Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ - BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM - NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHẮN VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.76 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÀI THU
HOẠCH
TÊN MƠN HỌC:

TRIẾT HỌC GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO QUẢN

TÊN BÀI THU
HOẠCH:

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM NHỮNG THÀNH
TỰU, KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM
2021


MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
II. NỘI DUNG ...........................................................................................................2
1. Những thành tựu về Bình đẳng giới ở Việt Nam ................................................2
2. Khái niệm bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ................................................ 3
3. Thực trạng bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ............................................... 4
3.1. Thực trạng bình đẳng giới trong bộ máy hành chính nhà nước cấp Trung
ương và địa phương .............................................................................................4
3.2. Những khó khăn ảnh hưởng đến q trình thực hiện bình đẳng giới trong
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
............................5


3.3. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam......................................................................................................................7
4. Kết quả thực hiện và kế hoạch chiến lược bình đẳng giới tại TP. HCM .............9
5. Kiến nghị ...........................................................................................................16
III. KẾT LUẬN .......................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 18


1

I. MỞ ĐẦU
Bình đẳng giới là vấn đề ln được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc
biệt. Những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng giới của Việt Nam đã mang lại
nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên,
bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần sự vào cuộc của chính
quyền và sự tham gia của toàn dân để khắc phục. Bình đẳng giới là một trong những
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được quy định cụ thể trong các
văn bản quy phạm pháp luật và trong các Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia ký kết. Theo Khoản 3, Điều 5, Luật Bình đẳng giới thì: “Bình đẳng giới là việc
nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng
lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau
về thành quả của sự phát triển đó” [9].
Mục tiêu bình đẳng giới hiện là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia nói
riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. Từ thời điểm năm 1955, Liên hợp quốc đã
thống nhất quan điểm và thông qua Chương trình hành động giới, lồng ghép giới tại
Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ tư tại Bắc Kinh (Trung Quốc) với chủ đề “Hành
động vì bình đẳng, phát triển và hịa bình”, mục đích là đánh giá lại quá trình thực
hiện Chiến lược hướng tới sự tiến bộ của phụ nữ và Cơng ước về xóa bỏ hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, đồng thời thông qua Cương lĩnh hành động vì sự tiến
bộ của phụ nữ tồn cầu đến năm 2000 [8]. Thơng qua Cơng ước quốc tế về xóa bỏ

mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ và mục tiêu thiên niên kỷ thứ ba
cũng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Việt Nam đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là đối
với các mục tiêu về giảm nghèo, bình đẳng giới và giáo dục. Theo báo cáo kết quả
15 năm thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, Việt Nam cơ bản hoàn thành 8 mục tiêu,
về mục tiêu thứ 3 (Đảm bảo bình đảng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho phụ
nữ), Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ về bình đẳng giới, đặc biệt trong lĩnh vực
giáo dục, việc làm và các hoạt động chính trị [2],[8].
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm dành cho cơng tác bình đẳng
giới những ưu tiên nhất định. Cụ thể, trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam


2

Dân chủ Cộng Hòa, Hiến pháp năm 1946, tại Điều 9 đã đề cập thẳng đến quyền
bình đẳng nam nữ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện” [7].
Và trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cũng trăn trở về vai trò và vị trí
của người phụ nữ, cụ thể như sau: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết
thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng có thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn
lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ” [1]. Vấn
đề bình đẳng giới, đã được thể chế hóa thành các văn bản như: Luật Bình đẳng giới
năm 2006 [9], Luật Phịng chống bạo lực gia đình năm 2007 [10], và các chương
trình hành động như: Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2016 – 2020 [11], Chương trình hành động quốc gia về phịng, chống bạo lực gia
đình đến năm 2020 [12]. Bên cạnh đó, nhiều văn bản đã ban hành: Nghị định số
70/2008/NĐ-CP ngày 4-6-2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Bình đẳng giới. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19-5-2009 của
Chính phủ quy định về các biện pháp đảm bảo bình đằng giới. Quyết định số
2351/QĐ-TTg ngày 24-12-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược

quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020. Quyết định số 1241/QĐ-TTg ngày
22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011-2015. Quyết định số 178/QĐ-TTg ngày 28-1-2016 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Thông báo kết luận số 196-TB/TW
ngày 16-3-2015 của Ban Bí thư về Đồ án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với cơng tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới” [8].
Các văn bản trên đều thể hiện sự liên quan đến bình đẳng giới ở Việt Nam. Để tìm
hiểu rõ hơn về Bình đẳng giới, tơi xin chọn chủ đề "Bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam: Những thành tựu, khó khăn và giải pháp" để làm bài thu hoạch
cho môn học Giới trong Lãnh đạo, quản lý.


