Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Biến đổi văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Pháp giai đoạn 1858 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.9 KB, 27 trang )

1


1

MỞ ĐẦU
Văn hố là một dịng chảy bất tận, ln ln biến đổi. Trong q trình phát
triển, giao lưu và tiếp biến ln là quy luật của văn hố, một quy luật tất yếu của
đời sống con người. Trong lịch sử, Việt Nam đã trải qua nhiều lần chuyển biến lớn
về văn hoá. Từ một nền văn hoá bản địa gốc Đơng Nam Á, văn hóa Việt Nam đã
trải qua quá trình giao lưu tiếp biến với nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới như
Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp, Mỹ. . Trong chặng đường dài của lịch sử đó, văn hố
Việt Nam ln thể hiện một bản lĩnh kiên cường, với một sức sống mãnh liệt và
một sự thích ứng kì diệu để có thể vượt qua mọi giai đoạn khó khăn, mọi sự đồng
hố để tạo dựng một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại. Đặc
biệt trong giai đoạn năm 1858- 1945, văn hóa Việt Nam phải đối mặt với một thử
thách to lớn đó chính là sự xâm lược và đồng hóa văn hóa của thực dân Pháp. Văn
hóa Pháp đã tác động sâu sắc và để lại những dấu ấn đậm sâu trong văn hóa Việt
Nam. Khi nghiên cứu kĩ càng, đào sâu vào các yếu tố văn hóa Việt Nam trong thời
kì này, ta ln nhận ra những dấu ấn văn hóa Việt Nam chưa từng biến mất mà chỉ
tồn tại dưới những cách thức khác nhau trong những cái mới vừa phát sinh. Vì vậy
vấn đề “Biến đổi văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Pháp giai
đoạn 1858- 1945” nên được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, cẩn trọng dưới nhiều
góc độ khác nhau để có thể đưa ra đánh giá chính xác nhất về sự phát triển của văn
hóa Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc cũng như trong tồn bộ tiến trình lịch sử.


2

NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.


1.1 Các khái niệm cơ bản.
1.1.1 Khái niệm văn hóa.
Văn hóa là một khái niệm gần gũi trong cuộc sống con người tuy nhiên càng
đi sâu vào nghiên cứu khái niệm văn hóa càng mở rộng, trở thành một phạm trù
bao quát bao trùm nhiều lĩnh vực. Có rất nhiều ý kiến khác nhau xoanh quanh câu
hỏi Văn hóa là gì?
Ở phương Tây, có nhiều ý kiến khác nhau về văn hóa, M. Xi-xê-rơng - nhà
triết học La Mã cổ đại cho rằng triết học chính là văn hóa; Abraham Moles – một
học giả Pháp cho rằng văn hóa là trí tuệ cả con người, đồng nhất văn hóa với kiến
thức, sự hiểu biết; nhà luật học Đức Puffendorf định nghĩa văn hóa là sự tác động
của con người vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên và là sản phẩm đặc trưng của
con người.
Ở phương Đơng, Mạc Tử đã quan niệm văn hóa đồng nghĩa với giáo dục;
nhà tư tưởng Ấn Độ thì cho rằng văn hóa là sự phát triển nội tại của con người, là
cách ứng xử, là cách làm cho người khác hiểu mình;…
Thơng qua nghiên cứu các đặc trưng của văn hóa có thể định nghĩa văn hóa
như sau: “Văn hóa là một tổng thể hệ thống những giá trị, những chuẩn mực,
những thói quen, những hoạt động trong thực tiễn, có ý thức, mang tính xã hội,
sáng tạo và nhân văn của một cộng đồng người nhất định trong lịch sử nhằm thỏa
mãn nhu cầu của cuộc sống và tạo ra bản sắc riêng.”1
1.1.2 Khái niệm giao lưu văn hóa.
Thuật ngữ giao lưu tiếp biến văn hóa được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều
ngành khoa học xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hóa học. Nếu quy luật kế
thừa là sự khái quát quá trình phát triển văn hóa diễn ra theo trục thời gian thì giao
1

Nguyễn Thị Hồng (2016), Cơ sở văn hóa Việt Nam giáo trình in sách, khoa Tuyên truyền – Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.



3
lưu tiếp biến văn hóa nhìn nhận sự phát triển của văn hóa trong mối quan hệ khơng
gian với nhiều phạm vị rộng hẹp khác nhau, tùy trình độ phát triển và đặc điểm
riêng của mỗi dân tộc.
Giao lưu tiếp biến văn hóa chính là sự gặp gỡ, đối thoại, thâm nhập và học
hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa khác biệt nhau, kết quả là các nền văn hóa ấy
thay đổi bổ sung, làm giàu cho nhau để cùng hướng tới phát triển bền vững.2
1.2 Các đặc điểm của giao lưu văn hóa.
Giao lưu văn hóa diễn ra từ buổi bình minh lịch sử, từ khi con người ra đời
và tạo dựng những nền văn hóa có sắc thái riêng biệt. Quá trình này phát sinh và
phát triển gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của các quốc gia, dân tộc,
diễn ra trong phạm vi hẹp giữa các bộ tộc, rộng hơn là trong phạm vi giữa các
quốc gia và vươn tới phạm vi các châu lục.
Q trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa thường diễn ra theo hai tính chất: tự
nguyện hoặc cưỡng bức. Tính chất tự nguyện thường diễn ra thơng qua các hoạt
động như buôn bán, thăm hỏi, du lịch, hôn nhân, q tặng,…Cịn tính chất cưỡng
bức thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược thơn tính đất đai và đồng
hóa văn hóa của một quốc gia, dân tộc này đối với một quốc gia dân tộc khác. Tuy
nhiên trên thực tế, các tình chất này nhiều khi khơng thuần nhất, có khi trong q
trình giao lưu tự nguyện có những yếu tố mang tính cưỡng bức hoặc ngược lại.
1.3 Một số đặc trưng của văn hóa Pháp.
Pháp, tên chính thức là nước Cộng hịa Pháp, là một quốc gia có lãnh thổ
chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Nước Pháp có diện
tích lớn nhất Tây Âu ( chiếm 1/5 diện tích của cộng đồng chung Châu Âu) với một
khu vực lãnh hải rộng lớn (các khu vực khai thác kinh tế trải dài trong khoảng 11
triệu km2). Pháp là một cường quốc có ảnh văn hóa, kinh tế, quân sự và chính trị
mạnh mẽ trên thế giới. Cộng hồ Pháp theo chế độ Nghị viện - Tổng thống. Quốc
gia này hiện nay có nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do, có
2


Nguyễn Thị Hồng (2015), Văn hóa học và văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động.


