trong vụ
việc này, Chấp hành viên đã hai lần lập biên bản về sự thỏa thuận của đương sự.
Lần thỏa thuận thứ nhất, thỏa thuận vào ngày 19/2/2009 thỏa thuận về thời gian
giao người chưa thành niên (thực chất là thỏa thuận hoãn thi hành án 6 tháng), cụ
thể người phải thi hành án (Nguyễn Tấn Vương) chấp nhận việc giao cháu Nguyễn
Hoàng Băng Trinh sinh ngày 10/3/2004 cho Hồng Thị Tâm ni dưỡng nhưng do
cháu Trinh đang ở với bà nội và đang đi học mẫu giáo tại Thăng Bình- Quảng Nam
nên xin đến tháng 6/2009 khi cháu nghỉ hè sẽ đón cháu lên để giao cho chị Hồng
Thị Tâm ni dưỡng. Đồng thời, người phải thi hành án đã cam đoan nếu sai sẽ
hoàn toàn chịu trách nhiệm. Người được thi hành án đã đồng ý với đề nghị của
người phải thi hành án và cơ quan thi hành án đã ra quyết định hoãn thi hành án.
Lần thỏa thuận thứ hai vào ngày 24/6/2009 bên được thi hành án và bên phải thi
hành án thỏa thuận (thỏa thuận về địa điểm, cách thức thi hành án giao người chưa

thành niên), cụ thể là bên phải thi hành án đề nghị người được thi hành án về Quảng
Nam đón cháu Trinh. Nếu khơng đón được (ơng bà nội cản trở) thì người phải thi
hành án chịu chi phí của chuyến đi từ Kon Tum về Quảng nam. Ý kiến này đã được
người được thi hành án đồng ý. Trong văn bản thỏa thuận người phải thi hành án
một lần nữa cam đoan về ý kiến thỏa thuận của mình là đúng sự thật, nếu sai sẽ chịu
trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên, hai lần thỏa thuận nêu trên người được thi
hành án vẫn không được đảm bảo về quyền lợi của mình là được trực tiếp nuôi
dưỡng cháu Trinh. Vụ việc này 12/8/2009, cơ quan THADS thị xã Kon Tum (nay là
thành phố Kon Tum) phải ra quyết định cưỡng chế số 21/QĐ-THA, ra quyết định

17

Khoản 4 điều 13 NĐ 62 quy định tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó
đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị chiếm lại thì cơ quan THADS khơng có trách
nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản có quyền đề nghị Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có tài sản yêu cầu người chiếm lại tài sản trả lại tài sản cho họ.


17
xử phạt hành chính và đề nghị cơ quan cơng an truy cứu trách nhiệm hình sự thì
mới thi hành xong vụ việc18.
Qua hai vụ việc nêu trên cho thấy hiệu lực về thỏa thuận thời gian, địa điểm,
cách thức thi hành án giao người chưa thành niên khó được thi hành trên thực tế nếu
bên có nghĩa vụ khơng tự nguyện thực hiện nội dung thỏa thuận. Nếu bên có nghĩa vụ
khơng thực hiện việc thỏa thuận giao người chưa thành niên thì cũng khơng có một
sự ràng buộc nào về trách nhiệm mặc dù trong văn bản thỏa thuận các bên cam kết
chịu trách nhiệm trước pháp luật nhưng chịu trách nhiệm như thế nào thì hiện nay
chưa có văn bản nào quy định. Hay nói cách khác, việc thỏa thuận về thời gian, địa
điểm, cách thức thi hành án giao người chưa được thi hành triệt để trong thực tiễn.
Qua việc phân tích trên, tác giả kiến nghị:

Đối với trường hợp thỏa thuận giao người chưa thành niên cho người được
giao nuôi dưỡng khi đương sự đã ký văn bản thỏa thuận giao, nhận nhưng trên thực tế
người được thi hành án chưa nhận được người chưa thành niên thì phải cưỡng chế
giao người chưa thành niên nhằm bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án và
người chưa thành niên. Vì vậy, khoản 4 điều 13 NĐ 62 bổ sung theo hướng: Đối với
thi hành án giao người chưa thành niên, nếu đương sự đã ký văn bản thỏa thuận
giao, nhận nhưng trên thực tế người được thi hành án chưa nhận được người chưa
thành niên thì cơ quan THADS phải cưỡng chế để giao người chưa thành niên.