3

II. NỘI DUNG
1. Những thành tựu về Bình đẳng giới ở Việt Nam
Trong Đại hội XII của Đảng: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật
chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển tài năng” [6] thì tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ln duy trì ở mức cao và có
xu hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể cho thấy: từ 3% ở Quốc hội khóa I tăng lên
24,4% ở khóa VIII (2011 - 2016) và ở khóa XIV(2016 - 2021) tỷ lệ này là 26,72%
(với 133 nữ đại biểu Quốc hội trên tổng số 496 đại biểu). Bên cạnh thực hiện bình
đẳng giới trên lĩnh vực chính trị thì bình đẳng giới trong lao động cũng đạt được
nhiều kết quả khả quan. Cụ thể, năm 2017, tỷ lệ nữ giới tham gia lao động chiếm
48,4% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động lên
đến 73% trong tổng số phụ nữ trong độ tuổi lao động, tỷ lệ này cao hơn mức trung
bình thế giới (49%), cao hơn mức trung bình của khu vực Đơng Á - Thái Bình
Dương (59%) và nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (39%) [3]. Đối với doanh
nghiệp, tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh ở nước ta đạt trên
31,6%, thuộc nhóm cao nhất của khu vực Đông Nam Á cũng là thành quả rất đáng

ghi nhận. Theo báo cáo về chỉ số phát triển con người của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc, bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp
hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới là 0.299, Việt Nam
xếp hạng thứ 48/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng
càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao) [4]. Năm 2020, Việt Nam có chỉ số bất
bình đẳng giới là 0.296, xếp hạng thứ 65/189 quốc gia, so với Thái Lan chỉ số bất
bình đẳng giới là 0.359, xếp hạng thứ 80/189 Lào chỉ số bất bình đẳng giới là 0.459,
xếp hạng thứ 113/189, Camphuchia chỉ số bất bình đẳng giới là 0.474, xếp hạng thứ
117/189 và Myanmar chỉ số bất bình đẳng giới là 0.478, xếp hạng thứ 118/189. Việt
Nam tiếp tục nằm trong nhóm có thứ hạng tốt nhất tương ứng với chỉ số bất bình
đẳng thấp nhất trong các nước ASEAN [5]. Với thành tựu này, Liên hợp quốc đánh
giá Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, một trong
những nước có thành tựu về bình đẳng giới cao và được xếp vào nhóm nước có
thành tựu bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Điều này thể hiện bước tiến
vượt bậc của Việt Nam trong việc thực hiện bình đẳng giới.


4

2. Khái niệm bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
"Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý có nghĩa là nam giới, nữ giới có vị trí,
vai trị ngang nhau trong công tác lãnh đạo, quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội
phát huy năng lực của mình ngang nhau và được thụ hưởng kết quả bổ nhiệm vào
những vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ thống chính trị ngang nhau" [8].
Luật Bình đẳng giới năm 2006 nêu rõ: “Mục tiêu của bình đẳng giới là xóa bỏ
phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế
- xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ
và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình” [9].
3. Thực trạng bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý

"Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý có nghĩa là nam giới, nữ giới có vị trí,
vai trị ngang nhau trong cơng tác lãnh đạo, quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội
phát huy năng lực của mình ngang nhau và được thụ hưởng kết quả bổ nhiệm vào
những vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ thống chính trị ngang nhau" [8].
3.1. Thực trạng bình đẳng giới trong bộ máy hành chính nhà nước cấp Trung
ương và địa phương
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đề ra chỉ tiêu cán
bộ lãnh đạo nữ trong bộ máy chính quyền nhà nước như sau: “Phấn đấu đến năm
2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ”. Tuy nhiên, tính đến hết tháng 8-2017, tình hình
thực hiện và đánh giá khả năng thực hiện chỉ tiêu đến năm 2020 cho thấy Việt Nam
chưa đạt được chỉ tiêu 95% các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ
và các Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Đến tháng 8-2017,
chúng ta có 12/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ cán bộ
đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt đạt tỷ lệ 40% (giảm 7% so với năm 2015). Ở
cấp tỉnh có 16/63 địa phương có nữ lãnh đạo chủ chốt chiếm tỷ lệ 25,39%. Ở cấp
huyện, một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp huyện từ 20% trở lên.
Một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã cao như Thành phố Hồ Chí
Minh (chiếm 32,18%), thành phố Đà Nang (25,79%), Bình Dương (25,40%), Đồng
Nai (24,8%). Nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 5%,
trong đó phần lớn là các tỉnh, thành phố ở miền Bắc.


5

Như vậy, so với yêu cầu đạt tỷ lệ 95% vào năm 2020 cịn khoảng cách lớn và
khó có khả năng thực hiện chỉ tiêu này tại cấp địa phương. Thực trạng hình đẳng
giới trong lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội. Nghị quyết số 11-NQ/TW đưa ra chỉ tiêu lãnh đạo nữ trong bộ
máy chính quyền nhà nước: Phấn đấu đến năm 2020 “các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ

từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ”.
3.2. Những khó khăn ảnh hưởng đến q trình thực hiện bình đẳng giới trong
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
3.2.1. Những khó khăn liên quan đến khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới
trong lĩnh vực chính trị và cơng tác cán bộ
Thứ nhát, hệ thống chỉ tiêu về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị ở Việt
Nam chưa tồn diện vì hiện nay nước ta chưa có các chỉ tiêu về tỷ lệ nữ giới làm
lãnh đạo cấp vụ và tương đương, cấp phịng và tương đương trong bộ máy chính
quyền nhà nước các cơ quan của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Việt
Nam cũng chưa có quy định về tỷ lệ nữ giới trong các khâu của quá trình cán bộ từ
tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển cán bộ để đảm bảo đạt được tỷ lệ cán bộ nữ ở
khâu bổ nhiệm cán bộ.
Thứ hai, hệ thống chỉ tiêu về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị ở Việt
Nam cịn chưa cụ thể, có lúc những chỉ tiêu cịn mang tính định tính và không xác
định được tỷ lệ phần trăm.
Thứ ba, các văn bản quy định hệ thống chỉ tiêu đôi khi cịn dùng những cụm
từ mềm, khơng mang tính bắt buộc.
Thứ tư, quy định khác nhau 5 năm về độ tuổi nghỉ hưu giữa nam giới và nữ
giới tuy mang tính bảo vệ, nhưng đồng thời lại gây ra bất lợi cho phụ nữ. Điều 187
về “Tuổi nghỉ hưu” trong Bộ Luật lao động năm 2012 làm hạn chế quyền và cơ hội
công bằng của nữ giới trong việc tham gia và đóng góp vào cơng việc lãnh đạo,
quản lý xã hội.
Thứ năm, một số chính sách liên quan đến cơng tác cán bộ chưa nhạy cảm
giới đang gây ra những khó khăn, bất lợi cho nữ giới trong tiếp cận các cơ hội lãnh
đạo, quản lý.


6

3.2.2. Những khó khăn liên quan đến văn hóa, nhận thức về bình đẳng giới đối với

phụ nữ
Định kiến giới cịn tồn tại trong cơng sở và ngồi xã hội gây bất lợi cho nữ
giới như sau:
Thứ nhất, định kiến giới thể hiện ngay trong các giai đoạn của quá trình cán
bộ. Về tuyển dụng cán bộ, mặc dù khơng có phân biệt đối xử trong tuyển dụng trên
văn bản, nhưng thực tế vẫn có xu hướng muốn tuyển nam giới, vì tâm lý và nhận
thức sợ trách nhiệm của nữ trong việc mang thai, sinh nở và chăm sóc gia đình,
khơng đảm nhiệm được việc cơ quan tốt. Về bổ nhiệm cán bộ cả trong khâu lấy
phiếu tín nhiệm và cân nhắc của lãnh đạo trước những ứng viên cho cùng một vị trí.
Cịn khơng ít cán bộ lãnh đạo nam và nữ, nhân viên nam và nữ vẫn suy nghĩ nam
giới làm lãnh đạo tốt hơn nữ. Một hình thức định kiến giới đối với phụ nữ ở khâu bổ
nhiệm cán bộ còn thể hiện ở việc lãnh đạo cơ quan và đồng nghiệp còn quan niệm
nữ vướng bận thai sản, nghỉ sinh con, chăm sóc con cái, … nên ít có thời gian cống
hiến cho cơng việc tại cơ quan, khó đi cơng tác xa, gặp khó khăn trong việc bố trí
thời gian tiếp khách ngồi giờ nên khơng phù hợp với một số vị trí lãnh đạo, quản
lý.
Thứ hai, định kiến giới về vai trò giới trong gia đình cịn tồn tại khá phổ biến
đang hạn chế các cơ hội phát triển sự nghiệp và phát triển mạng lưới nghề nghiệp
của nữ giới.
3.2.3. Những khó khăn liên quan đến năng lực và việc thực hiện vai trị của các cấp
ủy đảng, các cấp chính quyền, các cơ quan, tổ chức hoạt động vì sự tiến bộ của phụ
nữ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị.
Thứ nhất, tỷ lệ nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
chưa đạt chỉ tiêu một phần là do một số cấp ủy đảng và lãnh đạo chính quyền các
cấp chưa phát huy hiệu quả vai trị lãnh đạo, chỉ đạo trong cơng tác thực hiện bình
đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, biểu hiện cụ thể ở chất lượng các văn bản lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp về thực hiện bình đẳng
giới trong chính trị thiếu tính cụ thể và thiếu tính quyết liệt dẫn đến hiệu quả chỉ đạo
của các văn bản kém hơn.



7

Thứ hai, tỷ lệ nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị chưa
đạt chỉ tiêu một phần là do một số cấp ủy đảng và lãnh đạo chính quyền các cấp
chưa phát huy hết vai trị lãnh đạo, chỉ đạo trong cơng tác thực hiện bình đẳng giới
trong lĩnh vực chính trị, thể hiện ở việc các cấp lãnh đạo chưa ý thức đầy đủ vai trò
và tầm quan trọng của các cơ quan, đơn vị hoạt động vì bình đẳng giới tại cơ quan,
tổ chức hoặc tại tỉnh. Do đó, khơng ít các cấp ủy đảng và các cấp chính quyền
khơng chú trọng đầu tư các nguồn lực cho các hoạt động của các cơ quan này. Các
cơ quan, đơn vị hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới thường trong tình trạng thiếu
nguồn nhân lực hoặc không ổn định về tổ chức, dễ bị sát nhập. Kết quả là, việc các
đơn vị hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới thiếu nguồn nhân lực, tài lực và không ổn
định về tổ chức dẫn đến hiệu quả cơng tác hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới không
ổn định và chưa cao.
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam
Nhằm khắc phục những bất cập, phá vỡ rào cản trong cơng tác bình đẳng
giới và “Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em
gái" qua 08 mục tiêu cụ thể được ghi nhận tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày
10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch hành động quốc gia
thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững như: Giảm thiểu,
tiến tới chấm dứt các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái trong mọi
lĩnh vực và ở mọi nơi; Giảm đáng kể mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ
em gái nơi công cộng hoặc nơi riêng tư, bao gồm cả hình thức bóc lột tình dục và
các hình thức bóc lột khác; Đảm bảo sự tham gia đầy đủ, hiệu quả và cơ hội bình
đẳng tham gia lãnh đạo của phụ nữ ở tất cả các cấp hoạch định chính sách trong đời
sống chính trị, kinh tế và xã hội;… [13] cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau
đây:
3.3.1. Các giải pháp liên quan đến khung luật pháp, chính sách thúc đẩy bình đẳng

giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, rà soát lại những chỉ tiêu về tỷ lệ nữ làm lãnh đạo, quản lý cịn đang
mang tính định tính và thiếu cụ thể trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020 và Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về cơng tác phụ nữ


8

thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bổ sung những chỉ tiêu
cụ thể, định lượng về tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý như đưa chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ
lãnh đạo, quản lý trong các bộ, ngành, ủy ban nhân dân, trong các cơ quan của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, bổ sung các chỉ tiêu cho nữ giới
trong tồn bộ q trình cán bộ, đảm bảo các chỉ tiêu cán bộ được cập nhật hàng
năm.
Thứ hai, rà sốt lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến sự tham gia
lãnh đạo, quản lý của nữ giới, xóa bỏ những quy định đang hạn chế sự tham gia,
tiếp cận cơ hội và thụ hưởng các cơ hội làm lãnh đạo, quản lý đối với nữ giới trong
hệ thống chính trị.
Thứ ba, rà sốt các quy định của Đảng và Nhà nước về độ tuổi, đào tạo, bồi
dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, nghỉ hưu, xác định những bất hợp lý và bất lợi đối với phụ
nữ khi thực hiện những quy định này để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật
Bình đẳng giới.
Thứ tư, bổ sung những hình thức hướng dẫn các phương pháp đạt tỷ lệ chỉ tiêu
cán bộ lãnh đạo nữ trong các văn bản liên quan đến công tác cán bộ.
3.3.2. Các giải pháp liên quan đến văn hóa, nhận thức về bình đẳng giới trong
chính trị
Thứ nhất, tồn bộ hệ thống chính trị cần tăng cường và đa dạng hóa cơng tác
tun truyền về bình đẳng giới trên các phương tiện thơng tin đại chúng, trong đó
tính đến thế mạnh của các phương tiện truyền thơng hiện đại. Đa dạng hóa các hình
ảnh của nữ giới với các vai trị và nghề nghiệp khác nhau, đặc biệt trong vai trò lãnh

đạo, quản lý.
Thứ hai, đưa nội dung bình đẳng giới vào tồn bộ hệ thống giáo dục quốc dân
nhầm tạo nên những thế hệ cơng dân Việt Nam có tư tưởng bình đẳng giới và sớm
được tiếp xúc với tư tưởng bình đẳng giới từ những cấp học đầu đời cho đến các cấp
học cao hơn, giúp từng bước nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong gia đình
và tồn xã hội.
Thứ ba, bảo đảm các chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị có mơn
học Bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm giới, và trang bị các kỹ


9

năng lãnh đạo, quản lý thúc đẩy bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp trong hệ thống chính trị Việt Nam. Lồng ghép bình đẳng giới vào các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên viên trong tồn bộ hệ thống chính trị nhằm
từng bước đẩy lùi định kiến giới tại công sở.
Thứ tư, từng bước thay đổi vai trò của nam giới trong gia đình bằng việc chia
sẻ trách nhiệm đối với những cơng việc lao động khơng được trả cơng trong gia
đình thơng qua nhiều hình thức tun truyền, vận động và tơn vinh nam giới chia sẻ
cơng việc gia đình.
3.3.3. Các giải pháp liên quan đến việc nâng cao vai trò, năng lực của các cấp ủy
đảng, các cấp chính quyền và các cơ quan hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới
Thứ nhất, tiếp tục tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và
chính quyền các cấp trong việc kịp thời quán triệt các văn bản của Đảng về bình
đẳng giới trong tồn bộ hệ thống chính trị.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các văn bản chỉ đạo, văn bản cụ thể hóa các
chính sách, luật pháp của Trung ương về bình đẳng giới của các bộ, ban, ngành và
các cấp chính quyền địa phương. Cụ thể hóa các chỉ tiêu bình đẳng giới vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Thứ ba, bố trí kinh phí và các nguồn lực cụ thể đi kèm các văn bản chỉ đạo,

văn bản cụ thể hóa các chính sách, luật pháp của Trung ương về bình đẳng giới của
các bộ, ban, ngành và các cấp chính quyền địa phương đảm bảo thực hiện hiệu quả
các chính sách bình đẳng giới đã ban hành.
Thứ tư, ban hành cơ chế phối hợp và giao trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan,
đơn vị thuộc hệ thống chính trị trong việc thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.
Thứ năm, tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Nhà nước đối
với việc triển khai, thực hiện các văn bản, các chỉ tiêu về bình đẳng giới nói chung,
bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng.
4. Kết quả thực hiện và kế hoạch chiến lược bình đẳng giới tại TP. Hồ Chí Minh
Trong những năm qua cơng tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ của
thành phố Hồ Chí Minh đạt được nhiều kết quả tích cực. Thành phố ln thể hiện nằm