4
nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới tính theo GDP (2020). Thủ đô của Pháp là Paris –
kinh đô ánh sáng, một trong những trung tâm văn hóa, kinh tế, du lịch lớn nhất thế
giới. Bốn tộc người châu Âu chính – tiền Celtic, Celtic, Latin và Germanic đã hòa
trộn trong nhiều thế kỉ để tạo nên dân cư hiện tại của Pháp. Hiện nay 40% dân số
Pháp là hậu duệ của những người di cư đến đây, khiến Pháp trở thành một trong
những quốc gia đa dạng sắc tộc nhất thế giới.
Đất nước Pháp được mệnh danh là cái nơi văn hóa Châu Âu với các cơng
trình văn hóa đồ sộ nổi tiếng trên tồn thế giới. Là niềm tự hào của người Pháp,
nền văn hóa pháp đa dạng phong phú và có sự ảnh hưởng nhất đính đến hầu hết
các nền văn hóa khác trên thế giới. Thành phố Paris được xem là địa điểm trọng
yếu phát triển văn hóa của nước Pháp với cơng trình nổi bật nhất và mang đậm
dấu ấn của nước Pháp chính là Tháp Eiffel.
Nước Pháp cũng có một nền ẩm thực nổi tiếng thế giới về sự cầu kì và tinh
tế trong chế biến, bày biện và những nguyên liệu đắt đỏ được sử dụng. Người Pháp
luôn được đánh giá là sành ăn và rất cẩn trọng trong việc ăn uống, đặc biệt cịn có
tính nghệ thuật trong cách thức sắp xếp cũng như thưởng thức món ăn. Từ những
món ăn cao cấp như gan ngỗng béo, sườn cừu đến những món ăn phổ biến như
phơ mai, bánh mì baguette cũng địi hỏi những cơng đoạn chế biến rất phức tạp.
Ngồi ra nước Pháp là một trong những quốc gia Châu Âu có lịch sử lâu đời nhất
về sản xuất rượu nho. Nước Pháp coi rượu vang là một “điểm nhấn” đặc sắc trong
nghệ thuật thưởng thức ẩm thực của mình. Trong hầu như tất cả các bữa ăn, người
Pháp rất coi trọng hình thức bày biện trang trí, màu sắc và phong cách ăn uống.
Điểm đặc biệt nữa là người Pháp thường thích nói chuyện rơm rả trong bữa ăn,
khơng khí trong bữa tối thường sơi nổi.
Hệ thống giao thơng tại Pháp rất phát triển, đặc biệt là giao thông cơng
cộng. Pháp có một mạng lưới đường sắt thuận lợi và hoàn thiện vào loại bậc nhất

thế giới. Pháp sở hữu mạng lưới đường sắt dài 29.000 km lớn thứ hai châu Âu và
lớn thứ 9 trên thế giới. Hệ thống đường sắt của Pháp kết hợp đa dạng các loại
phương tiện như tàu điện ngầm, tàu tốc hành, tàu điện tramway trên mặt đất. Do


5
đó người dân có thể dễ dàng khi đi từ thành phố này sang thành phố khác, ngay cả
với những khoảng cách rất dài: chỉ mất 4 giờ tàu cho quãng đường khoảng 1000
km. Hệ thống vận tải hàng không của Pháp cũng khá phát triển. Sân bay quốc tế
Charles de Gaulle nằm ở ngoại ô Paris là sân bay lớn và nhộn nhịp nhất cả nước
với nhiều đường bay quốc tế hay nội địa khởi hành từ mọi thành phố lớn cho phép
kết nối với bất kì nơi nào trên trái đất trong điều kiện thuận lợi. Tại Pháp có 10
cảng biển lớn, trong đó cảng Marseille là cảng hàng hải chính của Pháp, đây cũng
là cảng lớn thứ hai trong khu vực Địa Trung Hải, thứ tư châu Âu.
Ngơn ngữ chính thức của Pháp là tiếng Pháp, ngơn ngữ này phát triển từ
phương ngữ Gallo-Romance của miền bắc nước Pháp và thay thế tiếng Latin thành
ngôn ngữ nhà nc ca Phỏp vo nm 1539, khi Franỗois I bin nó thành ngơn
ngữ chính thức của chính quyền. Trên thế giới hiện nay có khoảng 300 triệu người
đang sử dụng mỗi ngày hoặc xem tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ 2 sau tiếng mẹ đẻ.
Pháp từng là một quốc gia công giáo truyền thống. Tuy nhiên hiện tại Pháp
là một quốc gia thế tục, và tự do tôn giáo là một quyền lợi theo hiến pháp. Mọi
người được tự do thực hành tơn giáo và mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên
tín ngưỡng hay việc thực hành tơn giáo đều bị cấm. Những tín ngưỡng chủ yếu có
mặt ở Pháp là Cơ đốc giáo (Thiên chúa và Tin lành), Hồi giáo và Do thái giáo.
Pháp được mệnh danh là cái nơi văn hóa châu Âu với rất nhiều di sản văn
hóa ấn tượng. Văn học Pháp thừa hưởng nền tinh hoa từ nền văn minh Hy Lạp –
La Mã cổ đại và chủ thực sự phát triển với những dấu ấn riêng từ thế kỉ XIX và
phát triển rực rõ vào đầu thế kỉ XX. Nền văn học Pháp nổi tiếng thế giới với nhiều
tác phẩm kinh điển như: Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà, Ba chàng lính ngự lâm,
Những người khốn khổ,…Nghệ thuật Pháp cũng phát triển mạnh mẽ ở nhiều lĩnh

vực như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh,…
Nhắc đến nước Pháp có lẽ người ta sẽ nghĩ ngay đến những cơng trình đồ
sộ, xa hoa theo phong cách Gothic. Phong cách Gothic xuất hiện ở miền Bắc nước
Pháp sau đó nhanh chóng lan rộng ra khắp châu Âu. Phong cách Gothic với đặc
điểm nổi bật là vòm cửa nhòm, mái nhọn, các cửa sổ lớn, các cột trụ chắc chắn và


6
được trang trí cầu kì. Sự hấp dẫn, tính uyển chuyển, vẻ đẹp thẩm mĩ cao là những
mĩ từ dành riêng cho cơng trình kiến trúc Pháp. Tại Pháp có hàng trăm thành trì,
lâu đài, những dãy nhà cổ lưu giữu những dáng vẻ riêng biệt của kiến trúc Pháp
cùng tồn tại song song với những cơng trình lớn, đồ sộ, tiêu biểu cho nền kiến trúc
hiện đại của nhân loại như tháp Eiffel, đại lộ Champs Elyseés, Khải Hoàn Mơn,…
Nước Pháp cũng có một nền văn hóa tinh thần độc đáo với nhiều lễ hội đa
dạng, từ các lễ hội tôn giáo như Noel, Lễ Phục sinh,…đến các lễ hội truyền thống
gắn liền với đời sống như lễ hội Carnival de Nice, Lễ hội ánh sáng, lễ hội cam,…
Chương II. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
GIAO LƯU TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHÁP GIAI ĐOẠN 1858 – 1945 .
Văn hóa là tiếp điểm đầu tiên và xuyên suốt của mối quan hệ Pháp – Việt.
Không phải đến khi người Pháp xâm lược Việt Nam, thì giao lưu văn hóa Việt
Nam và văn hóa phương Tây mới diễn ra mà q trình giao lưu văn hóa này đã
diễn ra từ rất sớm trong lịch sử Việt Nam. Qua các nghiên cứu khảo cổ, người ta
thấy trong các di chỉ văn hóa Ĩc Eo có nhiều di vật của các cư dân La Mã cổ đại.
Thương cảng Vân Đồn cũng đã tiếp đón các thương nhân phương tây từ thế kỉ X.
Thế kỉ XVI, các linh mục phương Tây đã đến Việt Nam để truyền giáo, nhà Tây
Sơn cũng có quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, giao lưu văn hóa Việt Nam và
Pháp chỉ diễn ra tồn diện khi Pháp xâm lược Việt Nam. Đây là thời kì biến động
lớn về tư tưởng và chính trị, đồng thời văn hóa Việt Nam cũng có sự thay đổi căn
bản. Giao lưu văn hóa ở thời kì này diễn ra dưới hai dạng: giao lưu một cách
cưỡng bức và tiếp nhận một cách tự nguyện. Vì cuộc giao lưu tiếp biến văn hóa

này diễn ra trong hồn cảnh nhân dân ta phải chống lại chính việc cai trị bằng văn
hóa của Pháp, tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc,
mặt khác phải tiếp nhận nền văn hóa phương Tây để đổi mới, phát triển. Kết quả là
quá trình này đã làm thay đổi diện mạo và cấu trúc văn hóa Việt Nam nhưng
những giá trị cốt lõi, bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam vẫn được bảo tồn.


