Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động tại một số quốc gia kinh nghiệm đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.59 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

PHẠM THỊ NHUNG

VẤN ĐỀ BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH
TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA –
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Dân Sự
Niên khóa: 2013 - 2017

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

PHẠM THỊ NHUNG

VẤN ĐỀ BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH
TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA –
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Dân Sự


Niên khóa: 2013 – 2017

Người hướng dẫn khoa học: PGT.TS. Trần Hoàng Hải
Người thực hiện: Phạm Thị Nhung
MSSV: 1353801015205
Lớp: 45-AUF38

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Sau gần bốn năm học tập và rèn luyện tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, em đã tích lũy được cho bản thân vốn kiến thức hữu ích cũng như khả
năng tư duy, phân tích các vấn đề pháp lý để vận dụng những kiến thức đã học vào
quá trình nghiên cứu đề tài “Vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao
động tại một số quốc gia – Kinh nghiệm đối với Việt Nam”.
Để hồn thành bài Khóa luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn các
thầy cô trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho em những kiến thức
quý báu trong suốt quá trình em học tại trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Thầy Trần Hoàng Hải người đã quan tâm và góp ý đối với cơng
trình này thật sự khiến cho em vô cùng xúc động. Một lần nữa, em xin chân thành
gửi lời cảm ơn đến Thầy.
Cuối cùng, em xin cảm ơn Cô Huỳnh Thị Thu Trang và Cơ Ngũn Thị Khánh
Phương (Phịng Quản lý nghiên cứu khoa học và Hợp tác Quốc tế), gia đình, bạn bè đã
ủng hộ, giúp đỡ và đưa ra những lời khuyên trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Em xin chân thành cám ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tác giả,

khơng hề sao chép từ luận văn của tác giả khác. Khóa luận là kết quả của quá trình
nghiên cứu, tham khảo các nguồn tài liệu cùng với sự định hướng và hỗ trợ của
PGS.TS. Trần Hoàng Hải. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về cơng trình
nghiên cứu của mình.
Người viết

Phạm Thị Nhung


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
BLDS 2015

Chữ được viết tắt
Bộ luật Dân sự năm 2015

BLHS 2015

Bộ luật Hình sự năm 2015

BLLĐ 2012

Bộ luật Lao động năm 2012

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

Luật SHTT 2005


Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, sửa đổi, bổ sung
năm 2009.

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH TRONG
QUAN HỆ LAO ĐỘNG .......................................................................................... 5
1.1. Định nghĩa và đặc điểm về bí mật kinh doanh ............................................... 5
1.1.1. Định nghĩa bí mật kinh doanh............................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của bí mật kinh doanh .......................................................... 7
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động...... 10
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ bí mật kinh doanh trong
quan hệ lao động ......................................................................................................... 11
1.3.1. Các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động..... 11
1.3.2. Các biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
trong quan hệ lao động ......................................................................................... 13
1.3.3. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ
lao động .................................................................................................................. 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 24
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT

KINH DOANH TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG – KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM ............................................................................................................ 25
2.1. Quy định của Cộng hòa Liên bang Đức về bảo vệ bí mật thương mại
trong quan hệ lao động .............................................................................................. 25
2.1.1. Định nghĩa bí mật thương mại .................................................................. 25
2.1.2. Các hành vi xâm phạm bí mật thương mại trong quan hệ lao động .... 26
2.1.3. Biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bí mật thương mại
trong quan hệ lao động ......................................................................................... 29
2.1.4. Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật thương mại trong quan
hệ lao động ............................................................................................................. 33
2.1.5. Kết luận ........................................................................................................ 36
2.2. Quy định của Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa về bảo vệ bí mật thương
mại trong quan hệ lao động ...................................................................................... 36


2.2.1. Định nghĩa bí mật thương mại ................................................................. 37
2.2.2. Các hành vi chiếm đoạt trái phép bí mật thương mại trong quan hệ lao
động ......................................................................................................................... 38
2.2.3. Các biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bí mật thương mại
trong quan hệ lao động ......................................................................................... 39
2.2.4. Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật thương mại trong quan
hệ lao động ............................................................................................................. 40
2.2.5. Kết luận ........................................................................................................ 42
2.3. Quy định của Cộng hịa Indonesia về bảo vệ bí mật thương mại trong
quan hệ lao động ......................................................................................................... 43
2.3.1. Định nghĩa bí mật thương mại .................................................................. 43
2.3.2. Hành vi xâm phạm bí mật thương mại trong quan hệ lao động ........... 44
2.3.3. Các biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bí mật thương mại
trong quan hệ lao động ......................................................................................... 44
2.3.4. Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật thương mại trong quan

hệ lao động ............................................................................................................. 45
2.3.5. Kết luận ........................................................................................................ 45
2.4.Bài học rút ra từ quy định của một số quốc gia và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động ... 46
2.4.1. Phạm vi thông tin được coi là bí mật kinh doanh ............................... 46
2.4.2. Điều khoản bảo mật bí mật kinh doanh .............................................. 49
2.4.3. Xác định thiệt hại nghiêm trọng .......................................................... 54
2.4.4. Biện pháp bồi thường thiệt hạitrong quan hệ lao động....................... 54
2.4.5. Biện pháp hình sự ............................................................................... 55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do kinh doanh, tự do
cạnh tranh miễn là không trái với quy định của pháp luật. Để cạnh tranh và thành
công trong hoạt động kinh doanh, sản xuất thì các doanh nghiệp cũng như những
người hoạt động trong lĩnh vực này luôn có những thơng tin bí mật riêng, những
thơng tin này chính là bí mật kinh doanh của họ, nó là bí quyết, mang lại những ưu
thế, đơi khi nó là yếu tố quyết định sự thành công cho chủ thể sở hữu nó.
Hiểu được tầm quan trọng cũng như giá trị kinh tế mà bí mật kinh doanh mang
lại nên các doanh nghiệp ln tìm kiếm, áp dụng các biện pháp để bảo vệ bí mật kinh
doanh của mình vì trên thực tế nguy cơ bí mật kinh doanh bị xâm phạm rất cao. Đặc
biệt là trong quan hệ lao động, người lao động có thể có được bí mật kinh doanh của
người sử dụng lao động thông qua quá trình làm việc cho người sử dụng lao động, từ
đó làm phát sinh các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động.
Các hành vi này có thể diễn ra ngay trong q trình người lao động làm việc tại doanh