10

trong nhóm các địa phương đi đầu trong cả nước về triển khai hoạt động bình đẳng giới
và vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Qua 10 năm thực hiện bình đẳng giới và 4 năm thực hiện đề án phòng ngừa và ứng
phó với bạo lực trên cơ sở giới, TP. Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách đảm bảo triển khai các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong ngành, lĩnh vực
hiệu quả. Bên cạnh đó, TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, kỹ
năng truyền thơng, nói chuyện chun đề, hội thảo, tọa đàm… đã thu hút được các giới,
cộng đồng dân cư tham gia tìm hiểu về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Đối với mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động và giáo dục đào tạo,
TP. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đẩy mạnh công tác xã hội gắn với chuẩn hoá và nâng cao chất lượng giáo dục
ngang tầm các nước trong khu vực, phát triển cân đối phù hợp giữa trường công lập và
trường tư thục đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người dân.
Ngồi ra, 10 năm qua, TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều mơ hình phịng ngừa ứng

phó với bạo lực trên cơ sở giới có hiệu quả. Cụ thể như: mơ hình “Dịch vụ một cửa hỗ
trợ các trường hợp bệnh nhân khám, điều trị tại bệnh viện phát hiện bị bạo lực, xâm hại
tình dục tại bệnh viện Hùng Vương”; “Cải tạo hẻm Khu phố 1 chợ Hồ Thị Kỷ” và “Cải
tạo nhà vệ sinh công cộng tại các chợ truyền thống và các trường học trên địa bàn Quận
10”; “Câu lạc bộ nam giới tiên phong thúc đẩy bình đẳng giới”…
Với các mơ hình, dịch vụ đã giúp TP. Hồ Chí Minh tổ chức được các hoạt động giao
lưu, chia sẻ kinh nghiệm của người trong cuộc để truyền cảm hứng cho những người
tham dự các sự kiện, hội thảo, tọa đàm và cũng là dịp để tôn vinh những người làm
trong lĩnh vực liên quan đến trẻ em, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ và những
người đang làm việc trực tiếp với nạn nhân. Các hoạt động trên đều để lại dấu ấn, cảm
xúc cho những người làm nghệ thuật, người tham mưu,... xây dựng nên những tác phẩm
và ấn phẩm giúp TP. Hồ Chí Minh có kho dữ liệu truyền thơng có thể khẳng định “đẳng
cấp về chun mơn và tính nghệ thuật”; đồng thời, kết nối được các bên liên quan trong
việc đồng hành cùng các ngành, các cấp triển khai có hiệu quả “Chương trình TP an
tồn, thân thiện với phụ nữ và trẻ em”.
TP. Hồ Chí Minh đã có 20/26 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra (đạt 77%),
trong khi kết quả Sơ kết Chiến lược chung cả nước là 9/22 chỉ tiêu đã đạt kế hoạch đề


11

ra. Trong giai đoạn 2016-2020, thành phố có sự thay đổi về nhận thức, đội ngũ chuyên
trách về bình đẳng giới nên tiếp tục có những định hướng, điều chỉnh trong thực hiện
mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ của phụ nữ.
Theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí
Minh, những kết quả nổi bật của thành phố trong công tác bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ thể hiện một số mục tiêu và các chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch gồm: giáo dục, y tế,
việc làm, trong đó có những chỉ tiêu tiến bộ liên quan đến lĩnh vực chính trị. Cụ thể, đối
với chỉ tiêu 1 thành phố có tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp nhiệm kỳ 2016-2020

đạt và vượt so với quy định tại Chỉ thị số 36-CT/TW. Nữ đại biểu Hội đồng nhân dân
nhiệm kỳ 2011-2016 ở cấp thành phố đạt 22,1%; cấp xã, thị trấn là 28,9%; kết nạp
19.858 nữ đảng viên, chiếm 44,81%, vượt 4,81% so với chỉ tiêu.
Về chỉ tiêu 2 hiện thành phố có 331 đơn vị có nữ lãnh đạo chủ chốt, đạt 84,65%.
Sở, ban, ngành thành phố có 330 nữ cán bộ giữ chức danh Trưởng, phó phịng, ban và
tương đương, chiếm 30,39%.
Trong hoạt động thực hiện mục tiêu 2, thành phố có 52.836 doanh nghiệp do nữ
làm đại diện; từ năm 2011-2016, thành phố thu hút hơn 1,44 triệu lượt lao động, tạo chỗ
làm mới 619.169 lượt người, trong đó nữ chiếm 50,2%. Nhìn chung, hoạt động đào ạo
nghề, chun mơn kỹ thuật cho lao động, trong đó có lao động nữ đạt kết quả khả quan
đã tạo điều kiện cho các hộ nghèo, cận nghèo do nữ làm chủ độ vay vốn đạt 95,39%.
Trong các lĩnh vực về giáo dục, y tế, thông tin, thành phố cũng đạt được kết quả
ấn tượng. Hiện tỷ lệ biết chữ từ 15 đến 40 tuổi của 5 huyện ngoại thành đạt 99,82%; có
2.454 nữ/4.896 người đạt trình độ thạc sỹ, 69 nữ/233 người đạt trình độ tiến sỹ. Hằng
năm, thành phố dành khoảng 2000 tỷ đồng đầu tư cơ sở vật chất trường học; ngành y tế
thành phố đầu tư 9,72 tỷ đồng nâng cao hoạt động chun mơn chăm sóc sức khỏe
người dân, bà mẹ mang thai và trẻ sơ sinh….
Theo đánh giá của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí
Minh: Việc thực hiện Chiến lược, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới của thành
phố được thực hiện đồng bộ, trong đó điểm mạnh của cơng tác tuyên truyền là luôn
được thực hiện thường xuyên, liên tục. Ghi nhận kết quả thực hiện các dự án về nâng