18

Phụ lục số 6, số 7, số 8


18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu về thủ tục, hiệu lực của thỏa thuận thi hành án giao người chưa
thành niên cho người được giao ni dưỡng, có thể rút ra được một số kết luận sau:
Thứ nhất, thỏa thuận về thi hành án giao người chưa thành niên gồm có hai
trường hợp là thỏa thuận trước khi ra quyết định thi hành án và thỏa thuận sau khi
đã ra quyết định thi hành án. Thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án đã bỏ thủ tục
xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc thỏa thuận.
Thủ tục thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án qua thực tiễn chưa có cơ sở đánh
giá một cách đầy đủ vì hiện nay cơ quan THADS khơng có trách nhiệm thống kê,
đánh giá kết quả thực hiện. Đối với thủ tục thỏa thuận sau khi ra quyết định thi hành
án giữa quy định của pháp luật và thực tiễn phong phú, đa dạng của thi hành án giao
người chưa thành niên có sự khác biệt, đòi hỏi Chấp hành viên phải linh hoạt, nhạy
bén, chủ động mới hướng đương sự đạt được nội dung thỏa thuận, hiệu lực thỏa
thuận mới được thực thi trong thực tế mà không chờ tới sự yêu cầu của đương sự
như pháp luật quy định.

Thứ hai, biện pháp thỏa thuận trong thi hành án giao người chưa thành niên
là một trong các biện pháp cơ bản trong THADS nhưng hiệu lực của thỏa thuận
chưa được thi hành triệt để trong thực tiễn, vẫn còn kẻ hở để đương sự lợi dụng kéo
dài việc thi hành án. Hiệu lực thỏa thuận cịn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các
bên, nhất là bên phải thi hành án.
Thứ ba, về hình thức văn bản thỏa thuận hiện nay chưa được hướng dẫn áp
dụng thống nhất, các cơ quan THADS có sự vận dụng khác nhau, do đó đã ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu lực của thỏa thuận.
Thứ tư, qua nghiên cứu về thủ tục, hiệu lực thỏa thuận thi hành án giao người
chưa thành niên đã tổng hợp được những kinh nghiệm, cách làm hiệu quả của một
số cơ quan THADS (điển hình như cách tổ chức thi hành án giao người chưa thành
niên của Chi cục THADS Quảng trạch, Quảng Bình; Cam Ranh, Khánh Hịa; Hiệp
Hịa, Bắc Giang) có thể phổ biến, vận dụng trong thực tiễn.


19
CHƯƠNG 2
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN VỀ GIAO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
CHO NGƯỜI ĐƯỢC GIAO NUÔI DƯỠNG
Trong THADS, thuật ngữ “cưỡng chế THADS” là việc Chấp hành viên được
giao nhiệm vụ sử dụng quyền năng mà pháp luật trao cho để buộc người phải thi
hành án thực hiện nghĩa vụ của họ đối với người được thi hành án mà nghĩa vụ đó
đã được ấn định trong bản án, quyết định đã có hiệu pháp luật19. Theo quy định tại
khoản 2 điều 9 LTHADS thì người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà
khơng tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án khi đã hết thời gian tự
nguyện thi hành án. Khác với thỏa thuận thi hành án giao người chưa thành niên,
biện pháp cưỡng chế là cơ quan thi hành án dùng quyền lực nhà nước để cưỡng bức
người phải thi hành án phải thực hiện việc giao người chưa thành niên theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Việc tổ chức cưỡng chế thi hành án về giao người
chưa thành niên cho người được giao ni dưỡng có điểm đặc thù là đối tượng