nghiệp hoặc cũng có thể phát sinh sau khi hợp đồng lao động chấm dứt.
Tuy nhiên hiện tại, các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo vệ bí
mật kinh doanh trong quan hệ lao động chưa chi tiết, rõ ràng, chỉ là có quy định chứ
chưa đi sâu vào giải quyết vấn đề. Vì vậy, cịn tồn tại rất nhiều bất cập trên thực tế,
do đó, để hồn thiện hệ thống pháp luật trong nước thì một trong các phương pháp
hữu hiệu đó là học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác và chọn lọc áp
dụng sao cho phù hợp với hồn cảnh trong nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động là một vấn đề mang tính
chuyên sâu và cấp thiết hiện nay. Tuy bí mật kinh doanh là một trong những đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp nhưng tác giả khơng nghiên cứu đề tài này ở
góc độ của pháp luật sở hữu trí tuệ, mà nghiên cứu nó dưới góc độ của pháp luật lao
động. Hiện tại, có một vài cơng trình nghiên cứu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ trong quan hệ lao động, mặc dù các cơng trình này nghiên cứu dưới góc nhìn
của luật Sở hữu trí tuệ nhưng nó cũng là một nguồn tài liệu giúp tác giả có góc nhìn
tổng qt hơn.
Đề tài thứ nhất, Quyền sở hữu trí tuệ trong quan hệ lao động – Lý Quảng
Quyền, Khóa luận cử nhân, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đề cập

1


đến các quyền sở hữu trí tuệ trong quan hệ lao động. Cơng trình phân tích thực
trạng áp dụng luật để giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trong quan
hệ lao động, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật cả
về lý luận lẫn thực tiễn.
Đề tài thứ hai: Bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với bí mật kinh doanh,
pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam – Trần Thi Kim Huế, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài chủ yếu nghiên cứu về Luật
Sở hữu trí tuệ, về thực trạng bí mật kinh doanh và đưa ra các kiến nghị để hoàn

thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh.
Đề tài thứ ba: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong pháp luật lao động –
Nguyễn Hoàng Yến, Luận văn cử nhân, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh. Đề tài này nghiên cứu về cạnh tranh trong pháp luật lao động, thực trạng và
một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật.
Ngoài ra, cịn có một số bài viết như: Nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh trong
quan hệ lao động của tác giả Lê Thị Thúy Dương, Nguyễn Hồ Bích Hằng trên Tạp
chí Khoa học pháp lý. Bài viết phân tích các quy định của pháp luật về bí mật kinh
doanh trong quan hệ lao động và các kiến nghị.
Bài viết: Bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về bí mật kinh doanh trong
mối tương quan với quy định của Điều ước quốc tế và pháp luật các nước của tác
giả Nguyễn Thái Mai trên Tạp chí Luật học. Bài biết nêu thực trạng các quy định
của Luật Sở hữu trí tuệ về bí mật kinh doanh, so sánh với quy định của Điều ước
quốc tế và các quốc gia khác, đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định trong nước.
Và bài viết: Điều khoản bảo mật-hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng lao động
của tác giả Đoàn Thị Phương Diệp trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Bài viết phân
tích các quy định của pháp luật về điều khoản bảo mật, hạn chế cạnh tranh, từ đó
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Tuy mỗi bài viết đều có phạm vi nghiên cứu khác nhau nhưng chúng cũng có
liên quan ít nhiều đến đề tài “Vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao
động tại một số quốc gia – kinh nghiệm đối với Việt Nam” của tác giả.
3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả nghiên cứu nhằm làm rõ tầm quan trọng của bí mật kinh
đối với các doanh nghiệp, từ đó thấy được sự cần thiết của việc bảo vệ bí mật kinh
doanh trong quan hệ lao động. Đồng thời, tìm hiểu thực trạng các quy định của pháp

2


luật Việt Nam về vấn đề này, chỉ ra những điểm bất cập trên thực tế và nghiên cứu

quy định của pháp luật nước ngoài để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước.
Khóa luận góp phần làm rõ hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn
đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động. Đồng thời, khóa luận cũng nêu
những bất cập, vướng mắc trên thực tế và đưa ra hướng hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong nước dựa trên việc học hỏi, chọn lọc các quy định của các quốc gia khác
về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo
cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Và tác giả hy vọng nó sẽ giúp ích được phần
nào đó cho các nhà lập pháp trong việc xây dựng hệ thống pháp luật trong nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định của pháp luật về vấn
đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động. Cụ thể khóa luận tập trung
nghiên cứu, làm rõ các vấn đề sau:
-Một số vấn đề cơ bản về bảo vệ bí mật kinh doanh như: định nghĩa và đặc
điểm của bí mật kinh doanh, sự cần thiết phải bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan
hệ lao động.
-Phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ bí mật kinh
doanh trong quan hệ lao động, bao gồm các biện pháp bảo vệ bí mật kinh doanh của
người sử dụng lao động, các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh do người lao
động thực hiện và biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm này.
-Phân tích quy định của pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, Cộng hịa Indonesia về vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan
hệ lao động.
-Chỉ ra và phân tích các điểm bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành và
hướng hoàn thiện các quy định pháp luật.
Về phạm vi nghiên cứu: Trên thực tế, bí mật kinh doanh là một trong những
đối tượng của quyền sở hữu cơng nghiệp và nó xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Tuy nhiên, trong khóa luận này tác giả chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật
Việt Nam, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hịa
Indonesia về vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong phạm vi mối quan hệ giữa
người sử dụng lao động và người lao động, dựa vào định nghĩa, các biện pháp bảo

vệ bí mật kinh doanh, các hành vi xâm phạm cũng như các biện pháp xử lý đối với
các hành vi này.

3


5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong từng chương tác giả sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
-Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng trong tồn bộ 2 chương của
khóa luận. Tại chương 1 tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích định nghĩa,
đặc điểm của bí mật kinh doanh và các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề
bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động. Chương 2 tác giả sử dụng phương
pháp phân tích để phân tích những quy định pháp luật của một số quốc gia về bảo
vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động, đồng thời phân tích những bất cập của
pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề này, từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung
một số quy định nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật.
-Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng để so sánh quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành với quy định của pháp luật một số quốc gia về bảo vệ bí mật
kinh doanh trong quan hệ lao động.
-Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong tồn bộ khóa luận, trên cơ sở các
tài liệu đã phân tích, so sánh, tác giả sử dụng phương pháp này để tổng hợp, khái quát
lại những vấn đề đã nêu ra, làm cơ sở đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có kết
cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động.
Chương 2: Quy định của một số quốc gia về bảo vệ bí mật kinh doanh trong
quan hệ lao động và một số kiến nghị.