7
2.1 Văn hóa vật chất.
2.1.1 Trong kiến trúc, cấu trúc đô thị.
Trên lĩnh vực đô thị, từ cuối thế kỉ XIX, do ảnh hưởng từ chính sách xây
dựng các thành phố để tăng cường khai thác thuộc địa của Pháp, hàng loạt các đô
thị lớn đã đô thị Việt Nam từ mơ hình cổ truyền với chức năng trung tâm chính trị
đã chuyển sang phát triển theo mơ hình đơ thị công – thương nghiệp chú trọng
chức năng kinh tế. Ở các đơ thị lớn dần hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc;
nhiều ngành công nghiệp khác nhau ra đời (khai mỏ, chế biến nông lâm sản…).
Các đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần dần phát triển.
Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây
với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam. Chẳng hạn, các
tịa nhà của Trường Đại học Đơng Dương (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội), Bộ
Ngoại giao, Viện Viễn Đông Bác cổ (nay là Bảo tàng lịch sử Hà Nội)… đã sử
dụng hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác… làm nổi bật tính
dân tộc; đưa các mái hiên, mái che cửa sổ ra xa để tránh nắng chiếu và mưa hắt…
Gần một thế kỷ hiện diện của người Pháp ở Việt Nam đã đặt một nét đậm
ảnh hưởng tới kiến trúc Việt. Quá trình đó thể hiện một phần nào sự giao hịa của
hai nền văn hóa Đơng dương – Tây phương. Thời gian này, người ta gọi những
đặc điểm kiến trúc giao thoa đó là kiến trúc thuộc địa. Nhìn lại thời điểm hiện tại,
kiến trúc thuộc địa đã tạo nên những ảnh hưởng lớn trong tiến trình phát triển lịch
sử kiến trúc Việt Nam. Ảnh hưởng đó diễn ra theo trình tự, quy luật song song với
giai đoạn chính trị 1859 – 1954.

Trong giai đoạn đầu khi Pháp bắt đầu kiểm soát Việt Nam, phong cách kiến
trúc Tiền thực dân bắt đầu hình thành với những ngơi nhà ở, làm việc có khơng
gian phù hợp để tránh nóng cho sĩ quan và binh lính Pháp. Giai đoạn tiếp theo với
nhu cầu xây dựng ngày càng nhiều, người Pháp bắt đầu sử dụng những phong cách
thịnh hành tại Pháp vào Việt Nam như phong cách Tân cổ điển, phong cách kiến
trúc địa phương Pháp. Thập kỷ 1920, người Pháp muốn tiếp tục việc khai thác
Đơng Dương, phát triển rộng hơn q trình đơ thị trong tiến trình khai hóa. nên đã


8
kết hợp các yếu tố kiến trúc Pháp như cấu trúc mặt bằng, hình khối kết hợp với
những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khmer để tạo ra
phong cách Đông Dương - đây cũng là lối kiến trúc pháp thịnh hành nhất tại Việt
Nam tại các khu vực Hà Nội và Sài Gòn. Đồng thời với sự phát triển của kiến trúc
Đông Dương, phong cách kiến trúc hiện đại cũng từng bước du nhập. Phong cách
Gothic du nhập vào Việt Nam khi người Pháp thường sử dụng phong cách này
trong quá trình xây dựng các nhà thờ Công giáo ở Việt Nam. Hiện tại vẫn cịn rất
nhiều cơng trình kiến trúc tiêu biểu cho các ảnh hưởng của kiến trúc Pháp tại Việt
Nam như Bảo tàng Lịch sử Quân sự (phong cách Tiền thực dân), Nhà Hát lớn Hà
Nội (phong cách Tân cổ điển), Nhà Thờ lớn Hà Nội (phong cách Gothic), Bảo
tàng lịch sử Hà Nội (phong cách Đông Dương),…và rất nhiều khu nhà cổ, biệt thự
cổ. Hiện tại một số phong cách kiến trúc thuộc địa vẫn rất thịnh hành và được ưa
chuộng như phong cách Tân cổ điển, phong cách Đông Dương,…Người Pháp
khơng xóa bỏ văn hóa bản địa nên hệ thống các cơng trình kiến trúc như đình chùa
miếu lăng tẩm không bị tổn hại nhiều. Điều này đã tạo ra sự giao thoa văn hóa độc
đáo giữa hai yếu tố truyền thống và hiện đại, bản địa và ngoại lai.
2.1.2 Hệ thống giao thơng.
Sau khi hồn tất cuộc xâm lược Việt Nam về mặt quân sự, đầu năm 1897,
người Pháp đã triển khai ngay công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam nói riêng
cũng như Đơng Dương nói chung một cách quy mơ. Trong đó người Pháp đã tập

trung xây dựng hạ tầng giao thông vận tải lớn ở Việt Nam như: Xây dựng hệ thống
bến cảng, đường sắt, đường bộ, sân bay... để phục vụ cho công cuộc khai thác
thuộc địa. Dựa trên hệ thống đường bộ vốn được đắp đất, nhỏ bé của triều nhà
Nguyễn, người Pháp đã tăng cường hệ thống giao thông vận tải để phục vụ cho
phát triển kinh tế, vận hành bộ máy hành chính đến các cấp và vận chuyển quân
đội đàn áp phong trào nổi dậy.
Người Pháp đã triển khai xây dựng tuyến đường sắt theo công nghệ đường
sắt của Pháp với khổ đường ray 1 mét, kết nối nhiều khu vực trên khắp cả nước và
cả với các nước lân cận. Các trục đường bộ song trùng với các tuyến đường sắt


9
này cũng được nâng cấp, trở thành các trục đường liên tỉnh. Đường săt được xây
dựng cùng với các cầu thép đi chung đường bộ đường sắt. Trong thời gian này
hàng loạt cây cầu kiên cố cũng được xây dựng để phục vụ cho tàu hỏa và các loại
phương tiện giao thơng đường bộ khác. Một trong những cơng trình nổi bật nhất là
cầu Long Biên, ban đầu phục vụ cho tuyến đường sắt nối Hà Nội với Hải Phòng,
được xem là một trong những cơng trình lớn nhất thế giới vào đầu thế kỷ XX, đồ
sộ nhất và chưa từng có ở vùng Viễn Đơng.
Pháp cũng xây dựng nhiều sân bay dọc khắp cả nước để vận chuyển binh
lính, vũ khí đến các địa điểm trọng yếu. Hệ thống sân bay thời Pháp đến năm 1945
tại Việt Nam có khoảng 11 sân bay, bao gồm: Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Gia Lâm,
Cát Bi, Bạch Mai, Đồng Hới, Huế, Nha Trang, Cà Mau, Phan Thiết, Sóc Trăng,...
Ở Việt Nam thời đó, giao thơng đường thủy đóng vai trị chủ đạo, vì thế
ngay sau những đợt tấn cơng qn sự đầu tiên xâm lược Việt Nam, năm 1860,
người Pháp tuyên bố mở cửa biển cho tàu buôn Pháp tự do vào Sài Gịn. Từ đó
đường thủy ven biển và các kênh rạch ở miền Nam được khai thác. Theo đó năm
1862 Pháp mở cửa biển Đà Nẵng, Cam Ranh, xây dựng cảng Hải Phòng vào năm
1876, cảng Sài Gòn vào năm 1884. Tiếp theo là các cảng Bến Thủy, Quy Nhơn,
Hòn Gai, Cẩm Phả...