12

cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới cho thấy, 5 năm qua, Sở tổ chức
5.428 lớp bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền, tư vấn về bình đẳng giới; in 57.450 tờ rơi, tờ
bướm, tài liệu sinh hoạt chuyên đề… Ngoài ra, các sở, ban, ngành liên quan cũng phối
hợp thực hiện, triển khai dẫn đến có nhiều tiến bộ, biến chuyển về nhận thức về bình
đẳng giới được truyền tải rộng, có hiệu quả đến cộng đồng và xã hội.

Bên cạnh đó, bộ máy chuyên trách cơng tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ
từ thành phố đến các quận, huyện, phường – xã – thị trấn cũng đạt so với yêu cầu nên
tạo hiệu ứng tích cực của hoạt động truyền thơng.
Mặc dù đạt nhiều kết quả tích về thực hiện cơng tác bình đẳng giới, song Thành
phố vẫn gặp một số thách thức, khó khăn khi tiếp tục triển khai các nội dung của Chiến
lược, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới trong giai đoạn 2016-2020. Đó là: một số
chỉ tiêu thống kê theo Bộ chỉ số giữa các ngành, cấp từ Trung ương cịn thiếu về thơng
tin, dữ liệu. Do đó, khi triển khai thực tế và định hướng xây dựng thực hiện cho thời
gian tới sẽ gặp khó khăn nhất định.
Cơng tác bình đẳng giới thực hiện ở 8 lĩnh vực nhưng hiện các nghiên cứu giới
chưa được sử dụng nhiều vào lập chính sách; định kiến giới cịn phân biệt nam – nữ và
phân hóa kinh tế - xã hội ở thành phố, nông thôn trong khi thành phố Hồ Chí Minh là đơ
thị lớn, đơng dân nhập cư cũng là những vấn đề thách thức cho việc thực hiện.
Trước những vấn đề đặt ra trong giai đoạn 2016-2020 cho cơng tác bình đẳng
giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thành phố Hồ Chí Minh đề ra phương hướng, giải pháp
thực hiện Chiến lược, Chương trình qc gia về bình đẳng giới với nhiều nội dung mới
có điều chỉnh phù hợp, linh hoạt trong tình hình thực tế của thành phố. Phương hướng
đề ra là thành phố tiếp tục chỉ đạo thực hiện và hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu của
Chiến lược, Chương trình tại thành phố giai đoạn 2011-2020, trong đó ban hành Kế
hoạch triển khai Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020 tập trung
ở giải pháp xây dựng dự án, mơ hình về truyền thơng thay đổi nhận thức, hành vi về
bình đẳng giới hướng đến cơ quan, lĩnh vực truyền thơng.
Song song đó, xây dựng năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu dân cử các cấp, thí
điểm mơ hình thúc đẩy bình đẳng giới; nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình
đẳng giới …


13

Về một số chỉ tiêu, mục tiêu điều chỉnh trong thực hiện Chiến lược của giai đoạn

2016-2020, thành phố tập trung các nội dung gồm: đối với các chỉ tiêu thành phố xây
dựng thì ở mục tiêu 1 điều chỉnh chỉ tiêu 4 theo hướng cần thiết tăng tỷ lệ cán bộ cơng
chức nữ được đào tạo nâng cao trình độ giai đoạn 2016-2020 và đề xuất “đến năm 2020,
phấn đấu đạt tỷ lệ 50% cán bộ, công chức nữ trên tổng số cán bộ công chức được đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chun mơn nghiệp vụ trong và ngồi
nước”.
Đối với mục tiêu 2 có chỉ tiêu 2 đề xuất khơng đưa vào thực hiện cho Chiến lược
giai đoạn 2016-2020 là do là trong văn kiện của Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng bộ
thành phố và chỉ đạo chuyên môn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội không có
chỉ tiêu trên, do đó khó khăn trong q trình thu thập thơng tin, dữ liệu. Cũng bởi khó
khăn xác định về thống kê, thành phố đề xuất không đưa vào thực hiện chỉ tiêu 3 (mục
tiêu 2).
So với các địa phương khác, TP. Hồ Chí Minh có những chỉ tiêu, mục tiêu thực
hiện Chiến lược giai đoạn trước luôn đạt, vượt và nằm trong “top” các địa phương dẫn
đầu nên ở mục tiêu 3, có chỉ tiêu 3 khơng xây dựng. Vì hệ thống giáo dục từ thành phố
đến địa phương đã ổn định, phát triển về lượng và chất nên cần thay thế theo hướng
“đến năm 2020, phấn đấu đạt tỷ lệ 70% cán bộ, giáo viên các cấp học được đào tạo, tập
huấn nâng cao năng lực về giới và lồng ghép giới”; “đến năm 2020, phấn đấu đạt tỷ lệ
50% học sinh, sinh viên các cấp được truyền thơng nâng cao nhận thức về bình đẳng
giới”.
Tương tự trong lĩnh vực y tế ở mục tiêu 4, chỉ tiêu 5 thành phố thay thế là “đến
năm 2020, phấn đấu đạt tỷ lệ 50% nam giới là học sinh từ trung học cơ sở trở lên và
sinh viên được tiếp cận thơng tin về chăm sóc sức khỏe sinh sản”.
Đối với các chỉ tiêu của Trung ương, thành phố cũng có đề xuất ở một số nội dung
cụ thể như: ở mục tiêu 2 với chỉ tiêu 2 điều chỉnh là “phấn đấu đến năm 2020, trong
tổng số cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo trình độ thạc sỹ và tương
đương đạt 50%, tiến sỹ và tương đương đạt 25%”; ở mục tiêu 7 với chỉ tiêu 2 điều chỉnh
“đến năm 2020, có 100% cán bộ, công chức trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng



14

văn bản quy phạm pháp luật được tập huấn kiến thức về giới, phân tích giới và lồng
ghép giới”.
Cán bộ Đồn, trong đó có cán bộ Đồn nữ tại Thành phố Hồ Chí Minh có
những điều kiện để trưởng thành từ hoạt động thực tiễn và được sự dìu dắt, hướng dẫn
của các thế hệ lãnh đạo đi trước, các ba má phong trào, các lão thành cách mạng
phong trào học sinh, sinh viên Sài Gòn – Gia Định; phong trào “Hát cho đồng bào tôi
nghe” và hàng ngàn cuộc đấu tranh cách mạng chống đế quốc. Từ đó, nhiều lớp nữ
cán bộ Đồn Thành phố đã có sự trưởng thành, trở thành cán bộ, lãnh đạo trên nhiều
lĩnh vực, đóng góp vào sự phát triển của Thành phố và cả nước. Trong thế hệ cán bộ
nữ lãnh đạo trưởng thành từ cơng tác Đồn Thành phố có thể kể đến: đ/c Phạm
Phương Thảo, Ngun Phó Bí thư Thành ủy, Nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhân dân
Thành phố; Đ/c Nguyễn Thị Lệ, Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh,
Đ/c Trần Thị Diệu Thúy, Thành ủy viên Chủ tịch Liên đoàn Lao động Thành phố; Đ/c
Nguyễn Thị Xuân, Thành ủy viên, Chủ tịch Hội nông dân Thành phố, Đ/c Phan Thị
Thanh Phương, Thành ủy viên Bí thư Thành Đoàn…. Hiện nay, trong cơ cấu Ban
chấp hành Thành Đoàn có đến 40% cán bộ nữ, có 45% thủ lĩnh thanh niên tại cơ sở
Đoàn là cán bộ nữ.
Để hun đúc các thế hệ nữ cán bộ, lãnh đạo tâm huyết, tài năng, yêu nước như
vậy, Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh ln có một sự địi hỏi rất cao từ các đồng chí nữ
cán bộ Đồn, đó là phải ln ln sáng tạo, tìm tịi cái mới, khơng được giáo điều, rập
khn, máy móc. Đồng thời, tạo nhiều điều kiện để cán bộ nữ được trui rèn, khổ
luyện và thể hiện vai trị thủ lĩnh, dìu dắt, tập hợp thanh niên, trưởng thành qua các
phong trào tình nguyện.
Suốt hơn 4 tháng vừa qua chống chọi với làn sóng thứ 4 của đại dịch covid – 19,
các cấp bộ Đoàn Thành phố đã phát huy tinh thần tình nguyện, sáng tạo và có nhiều
mơ hình hoạt động mới chung sức cùng thành phố phịng chống dịch bệnh. Có được
thành quả này là nhờ vào sự nổ lực không ngừng của đội ngũ lãnh đạo trẻ, trong đó có
nhiều nữ thủ lĩnh thanh niên.

Từ tháng 5/2021 đến nay, khi tình hình dịch bệnh covid – 19 diễn biến phức tạp,
Ban thường vụ Thành Đồn đã chủ động phân cơng nhiều nữ cán bộ Thành Đồn
tham gia cơng tác phịng chống dịch bệnh thông qua các tổ công tác cấp thành, phân