4


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT KINH DOANH
TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG
1.1. Định nghĩa và đặc điểm về bí mật kinh doanh
1.1.1. Định nghĩa bí mật kinh doanh
Hiện nay, trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, cụ thể là trong sở hữu cơng nghiệp, có
rất nhiều thuật ngữ được dùng để chỉ những thơng tin mang tính bí mật và có giá trị
được sử dụng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại đó là bí mật thương mại (trade
secrets), thơng tin bí mật (confidential information) hay bí mật kinh doanh (business
secrets)... Trong đó, thuật ngữ bí mật thương mại được sử dụng phổ biến nhất tại
hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (Hiệp định TRIPS) và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ lại sử dụng
thuật ngữ thông tin bí mật (confidential information). Theo quy định tại khoản 1
Điều 2 chương II Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ thì: “Thơng tin bí mật
bao gồm bí mật thương mại, thông tin đặc quyền và thông tin không bị tiết lộ khác
chưa trở thành đối tượng phải bị tiết lộ công khai không hạn chế theo pháp luật
quốc gia của bên liên quan”. Từ định nghĩa này có thể thấy, thơng tin bí mật là thuật
ngữ có phạm vi rộng bao gồm tất cả các thông tin chưa bị cơng khai, tiết lộ.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) khơng sử dụng thuật ngữ bí mật kinh
doanh hay thơng tin bí mật mà lại sử dụng thuật ngữ bí mật thương mại (Trade
secrets). Theo cách giải thích của WIPO thì bí mật thương mại được hiểu là “bất kì
thơng tin bí mật thương mại nào cung cấp cho doanh nghiệp một ưu thế cạnh tranh
thì được coi là bí mật thương mại. Bí mật thương mại bao gồm bí mật sản xuất, bí
mật cơng nghiệp hoặc bí mật kinh doanh”1. Từ những định nghĩa trên ta có thể thấy
rằng dù sử dụng thuật ngữ khác nhau nhưng nội hàm chung của chúng chính là

những thơng tin bí mật được sử dụng trong kinh doanh. Tuy nhiên, khi so sánh với
các cách định nghĩa trên thì định nghĩa bí mật kinh doanh theo quy định của Luật
SHTT 2005: “Bí mật kinh doanh là những thơng tin thu được từ hoạt động đầu tư

1

“What is a Trade Secret”, truy cập
ngày 25/5/2017.

5


tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”2 còn
chung chung, chưa rõ ràng. Hơn nữa, cho đến thời điểm hiện tại, các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật SHTT 2005 cũng khơng giải thích gì thêm về định nghĩa này.
Trong khi đó, pháp luật của các nước khác trên thế giới đưa ra định nghĩa về bí
mật thương mại khá rõ ràng và chi tiết. Theo pháp luật của Hoa Kỳ thì bí mật
thương mại là: “thơng tin, bao gồm cơng thức, mẫu, biên soạn, chương trình, thiết
bị, phương pháp, kỹ thuật hoặc quy trình, mà: (i) có giá trị kinh tế độc lập, thực tế
hoặc tiềm năng, chưa được biết đến rộng rãi và chưa được xác định bằng các
phương tiện phù hợp bởi những người khác có thể có được giá trị kinh tế từ việc tiết
lộ hoặc sử dụng, và (ii) chịu những nỗ lực hợp lý để duy trì bí mật”3. Ngồi ra, Luật
Bảo vệ Bí mật thương mại của Hoa Kỳ (Defend Trade Secrets Act – DTSA) đưa ra
định nghĩa bí mật thương mại như sau: “tất cả các hình thức và các loại thơng tin tài
chính thương mại, khoa học, kỹ thuật, kinh tế bao gồm các mơ hình, đồ án, tác
phẩm, bưu phẩm, biên soạn, thiết bị chương trình, cơng thức, thiết kế ngun mẫu,
phương pháp, kỹ thuật, quy trình, chương trình hoặc mật mã dù hữu hình hay vơ
hình được lưu trữ, soạn thảo hay ghi lại cụ thể dưới dạng điện tử, đồ họa, hình ảnh
hoặc bằng văn bản; (A) chủ sở hữu của nó đã có biện pháp hợp lý để giữ bí mật
thơng tin đó; Và (B) thơng tin có được giá trị kinh tế độc lập, thực tế hoặc tiềm

năng, không được công bố rộng rãi và không thể dễ dàng xác định bằng các phương
tiện phù hợp”.4 Không chỉ trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Liên Bang
Nga cũng giải thích rằng bí mật thương mại là “thông tin khoa học kỹ thuật, công
nghệ, sản xuất, tài chính kinh tế hoặc những thơng tin khác bao gồm cả bí quyết sản
xuất, đó là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ,
những thông tin về phương pháp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, có giá trị
thương mại, được chủ sở hữu bảo mật ngăn không cho bên thứ ba biết đến”.5 Tương
tự như vậy, theo pháp luật Nhật Bản, bí mật thương mại là “thơng tin kỹ thuật hay
thơng tin hữu ích mà chủ sở hữu có được trong hoạt động thương mại như quy trình
sản xuất, phương pháp tiếp thị... Những thơng tin này được giữ bí mật và không
được bộc lộ công khai đến công chúng”.6 Qua các quy định trên có thể thấy rằng
các điều kiện để một thơng tin được xem là bí mật kinh doanh theo quy định của các
2

Khoản 23 Điều 4 Luật SHTT 2005.
Mục 1(4) Uniform Trade Secrets Act – UTSA (1985).
4
Mục 2(b)(1) DTSA.
5
Khoản 2 Điều 3 Luật Bí mật thương mại của Liên Bang Nga năm 2004.
6
Điều 2 Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật Bản năm 1947.
3

6


nước tương đồng với quy định của Việt Nam, đó là: (i) khơng được nhiều người biết
đến; (ii) hữu ích cho hoạt động kinh doanh và (iii) được giữ bí mật. Tuy nhiên, khác
với pháp luật Việt Nam, khi nêu ra các điều kiện thì pháp luật của các nước này cịn