2.1.3 Trong ẩm thực.
Một trong những biểu hiện nổi bật của sự kết hợp tinh hoa văn hóa Việt
Nam và văn hóa Pháp chính là trong lĩnh vực ẩm thực. Người Pháp mang rất nhiều
nguyên liệu và hương vị tới Việt Nam như khoai tây, măng tây, cà rốt, hành tây, su
su, su hào, củ rền, bơ, pho mát,…nhưng thứ nổi tiếng nhất, dễ gây chú ý nhất có lẽ
là bánh mỳ dài baguette, loại bánh đã được người Việt áp dụng và tạo nên một
phong cách bánh mì Việt. Khơng chỉ những ngun liệu đơn giản mà ngay cả
những phương pháp nấu ăn của Việt Nam cũng phần nào chịu ảnh hưởng từ Pháp.
Các món ăn hiện đã trở nên rất quen thuộc với người Việt như salad, pa tê, vịt nấu
cam (duck à l’organe), trứng ốp lết (omlette), bít tết (beef steak), sốt vang, dăm
bơng (jambon) và xúc xích (saucisse)… đều là những món ăn từ lâu đã rất phổ


10
biến tại Pháp. Kể từ khi người Pháp đưa cà phê vào Việt Nam vào những năm
1800, thức uống này đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa
xã hội Việt Nam thời hiện đại. Tuy tiếp nhận rất nhiều yếu tố của văn hóa Pháp
nhưng văn hóa ẩm thực của người Việt Nam vẫn duy trì những nguyên tắc cốt lõi
từ bao đời nay như việc coi cơm tẻ là thành phần không thể thiếu trong bữa cơm,
món ăn được phối hợp cân đối hài hịa, và vẫn trọng tính cộng đồng trong văn hóa
lối ăn.
2.1.4 Trong trang phục.
Trang phục phương Tây đã từng bước đi vào đời sống xã hội và văn hoá của
Việt Nam kể từ khi người Pháp áp đặt sự ảnh hưởng lên toàn Việt Nam vào giữa
thập niên 80 của thế kỷ XIX. Tại các khu vực thành thị lớn tập trung nhiều thương
nhân và người ngoại quốc như ở Hà Nội và Sài Gòn, các thợ may bản xứ đã nhanh
chóng học hỏi được kỹ thuật cắt may âu phục từ những đơn đặt hàng của người
Pháp. Nghề may âu phục trong nước đã được hình thành và dần chuyển hóa cách
ăn mặc của đại bộ phận người Việt ở tầng lớp cao của xã hội. Trong khi nam giới
nặng nề tiếp thu kiểu ăn mặc phương tây như áo sơ mi, quần âu, veston,…thì trang

phục phụ nữ được cải biến từ cái truyền thống để cách tân cho phù hợp với điều
kiện mới. Hiện tượng khá phổ biến thời kỳ này là cải biên và sáng tạo ra chiếc áo
dài – trang phục đặc trưng sau này của phụ nữ Việt.
Phong trào âu hóa trong ăn mặc cịn đồng nghĩa với việc tiếp thu hay cải
tiến theo đổi mới chứ khơng đơn thuần là tiếp nhận hồn tồn. Trang phục thời kỳ
này đã có những thay đổi đáng kể, nhưng những thay đổi này vẫn dựa trên cơ sở
truyền thống, do vậy chúng ta vẫn sẽ thấy được khá nhiều những yếu tố truyền
thống tồn tại trên trang phục.
2.2 Văn hóa tinh thần
2.2.1 Trong ngơn ngữ, chữ viết.
Có thể nói dấu ấn lớn nhất của văn hóa Pháp trong hệ thống ngơn ngữ Việt
Nam chính là chữ viết. Đầu thế kỉ XVII khi đến Việt Nam để truyền giáo, các giáo


11
sĩ phương Tây đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày
xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin". Chữ Quốc ngữ có đặc điểm đơn
giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, giúp dễ phổ biến trong quảng đại
quần chúng nhân dân. Giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes không phải là
người đầu tiên sáng tạo ra chữ quốc ngữ nhưng ơng đã có cơng rất lớn khi cho in
cuốn từ điển Việt - Bồ - La, cuốn từ điển đầu tiên có sử dụng chữ quốc ngữ.
Từ buổi đầu cuộc chiếm đóng Việt Nam của Pháp, Pháp đã coi chữ Quốc
ngữ như như một công cụ hữu hiệu của chính quyền thuộc địa nhằm Âu hóa nền
quốc học Việt Nam và ra sức lan truyền chữ Quốc ngữ thông qua hệ thống truờng
học của Pháp. Tuy nhiên những sĩ phu Việt Nam lại cho đó là vũ khí sắc bén trong
công cuộc truyền tải những tri thức mới, phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu
nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà để từ đó chủ trương
dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp và đặc biệt dạy văn hóa, phổ biến kiến thức. Chữ
Quốc ngữ ngày càng phổ biến hơn. Dần dần xuất hiện việc sử dụng chữ Quốc ngữ
để sáng tác văn học. Với việc phổ biến chữ quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ

Quốc ngữ đã phát triển mạnh mẽ và dần lấn át dịng văn học chữ Nơm và chữ
Hán.
Đến nay, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã tự nguyện lựa chọn chữ
Quốc ngữ làm chữ viết tiếng Việt. Giá trị của chữ Quốc ngữ càng được nâng cao:
Chữ Quốc ngữ được dùng làm cơ sở để xây dựng hệ thống chữ viết cho nhiều
ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta. Có thể khẳng định chữ Quốc ngữ là có vai trị
là chữ viết quốc gia của Việt Nam.
Khi người Pháp đến Việt Nam họ đem theo rất nhiều thiết bị, đồ dùng, thực
phẩm,…chưa từng xuất hiện ở Việt Nam trước đây, nên người dân đã mượn những
từ gốc tiếng Pháp để gọi tên những thứ này. Tuy nhiên khi mượn từ ngữ từ tiếng
Pháp, người Việt không sử dụng y nguyên từ gốc mà có sự việt hóa bằng cách đọc
chệch đi, thay đổi sao cho gần gũi, dễ đọc. Có rất nhiều từ mượn tiếng Pháp đã trở
nên vô cùng phổ biến, được sử dụng nhiều và trở thành những từ ngữ hằng ngày
như cao su (caoutchouc), bia (rượu bia – bière), cà-rốt (carotte), bơ (beurre), kem


12
(crème), xà bơng (savon), nhà băng (banque), xúc xích (saucisse), áo sơ mi
(chemise),…
2.2. Trong văn học nghệ thuật.
Trong văn học
Sự ra đời và phổ biến của chữ Quốc ngữ đã làm phát sinh một dòng văn học
mới trong nền văn học Việt Nam. Ngoài văn học chữ Hán, văn học chữ Nơm,
chúng ta có thêm văn học chữ quốc ngữ.
Trong thời gian đầu do các tác giả vẫn chịu sự ảnh hưởng từ cách thức suy
nghĩ của lối viết cũ và cũng chưa làm quen với các thể loại mới nên văn học chữ
Quốc ngữ một thời gian dài ban đầu chỉ là một hình thái khác của Văn học chữ
Nơm. Nó chỉ khác văn học chữ Nơm ở loại hình văn tự mà khơng khác mới về mặt
tư tưởng cũng như các thể loại sáng tác. Ban đầu, chữ Quốc ngữ được dùng để
phiên âm các sách chữ Nôm, chữ Hán, chữ Pháp. Giai đoạn này cũng là giai đoạn