cưỡng chế không phải là tiền, tài sản mà là con người. Về trình tự, thủ tục cưỡng
chế giao người chưa thành niên thực hiện theo trình tự cưỡng chế buộc thực hiện
công việc nhất định theo quy định của LTHADS.
2.1. Căn cứ cưỡng chế thi hành án về giao người chưa thành niên cho
người được giao nuôi dưỡng
Hiện nay, căn cứ cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế thi hành án
giao người chưa thành niên cho người được giao ni dưỡng nói riêng được quy
định tại điều 70 LTHADS. Theo đó, căn cứ cưỡng chế thi hành án bao gồm bản án,
quyết định; Quyết định thi hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường
hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Về các căn cứ cưỡng chế giao người chưa thành niên, nếu cùng một lúc
người được thi hành án yêu cầu nhiều nội dung như thi hành về tài sản, cấp dưỡng,
giao người chưa thành niên thì cơ quan THADS ra chung một quyết định thi hành
án mà không tách thành các quyết định riêng.

19

Lương Thanh Tùng, “Thi hành xong việc thi hành án bằng biện pháp cưỡng chế”,
cập nhật
lúc 8h, ngày 20/01/2017.


20
Ví dụ: Theo Quyết định thi hành án số 1859/QĐ-CCTHADS ngày 13/8/2014
của Chi cục THADS thành phố PleiKu - Gia Lai thì ơng Nguyễn Minh Huy phải thi
hành khoản giao cho bà Nguyễn Thị Thanh Thảo trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn
Bảo Trân; cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Bảo Trân, sinh ngày 26/10/2012 mỗi tháng
1.500.000đ20; hay như Quyết định thi hành án số 284/QĐ-CCTHA ngày 9/3/2010
của Chi cục THADS thành phố Nha Trang - Khánh Hịa thì ơng Nguyễn Văn Chiến
phải thi hành các khoản: thanh toán tiền chênh lệch giá trị tài sản cho bà Nguyễn

Thị Thế 570.000.000đ, giao con chung Nguyễn Phi Vũ cho bà Nguyễn Thị Thế trực
tiếp nuôi dưỡng21.
Quy định về ra quyết định thi hành án giao người chưa thành niên hiện nay
chưa có hướng dẫn bắt buộc phải ra một quyết định thi hành án riêng để thi hành
nghĩa vụ này. Tuy nhiên, việc ra quyết định thi hành án chung trong một quyết định
gồm các nghĩa vụ giao người chưa thành niên, nghĩa vụ về tài sản, cấp dưỡng như
trên là chưa hoàn tồn phù hợp với tính đặc thù và thực tiễn tổ chức thi hành án giao
người chưa thành niên. Hơn nữa, thi hành án các nghĩa vụ khác như cấp dưỡng, thi
hành nghĩa vụ về tài sản có đặc điểm, thủ tục thi hành khác biệt so với thi hành án
giao người chưa thành niên.
Theo tác giả, để phù hợp với thực tiễn cưỡng chế thi hành giao người chưa
thành niên, thì việc tách nghĩa vụ thi hành án giao người chưa thành niên thành một
quyết định thi hành án riêng sẽ giúp cho căn cứ cưỡng chế thi hành án bảo đảm tính
thuyết phục. Hơn nữa, việc ra quyết định riêng theo hướng này cũng phù hợp với
quy định: Trường hợp vào cùng một thời điểm cơ quan THADS nhận được nhiều
yêu cầu thi hành án liên quan đến một bản án, quyết định thì tùy thuộc vào nội dung
của bản án, quyết định của Tòa án; nội dung yêu cầu thi hành án; thời hạn ra quyết
định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan THADS thực hiện việc ra một hay nhiều
quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 7 NĐ 6222.
Kiến nghị: Sửa đổi, bổ sung khoản 1, điều 7 Nghị định 62; Khoản 1, điều 1,
Thông tư số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư
pháp, TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao như sau: Nếu cùng một lúc
20

Phụ lục số 09
Phụ lục số 10
22
Khoản 1, điều 1, Thông tư số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp,
TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục hành chính và phối hợp
trong THADS

21


×