giải thích, liệt kê phạm vi thơng tin bí mật theo nghĩa rộng, bao gồm cả thông tin
trong lĩnh vực kinh doanh và khoa học, kỹ thuật.
Theo tác giả, bí mật kinh doanh là những thơng tin trong lĩnh vực kinh doanh
và khoa học, công nghệ bao gồm: danh sách khách hàng, chiến lược thị trường, tài
liệu tính tốn, bí quyết kỹ thuật, bản vẽ thi cơng và các thông tin khác thu được từ
hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong
kinh doanh.
1.1.2. Đặc điểm của bí mật kinh doanh
Khơng giống như những tài sản khác, bí mật kinh doanh là một loại tài sản trí
tuệ, tồn tại ở dạng thông tin, được chủ sở hữu đầu tư về trí tuệ cũng như tài chính.
Đây là một loại tài sản khá đặc biệt vì nó có những đặc điểm mang tính đặc trưng.
Nhìn chung thì bí mật kinh doanh có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, bí mật kinh doanh là một loại tài sản vơ hình. Như đã biết, bí mật
kinh doanh tồn tại dưới dạng thơng tin, những thông tin này sẽ mang đến cho người
nắm giữ nó những hiểu biết, những điều kiện mà dựa vào đó người này có thể tiến
hành hoạt động kinh doanh. Và những thông tin này không phải là những hiểu biết
thơng thường, do đó, để có được những thơng tin này, chủ sở hữu đã đầu tư rất
nhiều cả về trí tuệ lẫn tài chính. Tuy hiện tại pháp luật Việt Nam chưa giải thích
“hiểu biết thơng thường” là như thế nào, nhưng theo tác giả thì nên hiểu là ngay cả
những người thường xuyên làm việc, tiếp xúc với những thông tin này cũng không
nhận thức được hoặc không dễ dàng nhận thức được các thông tin này. Cách hiểu
này cũng phù hợp với cách giải thích của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Theo Hiệp định TRIPs và Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
thì “khơng phải là hiểu biết thơng thường” có nghĩa là một người với sự hiểu biết
trung bình thì khó có thể biết và áp dụng những thơng tin này một cách hiệu quả.
Chính vì vậy, một thơng tin mà tất cả mọi người đều dễ dàng nhận thức và vận dụng
được thì khơng được coi là “khơng phải hiểu biết thơng thường”.
Thứ hai, bí mật kinh doanh là những thơng tin mang tính bí mật. Tính bí mật
là đặc trưng và là yếu tố quyết định đối với bí mật kinh doanh. Một thơng tin sẽ


7


khơng được coi là bí mật kinh doanh nếu nó thỏa mãn các điều kiện cịn lại nhưng
thiếu đi tính bí mật. Theo quy định hiện hành của Việt Nam thì tính bí mật được xác
định dựa trên hai tiêu chí, đó là khơng phải hiểu biết thơng thường và khơng dễ
dàng có được. Trong khi các quốc gia khác, tiêu biểu là Hoa Kỳ thì tính bí mật của
một thông tin được xác định dựa trên nhiều yếu tố như: 1. Mức độ thơng tin được
người bên ngồi doanh nghiệp biết đến; 2. Mức độ của biện pháp được chủ sở hữu
áp dụng để duy trì tính bí mật của thơng tin; 3. Sự dễ hoặc khó để người khác tiếp
cận hoặc nhân bản thông tin mà không sử dụng biện pháp bất hợp pháp. Trong các
yếu tố trên thì Tịa án của Hoa Kỳ coi việc xác định mức độ hiểu biết và sự tiếp cận
của công chúng ở ngồi doanh nghiệp đối với thơng tin là yếu tố quyết định7.
Thứ ba, bí mật kinh doanh là những thơng tin có giá trị, được áp dụng trong
kinh doanh và khi được sử dụng nó sẽ tạo cho người nắm giữ thơng tin đó có lợi thế
hơn so với người khơng nắm giữ hoặc khơng sử dụng nó. Trên thực tế, mỗi doanh
nghiệp đều có những thơng tin bí mật của riêng doanh nghiệp mình. Trong hoạt
động kinh doanh, sản xuất, những thông tin này thường mang lại nhiều lợi thế cho
doanh nghiệp nói chung và cho chủ sở hữu nói riêng như tạo cơ hội cho doanh
nghiệp cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp
cũng như mang lại lợi nhuận lớn cho chủ sở hữu. Chính vì thơng tin có giá trị nên
cần sự bảo hộ của pháp luật và cần chủ sở hữu giữ bí mật.
Thứ tư, bí mật kinh doanh được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần
thiết để không bị tiết lộ. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện
nay thì bí mật kinh doanh ln là mục tiêu nhịm ngó khơng chỉ của các đối thủ
cạnh tranh mà cịn của nhân viên khơng có lịng trung thành vì nó mang lại rất nhiều
lợi thế cho người nắm giữ. Do đó, trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động
(NSDLĐ) phải có những biện pháp phù hợp để đảm bảo các thơng tin bí mật của
mình khơng bị tiết lộ hay đánh cắp, vì một khi các thơng tin này bị lộ thì nó sẽ
khơng cịn là bí mật kinh doanh nữa và doanh nghiệp có thể sẽ khơng cịn hoặc mất

đi cơ hội cạnh tranh trên thị trường.
Thứ năm, bí mật kinh doanh được bảo hộ theo cơ chế tự động. Theo Luật
SHTT 2005, phần lớn, căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đều dựa trên cơ sở
quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục
7

Nguyễn Thái Mai (2012), “Bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về bí mật kinh doanh trong mối tương
quan với quy định của Điều ước quốc tế và pháp luật các nước”, Tạp chí Luật học, 7/2012, tr.40-41.

8


đăng kí luật định hoặc cơng nhận đăng kí quốc tế theo quy định của điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, có một số đối tượng được bảo hộ tự động
mà không phải qua một thủ tục pháp lý nào, một trong những đối tượng đó là bí mật
kinh doanh.
Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 6 Luật SHTT 2005 thì: “Quyền sở
hữu cơng nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một
cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó”.
Như vậy, quyền sở hữu cơng nghiệp đối với bí mật kinh doanh phát sinh vào thời
điểm bí mật kinh doanh đó đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định mà
không phải thông qua bất kì thủ tục đăng kí nào. Vì bí mật kinh doanh là một loại
tài sản vơ hình, có giá trị kinh tế cao, dễ bị tiết lộ và đánh cắp nên quy định như trên
là hoàn toàn hợp lý và nó cũng phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
Những đặc điểm mà tác giả vừa phân tích là những đặc điểm của bí mật kinh
doanh trong các quan hệ dân sự nói chung. Cịn trong quan hệ lao động, bí mật kinh
doanh có các đặc điểm đặc thù sau:
Thứ nhất, tính bí mật của bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động chỉ mang
tính tương đối vì được cả NSDLĐ và người lao động (NLĐ) biết đến. Đa phần,

trong các quan hệ khác, chỉ có chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc những người
được chủ sở hữu trao quyền mới có thơng tin về bí mật kinh doanh. Tuy nhiên, để
trở thành một bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động thì bí mật kinh doanh này
phải được biết đến bởi cả hai bên, NSDLĐ sẽ phải cung cấp các thơng tin thuộc bí
mật kinh doanh có liên quan đến công việc của NLĐ cho họ biết, vì nếu khơng có
các thơng tin này thì NLĐ khơng thể thực hiện được công việc mà NSDLĐ giao.
Điều này có nghĩa là, bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động phải được sử dụng
trong quan hệ lao động, nhằm mục đích duy trì quan hệ lao động. Tuy nhiên, không
phải mối quan hệ lao động nào cũng sử dụng bí mật kinh doanh và khơng phải tính
chất cơng việc nào cũng địi hỏi NLĐ phải biết bí mật kinh doanh. Do đó, bí mật
kinh doanh trong quan hệ lao động chỉ phát sinh trong một số lĩnh vực nhất định và
với những NLĐ làm việc ở những vị trí nhất định8.