Văn học chữ Quốc ngữ đi vào quảng đại quần chúng bằng những chuyện ngoài
đời được viết bằng các sáng tác ngắn xuất bản dưới hình thức các tập sách mỏng
hay in trên báo chí.
Sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây và sự phổ biến của dòng văn học bằng
chữ quốc ngữ đã làm nảy sinh trong lĩnh vực văn học thể loại tiểu thuyết hiện đại
vốn là không có trong nền văn học truyền thống Việt Nam, khởi đầu là tiểu thuyết
của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ Quốc ngữ in ở Sài Gòn năm 1887 với nhan
đề Truyện thầy Lazaro Phiền, tiếp đó là hàng loạt tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh… Đến thập niên hai mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ có
khá nhiều tác giả: ở Sài Gịn có Phạm Duy Tốn, Lê Hồng Mưu, Hồ Biểu Chánh;
trong khi đó ở Hà Nội có Nguyễn Trọng Thuật, Hồng Ngọc Phách,… Trong giai
đoạn những năm 1930 – 1940, văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ đã xuất hiện hai
trường phái lớn chịu ảnh hưởng từ văn học Pháp là trường phái lãng mạn và
trường phái hiện thực. Nhóm Tự lực văn đồn tiêu biểu cho trường phái lãng mạn
với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam,…với một loạt tác phẩm như Nửa chừng


13
xuân, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Bướm trắng,… Bên cạnh nhóm Tự lực văn đồn là
các nhà văn hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nam Cao với Chí
Phèo, Vũ Trọng Phụng với Giơng tố, Số đỏ,… Chất văn xi, tính cách cá nhân
phương Tây cịn ảnh hưởng vào cả một lĩnh vực có truyền thống lâu đời như thơ
dẫn đến sự bùng nổ của dòng thơ mới với những tên tuổi như Thế Lữ, Hàn Mặc
Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… vào những năm 30.
Mặt khác, sự chuyển mình của văn học Việt Nam giai đoạn này khơng chỉ ở
phương diện hình thức. Làn gió lạ của phương Tây thổi vào Việt Nam đầu thế kỉ
XIX đã đem theo những tư tưởng mới lạ của chủ nghĩa cá nhân Pháp. Cái tôi cá
nhân, sự ý thức về cá nhân, khao khát tự do, tình yêu được bộc lộ mạnh mẽ trong
các tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, trong các tập thơ của các nhà thơ Mới
là một hiện tượng mới trong văn hoá Việt Nam. Chưa bao giờ tiếng nói từ hạnh

phúc cá nhân lại cháy bỏng như vậy trong văn học Việt Nam.
Trong hội họa.
Tác động lớn nhất của văn hóa Pháp đến hội họa Việt Nam là vào năm
1924, khi Trường mỹ thuật Đông Dương được thành lập tại Hà Nội. Năm 1925 là
thời điểm quan trọng cho các họa sĩ Việt Nam tiếp cận với hội họa Châu Âu.
Trường Mỹ thuật Hà Nội với nhiều bộ môn khác nhau (từ kiến trúc đến hội họa, từ
nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật trang trí đến sơn mài…) là chiếc nơi của nền mỹ
thuật hiện đại Việt Nam. Các nghệ sĩ trẻ của Việt Nam thời đó và những người
được tuyển chọn vào trường, đã tiếp cận với một phong cách mới, với những kỹ
thuật mới. Tại đây, họ đã khám phá tranh sơn dầu, tranh khắc gỗ, màu nước … Họ
không chỉ vẽ trên giấy mà còn vẽ trên vải. Về phương diện nghệ thuật, các họa sĩ
Việt Nam thời đó được tiếp cận với trường phái hiện thực, và họ cũng đã có những
khái niệm mới trong cách bố trí, trong tầm nhìn và chiều sâu của bức họa. Về chủ
đề trong tranh, trước đó thì hội họa Việt Nam thường được biết tới qua những bức
chân dung của các vị chức sắc, hay những bức tranh thờ phụng. Qua giao lưu với
các nghệ sĩ Pháp, nền mỹ thuật Việt Nam quan tâm nhiều đến khía cạnh thực tế
của cuộc sống, đến thiên nhiên, những sinh hoạt bình thường nhất trong cuộc sống,


14
trong một gia đình … Đấy cũng là nơi những tài năng của Việt Nam ở nửa đầu thế
kỷ XX đã thăng hoa và tỏa sáng, như Lê Văn Đệ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, Tơ Ngọc
Vân, Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, ...
Âm nhạc
Âm nhạc của châu Âu theo chân người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu
tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các linh mục Việt
Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó, người
dân được làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở
thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu, các
bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vịng

rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên u âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi
mandolin, guitar và cả vĩ cầm, dương cầm. Dần dần hình thành Tân nhạc Việt Nam
là thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng. Ban đầu cũng chỉ là các ca
khúc nhạc Pháp được phổ lại lời Việt hoặc những ca khúc được nghệ sĩ Việt Nam
sáng tác nhưng mang đậm ân hưởng nhạc Pháp nhưng sau đó cũng dần thay đổi
phát triển tạo ra những dấu ấn riêng của nền âm nhạc Việt Nam.
Kịch nói
Trước thế kỷ XX, nghệ thuật sân khấu Việt Nam tồn tại hai thể loại sân khấu
âm nhạc truyền thống là tuồng và chèo. Tuy nhiên vào thời kỳ đó đã bắt đầu q
trình cải cách để thích ứng với điều kiện của một xã hội nửa thuộc địa nửa phong
kiến. Chính vào thời kỳ này ở Việt Nam đã xuất hiện những thể loại sân khấu mới
là cải lương và kịch nói. Kịch nói đã ra đời trên cơ sở của nghệ thuật phương Tây,
chịu ảnh hưởng từ sân khấu cổ điển Pháp nhằm phục vụ nhu cầu của giới trí thức
và thanh niên (học sinh, sinh viên) – những người chịu ảnh hưởng lớn của nền văn
hố phương Tây. Ban đâu kịch nói và văn học kịch đã hình thành dưới ảnh hưởng
trực tiếp của sân khấu Pháp và chưa tách hẳn ra khỏi sân khấu âm nhạc dân tộc.
Nhiều nhà soạn kịch thường hay sáng tác đồng thời cho kịch nói cũng như sân
khấu âm nhạc. Sau đó vào cuối những năm 1920, phong trào kịch nói phát triển ồ
ạt, nhiều nhóm và ban kịch (kể cả không chuyên nghiệp) đã được thành lập. Nền


15
văn học kịch cũng phát triển và rất nhiều tác phẩm văn học đã được phóng tác
thành kịch để diễn trên sân khấu.
Các thể loại nghệ thuật khác.
Nghệ thuật thanh sắc tổng hợp cổ truyền bắt đầu phân hóa thành hàng loạt
bộ môn như ca, múa, nhạc kịch… Các thể chế nghệ thuật khác như nhà hát Opera
Hà Nội, Opera Saigon, Opera Hải Phòng, rạp chiếu phim Cinema Palace (nay là
rạp Công Nhân),… và tiếp tục tồn tại tới ngày nay.
Qua quá trình phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam dưới ảnh hưởng

của văn hóa Pháp có thể thấy văn học, nghệ thuật Việt Nam đã chắt lọc, tiếp thụ
những tinh hoa văn hóa Pháp nhưng vẫn ln phát triển, thay đổi để tạo ra những
dấu ấn riêng.
2.2.2 Trong giáo dục, khoa học.
Ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam đã làm thay đổi hoàn toàn chế độ giáo
dục của Việt Nam. Để phục vụ cho guồng máy cai trị, người Pháp đặt mục tiêu
hủy diệt nền Nho học, chữ Hán, chữ Nôm phải triệt bỏ và thay thế bằng chữ Pháp,
chữ quốc ngữ cùng một họ mẫu tự La tinh. Hệ thống thi cử thời phong kiến bị hủy
bỏ. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây).
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn.
Trong giai đoạn đầu (1862-1917) ở Bắc kỳ và Trung kỳ có sự tồn tại song
song giữa một chế độ khoa cử kiểu Nho giáo, và chế độ giáo dục của Pháp ở Nam
kỳ. Năm 1898, chương trình thi Hương có thêm hai mơn Quốc ngữ và Pháp văn.
Từ năm 1917, toàn bộ chế độ giáo dục của cả nước được đặt dưới quyền của Tồn
quyền Đơng Dương, và thống nhất cả ba kì gồm ba bậc: Bậc tiểu học, gồm ba lớp
đồng ấu, dự bị và sơ đẳng dạy Quốc ngữ và một ít chữ Pháp. Sau đó, thi sơ học
yếu lược và học tiếp ba năm ở các trường huyện, và tỉnh lỵ, rồi thi tiểu học. Ở ba
lớp này tiếng Pháp là chuyên ngữ có dạy thêm tiếng Việt, chữ Hán. Các mơn lịch
sử, địa lý, tốn đều bằng tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp tiểu học được thi học cao
đẳng tiểu dạy hồn tồn Pháp văn, có giờ Việt văn và Hán văn, chương trình có