8

Khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012.

9


Thứ hai, các biện pháp chủ sở hữu dùng để bảo vệ bí mật kinh doanh của
mình trong quan hệ lao động và trong các quan hệ khác không giống nhau. Trong
các quan hệ khác, chủ sở hữu sẽ sử dụng các biện pháp nhằm không để cho người
khác biết đến bí mật kinh doanh của họ; cịn trong quan hệ lao động, vì cả NLĐ và
chủ sở hữu đều biết đến bí mật kinh doanh nên biện pháp được sử dụng trong
trường hợp này là quy định trách nhiệm bảo mật cho NLĐ nhằm ngăn chặn bên thứ
ba biết đến bí mật kinh doanh.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động
Thứ nhất, bí mật kinh doanh tạo ra nhiều lợi thế mang tính chất thương mại cho
chủ sở hữu. Như chúng ta đã biết, bí mật kinh doanh đóng vai trị vơ cùng quan

trọng, nó được xem là bí quyết thành công của doanh nghiệp. Ở các nước công
nghiệp phát triển, nhất là ở Hoa Kỳ, nhiều công ty đã đạt được sự thống trị trong
một lĩnh vực kinh doanh nhất định nhờ có trong tay bí mật thương mại9.
Thứ hai, bí mật kinh doanh dễ bị tiết lộ và đánh cắp vì đặc tính vơ hình và có
giá trị kinh tế cao của nó. Với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như
ngày nay thì nguy cơ bí mật kinh doanh bị xâm phạm ngày càng gia tăng, điều đó
cũng có nghĩa là việc bảo vệ bí mật kinh doanh ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Đặc biệt là trong quan hệ lao động, trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp, NLĐ
có thể tiếp xúc với ít nhiều các thông tin bí mật của doanh nghiệp, NLĐ có thể bị
các doanh nghiệp khác lơi kéo để, xúi giục để có được bí mật kinh doanh của doanh
nghiệp mà NLĐ đang làm việc. Trong trường hợp này có thể làm phát sinh hành vi
gián điệp kinh tế, người thực hiện hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thường
phục vụ vì lợi ích của người thứ ba nhằm làm hại chủ sở hữu bí mật kinh doanh.
Việc bí mật kinh doanh bị tiết lộ đã gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp. Nhiều
doanh nghiệp đã phải mất rất nhiều thời gian cũng như phải trả chi phí rất cao cho
việc bảo vệ bí mật kinh doanh của mình vì biết rằng nó ln là mục tiêu của các đối
thủ cạnh tranh. Để xử lý tốt các trường hợp gián điệp kinh tế, pháp luật nên có
những quy định thống nhất trong các luật có liên quan, đặc biệt là luật Lao động,
nếu không sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn và không áp dụng được trên thực tiễn. Ngoài ra,
NLĐ được pháp luật cho phép tự do làm việc ở bất kì đâu và cho bất kì NSDLĐ
nào, do đó, trong q trình chuyển đổi cơng việc, họ có thể mang theo những thơng
9

Ngũn Thanh Tâm (2006), Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại, Nxb Tư Pháp, tr.25.

10


tin thuộc bí mật kinh doanh của NSDLĐ cũ để áp dụng ở nơi làm việc mới. Thêm
vào đó, khi quan hệ lao động chấm dứt , NLĐ có thể làm lộ, vẫn tiếp tục sử dụng

hay bán các thông tin bí mật đó cho các doanh nghiệp cạnh tranh với doanh nghiệp
cũ. Theo pháp luật của nhiều nước, NLĐ phải chịu trách nhiệm bảo mật với
NSDLĐ thậm chí ngay khi khơng có các thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Trách
nhiệm giữ các thơng tin bí mật của NSDLĐ thường được duy trì, ít nhất là trong
một thời hạn xác định, thậm chí cả sau khi người làm lao động đã thơi việc10 (nghỉ
hưu). Từ đó địi hỏi pháp luật phải xây dựng cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh cho
các doanh nghiệp cũng như cân bằng lợi ích giữa NLĐ và NSDLĐ.
Thứ ba, bí mật kinh doanh được bảo hộ lâu dài nên tạo tính cạnh tranh và độc
quyền cao. Khơng như những tài sản trí tuệ khác, bí mật kinh doanh được bảo hộ tự
động khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định và thời hạn bảo hộ cũng không bị hạn
chế, nghĩa là khi nào thơng tin cịn đáp ứng các điều kiện thì thơng tin bí mật đó cịn
được bảo hộ. Chính vì vậy, NSDLĐ thường chọn bảo hộ những thông tin, kiến thức
mang tính nhạy cảm như quy trình sản xuất, cơng thức chế tạo sản phẩm,... dưới
hình thức bảo hộ bí mật kinh doanh.
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan
hệ lao động
1.3.1. Các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động
Như đã phân tích ở trên, bí mật kinh doanh có ý nghĩa rất lớn đối với doanh
nghiệp nói chung và NSDLĐ nói riêng. Là một loại tài sản vơ hình và có giá trị cao
nên bí mật kinh doanh rất dễ có nguy cơ bị xâm phạm, đặc biệt là trong quan hệ lao
động, khi làm việc tại doanh nghiệp, NLĐ có thể tiếp xúc và biết được những thơng
tin bí mật của NSDLĐ, từ đó làm phát sinh các hành vi xâm phạm bí mật kinh
doanh. Tuy nhiên, các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động
chưa được pháp luật Việt Nam đề cập mà chỉ mới có quy định về các hành vi vi
phạm bí mật kinh doanh nói chung cho các lĩnh vực.
Khoản 1 Điều 127 Luật SHTT 2005 liệt kê các hành vi xâm phạm quyền đối
với bí mật kinh doanh bao gồm: “Tiếp cận, thu thập thơng tin thuộc bí mật kinh
doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí
10


Hồng Dũng, “Bảo hộ bí mật kinh doanh”,
13/7/2017.