16
tốn, lý, hóa, sử, địa. Bậc trung học gồm ba năm theo ba năm cuối của trung học
Pháp. Bậc đại học, được thành lập năm 1919, lúc đầu chỉ có các trường cao đẳng
chuyên nghiệp để giúp việc cho người Pháp ở các cơng sở, là một hình thức trung
gian giữa đại học và trường chuyên nghiệp. Năm 1927, Pháp thành lập các khoa Y,
Dược, Luật và Hành chính, Sư phạm… theo mơ hình Pháp. Lúc đầu, có các trường
cao đẳng Y học, Dược học, Sư phạm, Cơng chính, Giao thông, Thương mại, Canh
nông. Hệ thống Nho học tàn lụi dần. Đến năm 1915 ở Bắc Kì và 1918 ở Trong Kì

việc thi Hương bị bãi bỏ, chấm dứt nền Nho học Việt Nam.
Hệ thống giáo dục mới này cùng với sách vở phương Tây đã góp phần giúp
tầng lớp trí thức hình thành và tiếp xúc với các tư tưởng dân chủ tư sản, rồi sau là
tư tưởng Mácxít. Truyền thống đạo học với lối tư duy tổng hợp nay được bổ sung
thêm kiểu tư duy phân tích. Nó được rèn luyện qua báo chí, giáo dục và hoạt động
của những cơ quan khoa học như Trường Viễn Đông Pháp (thành lập 1901 tại Hà
Nội), Viện Vi trùng học (thành lập ở Sài gòn năm 1891, Nha Trang năm 1896, Hà
Nội năm 1902). Nền khoa học hiện đại manh nha từ thời thuộc Pháp này đến khi
giao lưu với Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đã trở nên thực sự
vững mạnh và phát triển.
Giáo dục thời Pháp kéo dài gần một thế kỷ với nhiều ý kiến đánh giá trái
chiều. Mặt tiêu cực của nó với Việt Nam là những mưu đồ thực dân của Pháp đã
đạt được. Song, mặt tích cực ngồi ý muốn của Pháp là tạo ra một tầng lớp tri thức
có trình độ đại học, nắm vững khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Những người này trước
là phục vụ bộ máy cai trị của Pháp, sau tháng 8/1945 lại trở thành nguồn nhân lực
có trình độ, chun mơn, phục vụ trong bộ máy của Việt Nam.
2.2.3 Trong báo chí, xuất bản.
Ở Việt Nam, báo chí chỉ xuất hiện từ khi quân đội Pháp chiếm được Nam
Kỳ và bắt đầu thiết lập chế độ thuộc địa ở nước ta, khoảng giữa thế kỷ XIX. Sự tác
động của Pháp tới Việt Nam là yếu tố có vai trị vơ cùng quan trọng để ngành báo
chí ra đời. Đầu tiên đó chính là sự phát triển của chữ Quốc ngữ đã tạo ra một loại
chữ dễ đọc, dễ viết, có thể phổ cập rộng rãi trong quần chúng, đây là một yếu tố rất


17
quan trọng vì ở xã hội Việt Nam trước đây, tỉ lệ người có thể đọc viết chữ Hán
hoặc chữ Nơm là rất ít nên việc truyền bá thơng tin bằng báo in là rất khó. Thứ hai,
khi Pháp vào Việt Nam đã mang theo công nghệ in ấn đúc chữ thay thể cho cách
in khắc gỗ ngày xưa, giấy in của Pháp cũng thay thế các loại giấy truyền thống của
Việt Nam, khiến cho việc in ấn đạt chất lượng tốt hơn, nhanh chóng và thuận tiện

hơn. Và cũng nhờ Pháp phát triển hệ thống giao thông đã giúp việc truyền tin tức
nhanh chóng hơn trước đây rất nhiều. Khởi điểm để báo chí ra đời ở Việt Nam là
từ ý đồ của thực dân Pháp cần có một thứ vũ khí nhằm tuyên truyền cho chính
quyền thuộc địa. Do vậy; báo chí ra đời ở Sài gịn trước tiên. Lúc đầu bằng tiếng
Pháp, tiếng Hán, sau là chữ Quốc ngữ. Trong giai đoạn năm 1920 đến 1945 ở Sài
Gịn, báo chí ra đời rất nhiều như Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Đuốc nhà Nam,
Chuông rè … Ở Hà Nội cũng có các báo như Đăng cổ tùng báo, Hữu Thanh, Thực
nghiệp dân báo, Nam phong, Trung Bắc tân văn, Lao động …bao gồm cả những tờ
báo của chính quyền thuộc địa nhằm phục vụ chính quyền Pháp và tờ báo tiến bộ.
Những tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam cũng ra đời trong giai đoạn này
như báo Thanh niên, báo Búa Liềm,…
2.2.4 Trong tôn giáo.
Trong lịch sử, ở Việt Nam phát triển nhất chủ yếu chỉ có đạo Phật và một số
tín ngưỡng dân gian. Mặc dù chúng ta có sự tiếp xúc với Cơ đốc giáo từ khá sớm
và việc truyền bá Cơ đốc giáo tại Việt Nam cũng có một số thành tựu. Tuy nhiên
khi các vua Nguyễn ra các chính sách hạn chế, cấm đốn đối với tơn giáo, từ Cơ
Đốc Giáo đến Đạo Phật và các tín ngưỡng dân gian, đã làm ảnh hưởng khá nhiều
đến hoạt động của các tôn giáo tại Việt Nam.
Dưới sự can thiệp của Pháp, triều đình nhà Nguyễn buộc phải kí hịa ước
Nhâm Tuất 1862, thừa nhận sự đô hộ của nước Pháp ở miền nam và xóa bỏ các
quy định cấm đốn Cơng giáo. Năm 1884 khi hịa ước Patenơtre đặt Việt Nam
dưới sự bảo hộ của Pháp, chính sách tơn giáo của chính quyền Pháp nhìn chung
đặc biệt ủng hộ Cơ đốc giáo, quyền tự do của giáo sỹ và tín đồ Cơ đốc giáo đạt
được bước tiến rất đáng kể, gần như là “vô giới hạn”.


18
Tuy nhiên chính quyền Pháp cũng khơng cản trở lớn đối với các tín
ngưỡng, tơn giáo khác, trừ khi họ có liên quan đến các hoạt động chống đối chế độ
thực dân. Các sinh hoạt tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật tương đối

chặt chẽ. Việc thành lập các tơn giáo mới, mở trường, xuất bản tạp chí hay báo của
tôn giáo đều cần sự phê duyệt của chính quyền.
Dưới sự ủng hộ của chính quyền Pháp thời gian này đạo Công giáo phát
triển vô cùng mạnh mẽ hình thành nên các hệ thống, tổ chức bài bản. Tuy nhiên
trong quá trình phát triển Cơ đốc giáo cũng gặp khá nhiều khó khăn để có thể dung
nhập vào xã hội Việt Nam. Thứ nhất, Cơ đốc giáo gắn liền với các hoạt động quân
sự chính trị nhằm xâm chiếm và đô hộ nước ta nên rất nhiều người dân Việt Nam
đều có xu hướng bài xích Cơ đốc giáo. Thứ hai Cơ đốc giáo là tôn giáo mang đậm
tính cách cứng rắn của truyền thống văn hóa phương Tây, xung đột với những giá
trị, tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, dẫn tới đạo Cơ đốc khó hịa nhập
với văn hóa Việt Nam. Sau bốn thế kỉ truyền đạt tới nay Cơ đốc giáo đã có chỗ
đứng vững chắc ở Việt Nam với khoảng hơn 5 triệu tín đồ Cơng giáo và gần nửa
triệu tín đồ Tin lành.
Phật giáo cũng có sơ hội phát triển. Dưới ảnh hưởng của phong trào cải cách
Phật giáo tại Trung Quốc, Nhật Bản, Phật giáo Việt Nam bắt đầu công cuộc chấn
hưng. Nhiều hội đoàn mới được thành lập, với sự chấp thuận, phê chuẩn điều lệ
bởi chính quyền thực dân Pháp hoặc Nam triều (đối với Trung Kỳ). Hàng loạt các
hội nghiên cứu Phật pháp ra đời ở cả ba miền dưới sự kiểm sốt của chính quyền
Pháp như Nam Kỳ nghiên cứu Phật học hội (1931), An nam Phật học hội (1932),
Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934). Ngoài ra cịn xuất bản Tạp chí “Đuốc Tuệ” chun
về Phật giáo.
Trong thời gian này, với chính sách tự do tơn giáo của Pháp, nhiều tơn giáo
mới cũng được hình thành như Đạo Cao Đài hình thành từ cuối năm 1925 tại vùng
đất Nam Bộ, Phật giáo Hòa Hảo được khai sáng từ năm 1939 tại tỉnh Chaa Đốc
(nay thuộc An Giang) .


19
2.2.5 Trong tư tưởng, chính trị.
Trong q trình giao thoa tiếp biến với văn hóa Pháp, lĩnh vực tư tưởng,

chính trị Việt Nam cũng có sự thay đổi rất lớn. Những giá trị cổ hủ lạc hậu của
Nho giáo dần bị thay thế bởi những quan điểm tiến bộ tiếp thu từ nền văn minh thế
giới. Quá trình tiếp thu tư tưởng cũng biến đổi dần ban đầu từ sự tiếp thu một cách
cưỡng bức dưới sự đàn áp và cưỡng ép trong chính sách văn hóa nơ dịch của thực
dân Pháp đã dần chuyển thành sự tiếp thu chủ động, lựa chọn và chắt lọc những
giá trị tiến bộ và đúng đắn. Đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, sự tiếp biến văn hóa
tinh thần đậm nét nhất. Người Việt Nam đã chọn lọc và tiếp nhận những tinh hoa
của văn hóa nhân loại để làm giàu văn hóa dân tộc. Trong những năm 1900 - 1918,
Việt Nam đã tiếp xúc với tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ hơn tư tưởng quân chủ
phong kiến, lớp sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX đã hướng cả dân tộc phát triển
theo hướng văn minh tư sản.
“Tự do – Bình đẳng – Bác ái” là khẩu hiệu mà thực dân Pháp thường sử
dụng để chính nghĩa hóa những cuộc chiến xâm lược và che dấu tội ác tại các
nước thuộc địa, nhưng các trí thức Việt Nam đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp xúc và nhận ra những giá trị trong tư tưởng văn hóa Pháp. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tới Pháp trong chuyến hành trình ra đi tìm đường cứu nước và phân tích,
nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái trong các tác
phẩm của thời kỳ Phục Hưng của thế kỷ thứ sáng của các văn hào nổi tiếng, rồi
những tư tưởng mới mẻ của cách mạng tư sản Pháp năm 1789,… đặc biệt những
tư tưởng của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Từ đó nhìn nhận giá trị
chân chính, những nhân tố tích cực tiến bộ và những hạn chế của các tư tưởng này
và tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị tiến bộ và phù hợp. Trong Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã luận dẫn Tun ngơn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp
năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải ln ln
được tự do và bình đẳng về quyền lợi” để khẳng định quyền dân tộc và quyền con
người ln gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng ta cũng tiếp nhận tư tưởng dân chủ


20

phương Tây để đoàn kết, phát huy sức mạnh của nhân dân, tạo ra sức mạnh đoàn
kết thống nhất toàn dân tộc.
Tuy tiếp thu những tư tưởng, giá trị phương Tây nhưng những tư tưởng
truyền thống cốt lõi của dân tộc là lòng yêu nước, coi trọng độc lập, tự do, tình
thần đồn kết, tương thân tương ái, là những giá trị khơng hề bị phai nhịa hay biến
chất từ xưa đến nay.
Chương III: NHỮNG VẤN ĐỀ GIAO LƯU TIẾP BIẾN VĂN HOÁ VIỆT
NAM VỚI THẾ GIỚI TRONG BỐI CẢNH TỒN CẦU HĨA .
Trong thời buổi hiện nay khi xu hướng tồn cầu hóa tăng cao, cùng với sự
phát triển của các phương tiện giao thông và các thiết bị cơng nghệ, q trình giao
lưu tiếp biến văn hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ trên mọi phương diện đối với
mọi quốc gia, mọi khu vực. Giao lưu văn hóa là kết quả mang tính tất yếu khi
tham gia vào quá trình giao lưu, hội nhập của hầu hết các nước trên thế giới. Việt
Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật này. Q trình giao lưu văn hóa tồn cầu
đem lại cho chúng ta rất nhiều ảnh hưởng tích cực để thúc đẩy sự phát triển và đưa
văn hóa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên trong bối cảnh sự
giao lưu tiếp biến văn hóa một cách rộng mở, đa dạng chúng ta cũng cần xem xét
nhìn nhận một số vấn đề.
3.1 Nhận thức đúng về giao lưu, tiếp biến văn hoá.
Những vấn đề xoay quanh phạm trù văn hóa thường rất khó để giải nghĩa
một cách rõ ràng, do các yếu tố văn hóa rất đa dạng và có nhiều cách tiếp cận từ
các phương diện khác nhau, đặc biệt trong vấn đề giao lưu và tiếp biến giữa các
nền văn hóa thì cần nghiên cứu tồn diện các nền văn hóa cũng như đặt nó trong
mối quan hệ hiện nay và trong lịch sử giữa các bên. Những hoạt động phổ biến
những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc mình ra thế giới hoặc
những hoạt động quảng bá và tiếp nhận những giá trị văn hóa từ các nước khác
trên thế giới vào nước ta đều là những yếu tố trong quá trình giao lưu văn hoá.
Mỗi yếu tố mà chúng ta thu nhận trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa với thế
giới có thể đem đến những giá trị tích cực nhưng cũng có thể để lại ảnh hưởng tiêu