11


mật kinh doanh đó; Bộc lộ, sử dụng thơng tin thuộc bí mật kinh doanh mà khơng
được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó; Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa
gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lịng tin của người có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh; Tiếp cận, thu
thập thơng tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép
kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của
cơ quan có thẩm quyền; Sử dụng, bộc lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa
vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được có liên quan đến một trong
các hành vi nêu trên”. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định xâm phạm bí mật
kinh doanh là một trong những hành vi cạnh trạnh không lành mạnh11. Mặc dù đây là
quy định về các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh nói chung cho các lĩnh vực
nhưng việc pháp luật quy định cụ thể các hành vi vi phạm như vậy mang ý nghĩa thiết
thực trong việc xác định chính xác và xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm bí mật
kinh doanh cũng như bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho chủ sở hữu.
Trên thực tế, trong quan hệ lao động, các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
diễn ra khá phổ biến và chủ thể thực hiện hành vi này luôn là NLĐ. Nếu căn cứ vào
thời gian thì hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động được chia
thành hai nhóm, nhóm các hành vi xảy ra trong q trình lao động và nhóm các
hành vi xảy ra sau khi chấm dứt quan hệ lao động. Thứ nhất, trong quá trình lao
động, NLĐ có thể tiết lộ, sử dụng một cách trái phép các thơng tin thuộc bí mật
kinh doanh hoặc bị các doanh nghiệp cạnh tranh lôi kéo nhằm tiếp cận bí mật kinh
doanh bởi các thơng tin mà NLĐ thu được trong quá trình làm việc ở doanh nghiệp
này có thể sẽ tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp khác. Thứ hai, sau khi
chấm dứt hợp đồng lao động, các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thường xảy

ra là NLĐ vi phạm các thỏa thuận bảo mật/hạn chế cạnh tranh mà mình đã cam kết.
Hành vi vi phạm các cam kết này khá đa dạng, có thể là NLĐ làm việc cho đối thủ
cạnh tranh trong thời gian và không gian đã cam kết; hoặc có thể chính NLĐ tự
kinh doanh trong lĩnh vực đã cam kết và cạnh tranh với doanh nghiệp mình đã từng
làm việc; hoặc cũng có thể là khi NLĐ nghỉ hưu hay không làm việc cho doanh
nghiệp nữa nhưng họ sẽ vẫn cịn nhớ những thơng tin mà họ tiếp xúc trong quá trình
lao động và họ vẫn tiếp tục sử dụng những thông tin này hoặc tiết lộ, bán chúng cho
người khác.
11

Khoản 2 Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004.

12


Như vậy, để bảo vệ bí mật kinh doanh của mình cũng như ngăn chặn các hành
vi xâm phạm của NLĐ thì NSDLĐ cần phải có các biện pháp thích hợp.
1.3.2. Các biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
trong quan hệ lao động
Hiện nay, về vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động, pháp
luật lao động Việt Nam tuy đã mở rộng hơn trước nhưng nhìn chung vẫn cịn chưa
cụ thể, rõ ràng. Pháp luật lao động không quy định chi tiết các biện pháp mà
NSDLĐ có thể sử dụng để bảo vệ bí mật kinh doanh của mình mà chỉ nêu “Khi
NLĐ làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ theo
quy định của pháp luật, thì NSDLĐ có quyền thỏa thuận bằng văn bản với NLĐ về
nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cơng nghệ, quyền lợi và việc
bồi thường trong trường hợp NLĐ vi phạm”12. Như vậy có nghĩa là pháp luật cho
phép các bên trong quan hệ lao động được tự do thỏa thuận về vấn đề bảo vệ bí mật
kinh doanh.
Ngồi ra Luật SHTT 2005 cịn quy định, chủ sở hữu có quyền áp dụng các

biện pháp để tự bảo vệ bí mật kinh doanh của mình13. Tuy nhiên, trong các biện
pháp đó, chỉ có một biện pháp cơng nghệ là dùng để ngăn ngừa hành vi xâm phạm,
còn các biện pháp khác chỉ được áp dụng khi đã có hành vi xâm phạm xảy ra.
Trên thực tế, để bảo vệ bí mật kinh doanh của mình, NSDLĐ có thể áp dụng
nhiều biện pháp khác nhau như kiểm soát thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thông
qua thẻ nhân viên, không sử dụng điện thoại, email cá nhân trong giờ làm việc nhằm
hạn chế thơng tin bị lọt ra ngồi, duy trì bảo mật máy tính,... Ngồi ra, NSDLĐ cịn
quy định các nghĩa vụ bảo mật hoặc các hành vi cụ thể như cấm NLĐ không được
làm những một số công việc trong thời hạn nhất định cho một hoặc một vài đối tượng
nhất định trong nội quy lao động. Tuy nhiên, cách chủ động và thường được các
doanh nghiệp áp dụng nhất để bảo vệ bí mật kinh doanh là thông qua các cam kết ký

12

Khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012.
Khoản 1 Điều 198 Luật SHTT 2005 quy định chủ sở hữu có quyền áp dụng các biện pháp sau để bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ của mình: Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền
swor hữu trí tuệ; Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi
xâm phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai, bồi thường thiệt hại; u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan; Khởi kiện ra Tịa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
13

13


với NLĐ14. Các cam kết này thường được gọi là thỏa thuận bảo mật thông tin/hạn chế
cạnh tranh. Theo các thỏa thuận này, trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp, NLĐ
phải chấp hành nội quy, quy định do NSDLĐ đặt ra hoặc phải cam kết về việc không
được tiết lộ bí mật kinh doanh dưới bất kỳ hình thức nào15.

Về biện pháp bảo vệ bí mật kinh doanh bằng thỏa thuận bảo mật/hạn chế cạnh
tranh. Trong quan hệ lao động, pháp luật cho phép các bên có quyền tự do thỏa
thuận với nhau về việc bảo mật bí mật kinh doanh miễn là thỏa thuận đó khơng trái
với quy định của pháp luật và phải đảm bảo cân bằng quyền lợi cho các bên. Tùy
thuộc vào lĩnh vực hoạt động cũng như vị trí của NLĐ làm việc trong doanh nghiệp
mà nội dung những điều khoản này sẽ khác nhau. Chức vụ của NLĐ càng cao thì
nguy cơ bị bộc lộ bí mật kinh doanh càng lớn16. Đối với thỏa thuận này, các bên có
thể xác lập thành một văn bản riêng biệt hoặc là một điều khoản trong hợp đồng lao
động, tuy nhiên, giá trị pháp lý của điều khoản này không phụ thuộc vào hợp đồng
lao động. Các thỏa thuận này điều chỉnh hành vi của NLĐ trong quá trình thực hiện
hợp đồng lao động và cả sau khi NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động trong một
khoảng thời gian nhất định. Việc pháp luật quy định hình thức của thỏa thuận bắt
buộc bằng văn bản là phù hợp vì đây chính là căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi
ích của các bên trong trường hợp có xảy ra hành vi vi phạm. Tuy nhiên, pháp luật
hiện hành lại chưa có quy định chi tiết thế nào là thỏa thuận bảo mật/hạn chế cạnh
tranh và nội dung của những thỏa thuận này như thế nào. Xuất phát từ mục đích
nhằm ngăn chặn bí mật kinh doanh bị tiết lộ, ta có thể định nghĩa điều khoản hạn
chế cạnh tranh như sau: Điều khoản hạn chế cạnh tranh là loại điều khoản thỏa
thuận giữa các bên trong hợp đồng lao động mà theo đó NLĐ đưa ra cam kết và
phải tuân thủ những giới hạn về việc tìm việc làm mới trong một giới hạn về thời
gian, khơng gian, lĩnh vực để bảo vệ bí mật công nghệ, kinh doanh cho NSDLĐ và
dự kiến cả hậu quả pháp lý trong trường hợp NLĐ vi phạm cam kết này17.
Điểm mâu thuẫn ở đây là pháp luật quy định NLĐ được làm việc cho bất kì
NSDLĐ nào và ở bất kì nơi nào mà pháp luật khơng cấm18, còn trong thỏa thuận
14

Lê Thị Thúy Hương, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2015), “Nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ lao
động”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2015, tr.51.
15
Lê Thị Thúy Hương, Nguyễn Hồ Bích Hằng, tlđd (14), tr. 51.