21
cực. Hoặc ngược lại khi lựa chọn một yếu tố văn hóa Việt Nam để quảng bá giới
thiệu cần cân nhắc yếu tố đó có phù hợp với văn hóa thế giới, có tính chất nhạy
cảm hay dễ gây hiểu lầm hay khơng. Do đó, trong nhận thức về giao lưu văn hóa,
cần xác định cho rõ những chuẩn mực giá trị mới phù hợp với mục tiêu phát triển
văn hóa và nhân cách Việt Nam. Đó là những giá trị gắn liền với mục tiêu: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; những giá trị gắn với sự
phát triển đa dạng và toàn diện nhân cách; những giá trị gắn với chân, thiện, mỹ;
những giá trị gắn với tính hữu ích và hiệu quả đối với cộng đồng và xã hội, đối với
cuộc sống của con người. Trên cơ sở những hệ giá trị đó để có tư duy định hướng
tiếp nhận hoặc phổ biến, quảng bá những giá trị cụ thể của các sản phẩm văn hóa
vật thể và phi vật thể.
3.2 Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động giao lưu văn hóa.
Đảng và Nhà nước khẳng định phát triển kinh tế để làm cho dân giàu, nước
mạnh phải đi cùng với phát triển văn hóa, với tinh thần dân chủ và công bằng xã
hội. Nhưng để thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong tiến trình giao lưu văn hóa,
hội nhập tồn cầu thì vấn đề quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động giao lưu
văn hoá được trong bối cảnh hiện nay là hết sức cấp thiết.
Hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về hoạt động giao lưu văn hóa
là Cục Hợp tác quốc tế của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Ngoài cơ quan quản
lý chuyên trách là Cục Hợp tác quốc tế của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thì
vai trị của Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO của Bộ Ngoại giao cũng rất quan
trọng đối với việc thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hóa. Tuy nhiên trong vấn đề
quản lý của Nhà nước đối với đối với các hoạt động giao lưu văn hóa vẫn cịn tồn
tại một số bất cập.
Hiện nay chúng ta vẫn chưa có một chiến lược hồn thiện về giao lưu văn
hóa. Chủ trương của Đảng về mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn
hóa mới chỉ là một trong những mục tiêu của xây dựng nền văn hóa, chứ chưa phải
là chiến lược hồn thiện. Để đạt được mục tiêu đó cần phải đưa ra một chiến lược

cụ thể, rõ ràng vạch rõ kế hoạch, lộ trình phát triển và đặt mục tiêu cho từng giai


22
đoạn và cùng với các nhiệm vụ cần thiết. Đây là một trong những vấn đề quan
trọng mà các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cần phải lưu tâm. Trong chiến
lược giao lưu văn hóa phải xác định cho rõ những gì chúng ta cần truyền bá,
những gì cần hấp thu, tiếp biến và cơ sở để thực hiện.
Vấn đề hoàn thiện cơ chế phối hợp trong tổ chức thực hiện và giám sát các
hoạt động quảng bá, tiếp nhận những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể là hết
sức quan trọng. Hiện nay, trong vấn đề này mới chỉ chú trọng đến việc quản lý
nhập khẩu, xuất khẩu văn hoá. Tuy nhiên, hiện nay khi các phương tiện truyền
thông, công nghệ thông tin đã trở nên phổ biến rộng rãi, hoạt động du lịch cũng dễ
dàng hơn, việc giao lưu trong và ngoài nước phát triển, thì các hoạt động quảng bá
cũng như tiếp nhận các giá trị văn hóa khơng chỉ qua con đường xuất, nhập khẩu
văn hóa phẩm chính thống theo thủ tục cấp phép của Nhà nước. Chính vì vậy, các
cơ quan quản lý cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý sao cho có hiệu quả
hơn. Đặc biệt là đối với việc tổ chức tiếp nhận và quảng bá các giá trị văn hóa như
lối sống, ngơn ngữ, tín ngưỡng, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, quan điểm tư
tưởng,… Trên thực tế, công tác quản lý lĩnh vực này còn bộc lộ nhiều bất cập.
Chúng ta chưa kiểm sốt được các khâu xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, xuất bản
và quảng bá các loại sách, báo, băng đĩa nhạc, phim ảnh,… Việc đánh giá giá trị
của các loại văn hố phẩm cũng khơng phải là dễ vì chưa có một thước đo chuẩn.
Hơn nữa, trình độ và nhận thức của những người làm công tác quản lý các hoạt
động văn hóa cũng khác nhau và cịn hạn chế.
Chúng ta mới chú trọng nhiều đến việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc ở
trong nước, mà chưa chú trọng nhiều đến việc quảng bá hình ảnh đất nước, con
người Việt Nam, ngôn ngữ tiếng Việt ra thế giới, cũng như việc tiếp nhận những
nét tiên tiến, văn minh của các dân tộc khác. Chúng ta chưa chú trọng quảng bá
các tác phẩm văn học nghệ thuật, phim ảnh Việt Nam ra thế giới, việc đầu tư cho

dịch thuật những tác phẩm có giá trị để giới thiệu ra nước ngoài chưa nhiều. Trong
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi vẫn cịn nhiều người khơng biết tiếng


23
Việt. Do đó sự hiểu biết của người Việt về văn hóa Việt Nam cịn ít chứ chưa nói
đến việc tuyên truyền, quảng bá cho những giá trị văn hóa đó.
3.3 Đối mặt với các nguy cơ.
Giao lưu tiếp biến văn hóa với thế giới trong thời đại tồn cầu hóa là một
yêu cầu bắt buộc của sự phát triển, tuy nhiên việc rộng mở tiếp thu đa dạng các
nền văn hóa ngoại lai cũng đem lại nguy cơ rất lớn đối với bản sắc văn hóa truyền
thống Việt Nam. Từ những vấn đề nổi cộm như lối sống sính ngoại, những trào lưu
không phù hợp với thuần phong mỹ tục nước ta, đến sự biến đổi ngầm trong suy
nghĩ lối sống con người đều là những nguy cơ mà ta đang phải đối mặt.
Văn hố ngoại nhập tấn cơng ồ ạt và khơng có kiểm sốt, đặc biệt với sự trợ
giúp của Internet, gây nên những cuộc khủng hoảng giữa giá trị mới và giá trị cũ.
Ngày càng xuất hiện nhiều việc làm, hành vi, bài viết, chia sẻ trên Internet truyền
bá tư tưởng “sùng ngoại”. Từ lối sống, ăn uống, đi lại, ăn mặc, việc làm, đến cả
việc dạy con cái, tư duy, quan niệm sống, quan niệm điều hành quản lý xã hội...
Điều nhức nhối là họ cho rằng những gì của cha ơng, của dân tộc đều là thứ lạc
hậu, trì trệ.
Tác động của mặt trái cơ chế thị trường cộng với sự non kém trong quản lý,
là một trong những nguyên nhân của tình trạng xuống cấp về văn hóa, đạo đức, sự
thiếu tơn trọng các chuẩn mực xã hội. Càng ngày việc cân bằng giữa bảo tồn văn
hóa dân tộc và phát triển đất nước càng trở nên khó khăn. Đặc biệt, một số giá trị
đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam ta đang có nguy cơ bị mai một và tha hóa.
Để giải quyết những nguy cơ này cần phải hoàn thiện và tổ chức thực hiện
một cách thực chất những giải pháp cụ thể trong quản lý và điều hành các hoạt
động văn hóa. Đầu tiên cần phải tăng cường giáo dục truyền thống dân tộc, truyền

thống lịch sử và truyền thống cách mạng của dân tộc ta cho mọi tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là cho các thế hệ trẻ, qua đó vun đắp và nâng cao niềm tự hào dân tộc cho
nhân dân và xây dựng sự phòng vệ trước những loại văn hóa phẩm xấu, độc hại để
tự họ biết suy nghĩ và hành động đúng. Các cơ quan chức năng cần tăng cường


24
công tác quản lý, giám sát các hoạt động quảng bá và tiếp nhận các giá trị văn hóa
khơng chỉ bằng cách hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, mà cịn bằng sự hỗ trợ
của các phương tiện cơng nghệ - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại.


×