16
Holyoak & Torremans (2013), Intellectual Property Law, 7th ed., Nxb. Oxford, tr. 609.
17
Đoàn Thị Phương Diệp (2015), “Điều khoản bảo mật – Hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng lao động”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 24 (304) tháng 12/2015, tr.48.
18
Khoản 1 Điều 10 BLLĐ 2012.

14


hạn chế cạnh tranh giữa NLĐ và NSDLĐ lại nói rằng NLĐ không được làm việc
cho đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực sau khi chấm dứt hợp đồng lao động
trong một thời gian nhất định. Như vậy, liệu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có được
coi là một thỏa thuận hợp pháp hay không? Nếu không được coi là hợp pháp thì nó
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của NSDLĐ trong trường hợp NLĐ làm lộ
bí mật kinh doanh, cịn nếu ngược lại thì NLĐ sẽ bị xâm phạm quyền lợi bởi sau khi
chấm dứt hợp đồng lao động với doanh nghiệp, NLĐ không được đi làm cho doanh
nghiệp khác trong lĩnh vực chuyên môn của mình và cũng khơng được nhận bất kỳ
khoản lợi ích vật chất nào tương ứng với khoảng thời gian và lĩnh vực mà họ cam
kết không làm việc cho đối thủ cạnh tranh.
Để bảo vệ bí mật kinh doanh, pháp luật còn cho phép NSDLĐ quy định nghĩa
vụ bảo mật trong nội quy lao động. Vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh của NSDLĐ là
một trong những nội dung trong nội quy lao động19. Thông thường, nội quy lao
động sẽ xác định ai là người có thể truy cập thơng tin, tài liệu được xem là bí mật
kinh doanh, cách thức giữ và quản lý bí mật kinh doanh và những chế tài được áp
dụng khi có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, pháp luật quy định NLĐ chỉ có nghĩa vụ
bảo vệ bí mật kinh doanh trong phạm vi trách nhiệm được giao chứ khơng phải bảo
vệ tồn bộ bí mật kinh doanh của doanh nghiệp20. Trên thực tế, nội quy lao động do
NSDLĐ đơn phương xây dựng nhưng phải đăng kí với cơ quan lao động thì nó mới

có hiệu lực thi hành và hiệu quả của biện pháp này vẫn chưa cao.
Không như những đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh
chưa phổ biến ở Việt Nam. Liên quan đến bảo vệ bí mật kinh doanh trong quan hệ
lao động, có hai trường hợp đã được Tòa án giải quyết, một trường hợp do Tịa án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết vào năm 2005 (Bản án số 20/LĐ-ST
ngày 17/3/2005) và một trường hợp do Tòa án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An giải
quyết (Bản án số 09/2010/LĐ-ST ngày 10/12/2010).
Vụ việc thứ nhất liên quan đến công ty Nike (Nike) sa thải bà H. Nike đã dẫn
ra nội quy lao động tại phần 4 Điều 4.1 như sau: “trong q trình làm việc cho Nike,
nhân viên có thể có được tài liệu hoặc biết được thông tin về Công ty. Những thông
tin hay tài liệu này nếu tiết lộ cho những cá nhân khơng có liên quan sẽ có thể gây
tai hại về vật chất cũng như các ảnh hưởng không tốt khác cho Công ty. Hành vi tiết
19

Điểm d khoản 2 Điều 119 BLLĐ 2012.
Khoản 4 Điều 27 Nghị định 05/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 01 năm 2015 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
20

15


lộ đó, dù cố tình hay sơ suất đều có thể được xem như vi phạm hợp đồng và có thể
dẫn đến biện pháp kỷ luật kể cả việc sa thải”. Trong vụ việc này, căn cứ vào nội
dung email trao đổi giữa bà H, một nhân viên của Nike với người chị của mình,
Nike đã đi đến kết luận cho rằng bà H đã có hành vi tiết lộ thơng tin về hàng hóa
của Nike cho người chị. Cơng ty cho rằng người chị của bà H không liên quan đến
hoạt động của Công ty, do vậy, bà H đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ bảo mật
quy định tại Điều 4.1 của nội quy lao động. Trên cơ sở đó, Nike đã sa thải bà H.
Tịa án đã thừa nhận giá trị pháp lý của nội quy lao động vì NSDLĐ đã ban hành

nội quy theo đúng pháp luật và có đăng kí với cơ quan lao động. Do đó, khi xem xét
đến lợi ích của NSDLĐ,Tịa án đã xác định việc chấm dứt hợp đồng lao động giữa
NSDLĐ và nhân viên trên là hợp lý.
Vụ việc thứ hai, liên quan đến một nhân viên (ông R) làm cho Công ty Saitex
(Saitex) và ông R đã ký với Saitex một thỏa thuận. Theo đó, ơng R khơng được làm
việc trực tiếp hay gián tiếp cho bất kỳ công ty hoặc cá nhân nào là đối thủ cạnh
tranh của Saitex trong vòng một năm kể từ khi chấm dứt hợp đồng với Saitex. Thời
hạn một năm tính cho đến hết ngày 13/5/2011. Tuy nhiên, cũng theo thỏa thuận này,
ông R có thể được làm việc cho các cá nhân hay tổ chức là đối thủ cạnh tranh của
Saitex nếu được sự chấp nhận bằng văn bản từ phía Saitex. Danh sách công ty hoặc
cá nhân là đối thủ cạnh tranh sẽ được cập nhật mỗi tháng bằng thông báo chung cho
tồn cơng ty. Sau khi chấm dứt hợp đồng lao động với Saitex, ông R ký hợp đồng
bới một công ty khác (công ty này nằm trong danh sách mà Saitex đã thơng báo
trước đó) mà khơng được sự đồng ý của Saitex. Vì vậy, Saitex kiện ơng R vì đã vi
phạm thỏa thuận, đồng thời u cầu ơng R bồi thường thiệt hại. Tịa án đã cho rằng:
“ơng R là chuyên viên kỹ thuật nên có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh của
Cơng ty Saitex. Cơng ty phải có quyền được bảo vệ bí mật công nghệ, kinh doanh
của Công ty. Nếu NLĐ là việc cho một cơng ty đối thủ thì đương nhiên Cơng ty sẽ
bị thiệt hại khi bí mật kinh doanh của Công ty Saitex bị tiết lộ nên yêu cầu của
Công ty Saitex buộc ông R tuân thủ điều khoản cạnh tranh tại khoản 2 Điều 3 của
hợp đồng lao động đã ký với Công ty Saitex là phù hợp và có cơ sở”. Bên cạnh đó,
Tịa án cho rằng: “sự thỏa thuận giữa Công ty Saitex và ông R tại khoản 2 Điều 3
của hợp đồng là một dạng giao dịch dân sự giữa Cơng ty và NLĐ”. Vì thế, Tòa án
đã áp dụng Điều 122 BLDS 2005 để xác định điều kiện có hiệu lực của một giao

16


dịch dân sự. Và Tịa án đã xác định ơng R vi phạm thỏa thuận cấm cạnh tranh với
Công ty và phải bồi thường cho Công ty21.

Từ hai vụ việc trên ta có thể thấy rằng, Tịa án Việt Nam có xu hướng tơn
trọng các biện pháp bảo vệ bí mật kinh doanh mà các bên đã thỏa thuận. Tuy nhiên,
sự tơn trọng đó lại thể hiện sự yếu kém, thiếu kinh nghiệm của cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến bảo vệ bí mật kinh doanh, vì sự
tơn trọng thỏa thuận ở đây của Tòa án là chưa thực sự hợp lý, theo tác giả, trước khi
đưa ra kết luận Tòa cần phải xem xét kỹ lưỡng đến nhiều yếu tố khác nhau, trong đó
yếu tố quan trọng nhất là lợi ích của các bên trong thỏa thuận, cân nhắc xem liệu nội
dung thỏa thuận như vậy có xâm phạm quyền và lợi ích của một trong các bên của
quan hệ lao động khơng, vì như chúng ta đã biết, trong quan hệ lao động, địa vị
pháp lý của các bên không ngang nhau, NLĐ ln là bên yếu thế hơn.
Tóm lại, mặc dù pháp luật không quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ bí mật
kinh doanh trong quan hệ lao động nhưng để ngăn chặn các hành vi xâm phạm,
NSDLĐ vẫn áp dụng các biện pháp mà mình cho là cần thiết. Tuy nhiên, các biện
pháp này chỉ làm hạn chế chứ khơng thể loại bỏ hồn tồn các hành vi xâm phạm,
do đó, khi NLĐ thực hiện các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thì cần phải có
các biện pháp xử lý các hành vi này.
1.3.3. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trong quan hệ lao động
Khi có hành vi xâm phạm đến bí mật kinh doanh thì bí mật kinh doanh đó có
thể bị bộc lộ và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường sẽ giảm sút,
thậm chí khơng cịn. Vì vậy, những hành vi xâm phạm này phải được xử lý nghiêm
khắc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bí mật kinh doanh. Để xử
lý các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thì tùy vào từng trường hợp, hành vi và
mức độ sẽ có chế tài xử phạt thích đáng. Trong quan hệ lao động, nếu giữa các bên
có thỏa thuận bảo mật/hạn chế cạnh tranh thì theo nguyên tắc sẽ xử lý theo những gì
mà hai bên đã thỏa thuận; nếu các bên khơng có thỏa thuận thì sẽ xử lý theo quy
định của pháp luật. Nhìn chung, các chế tài mà NLĐ có thể bị áp dụng là xử lý kỷ
luật lao động, tùy vào mức độ vi phạm mà NSDLĐ có thể áp dụng hình thức kỷ luật
như khiển trách; kéo dài thời hạn nâng bậc lương không quá 06 tháng hoặc cách

21


Phụ lục 1.

17


chức; sa thải; buộc chấm dứt hành vi và bồi thường thiệt hại hoặc bị áp dụng các
chế tài khác như biện pháp dân sự, hành chính, hình sự.
Thứ nhất, xử lý bằng hình thức xử lý kỷ luật lao động.
Tùy vào mức độ vi phạm mà NSDLĐ có thể áp dụng các hình thức xử lý kỷ
luật như khiển trách hoặc kéo dài thời hạn nâng bậc lương không quá 06 tháng;
cách chức hoặc sa thải22. Mức độ vi phạm được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố như
hành vi vi phạm, người thực hiện hành vi vi phạm và thiệt hại do hành vi vi phạm
gây ra. Ví dụ như theo Điều 24 nội quy lao động của Cơng ty Cổ phần Dịch vụ Du
lịch Phú Thọ23thì tùy thuộc vào mức độ gây thiệt hại của các hành vi vi phạm các
quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh mà áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật khác
nhau. Nếu hành vi vi phạm không gây thiệt hại sẽ áp dụng hình thức khiển trách,
nếu gây thiệt hại có mức độ thì sẽ áp dụng hình thức kéo dài thời hạn nâng bậc
lương hoặc cách chức và cuối cùng, nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại nghiêm trọng
sẽ áp dụng hình thức sa thải.
Ngồi ra, khoản 1 Điều 126 BLLĐ 2012 quy định NSDLĐ áp dụng hình thức
xử lý kỷ luật sa thải khi: “NLĐ có hành vi trộm cắp, tham ơ, đánh bạc, cố ý gây
thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh,
bí mật cơng nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có
hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng
về tài sản, lợi ích của NSDLĐ.” Hiện tại, có hai quan điểm khác nhau về nhận thức
đối với quy định này24:
Quan điểm thứ nhất: chỉ cần NLĐ có hành vi trộm cắp, tham ơ, tiết lộ bí mật
kinh doanh, bí mật cơng nghệ thì NSDLĐ có quyền kỷ luật lao động bằng hình thức
sa thải, mà khơng cần quan tâm đến mức độ thiệt hại, vì mức độ thiệt hại chỉ phải

xác định khi NLĐ có hành vi khác mà không phải là các hành vi vừa nêu.
Quan điểm thứ hai: dấu hiệu mức độ thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích
của NSDLĐ là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các hành vi trên, vì xét về mặt câu chữ,
dấu hiệu mức độ thiệt hại là sự tiếp nối của các hành vi được nhà làm luật liệt kê,
không riêng của hành vi nào. Mặt khác, theo tinh thần hướng dẫn tại Thông tư
22

Điều 125 BLLĐ 2012.
Phụ lục 2.
24
Phạm Thị Hồng Đào, “Một số vướng mắc bất cập về xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động”,
16/7/2017.
23

18


×