15

công nữ cán bộ tham gia hỗ trợ tiêm chủng vắc xin phòng covid – 19; cử 197 cán bộ
và tình nguyện viên tham gia 22 tổ cơng tác đặc biệt hỗ trợ phòng chống dịch bệnh tại
Thành phố Thủ Đức và 21 Quận – Huyện. Thông qua trang cộng đồng facebook: “GO
VOLUNTEER !”, Thành Đoàn đã kết nối và điều phối 10.000 lượt tình nguyện viên
tham gia các đội hình tình nguyện, trong đó có 504 nữ tình nguyện viên tham gia tình
nguyện tại các bệnh viện dã chiến, bệnh viện điều trị covid – 19 và Trung tâm Cấp
cứu 115. Nhiều chương trình, mơ hình sáng tạo đã hỗ trợ người dân kịp thời như:
Chương trình ATM Oxy: “Trao ô xy – nối dài sự sống” đã hỗ trợ bình ơ xy, bộ van
đồng hồ, ống thở, máy thở oxy cho 5.431 trường hợp cần thiết, khẩn cấp. Thực hiện
cung cấp tận nhà cho bệnh nhân F0 điều trị tại nhà 6.500 túi chăm sóc sức khỏe tại
nhà. Sản xuất và cung cấp miễn phí 280.640 lít dung dịch sát khuẩn anolyte; triển khai
đội xe phun khử khuẩn di động phản ứng nhanh với 130 xe bán tải, 300 tình nguyện
viên phun khử khuẩn 6.135 điểm là: nhà có F0, hẻm có F0, các khu nhà trọ, chung dân
cư, khu chung cư, khu chợ có nguy cơ, các điểm lấy mẫu, các điểm tiêm chủng…
Triển khai đội hình Z vận chuyển xác người bệnh tại bệnh viện hoặc tại nhà để hỏa
táng; hỗ trợ vận chuyển F0 đến bệnh viện thu dung, hỗ trợ các tỉnh thành đón sinh
viên, bà con lao động trở về q….
Có được mơi trường và cơ hội này, nữ cán bộ Đoàn tại Thành phố Hồ Chí Minh
nếu biết rèn luyện, học tập, tu dưỡng, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm chuyên mơn
thơng qua những cơng việc mà mình được phân cơng tham gia, thì sẽ tích lũy được
đầy đủ bản lĩnh, kiến thức, kinh nghiệm, có nền tảng vững chắc để có thể xem xét, bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử hoặc bầu cử vào những vị trí quan trọng khác trong địa
phương, đơn vị. Chính sự kỳ vọng, đặt niềm tin đó đã tạo ra động lực, niềm tin nhưng

cũng tạo ra sức ép để bản thân mỗi nữ cán bộ trẻ phải nỗ lực, cố gắng hoàn thiện và
làm tốt cơng việc của mình.
Bên cạnh đó, nữ cán bộ trẻ hiện nay được đào tạo rất bài bản, cả về trình độ
chun mơn, năng lực làm việc trong mơi trường quốc tế cả về phương pháp công tác
và học tập, kế thừa được rất nhiều từ các thế hệ cán bộ đi trước.


16

5. Kiến nghị
Nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị như sau:
- Thứ nhất, tăng cường sự cam kết mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, nhất là
những người đứng đầu trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện bình đẳng giới và
tiến bộ của phụ nữ ln đóng vai trị then chốt.
- Thứ hai, cụ thể hóa thông qua các kế hoạch hành động và việc làm cụ thể
đối với sự tham chính của phụ nữ.
- Thứ ba, cần chú trọng đến công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý là nữ (tạo nguồn, đào tạo, bố trí sử dụng). Trong các chính sách về cơng tác
cán bộ, chính sách quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng của các bộ, ban, ngành đã quan
tâm đến cán bộ nữ nhiều hơn.
- Thứ tư, cần có sự linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới, tạo điều kiện tham gia đào tạo; hỗ trợ những khoản kinh phí nhất định
cho cán bộ nữ tham gia đào tạo bồi dưỡng dài hạn; tuyên truyền vận động, động
viên cán bộ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng.
- Thứ năm, các cơ quan có trách nhiệm về bình đẳng giới cần tăng cường
cơng tác kiểm tra, giám sát, đánh giá và tổng kết việc thực hiện các chỉ tiêu liên
quan đến công tác cán bộ nữ, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.
- Thứ sáu, thơng qua cơng tác Đồn và phong trào thanh niên tại cơ quan,
đơn vị phát hiện và giao nhiệm vụ, quy hoạch, phát triển nữ cán bộ trẻ.



17

III. KẾT LUẬN
Đánh giá tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển kinh tế, xã hội,
Chính phủ Việt Nam khẳng định bình đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một
nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá
nhân, mỗi gia đình và tồn xã hội. Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường nhận thức về
bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định kiến trong xã hội;
thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là ở
các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y tế, việc
làm. Bình đẳng giới khơng đơn thuần là quyền lợi của chị em, mà chính là quyền lợi
chung của một đất nước muốn phát triển bền vững. Bởi nếu một đất nước chỉ sử
dụng một nửa dân số, không phát huy được đầy đủ và tối đa năng lực của mọi
người, mọi cơng dân bất kể nam hay nữ thì thật sự thiếu sốt.
Các chính sách về cơng tác cán bộ, chính sách quy hoạch, đào tạo và bồi
dưỡng của các bộ, ban, ngành quan tâm đến cán bộ nữ nhiều hơn. Linh hoạt trong
việc áp dụng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Tăng cường cơng tác kiểm tra,
giám sát, đánh giá và tổng kết việc thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến công tác cán
bộ nữ, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.
Như vậy, có thể thấy rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà
nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Và những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng về
giới đã mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá
rất cao. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được rõ ràng, khơng thể phủ nhận vẫn cịn
những tồn tại, hạn chế. Nhưng cần khẳng định Bình đẳng giới trở thành mục tiêu
phát triển của Việt Nam nói riêng và của cộng đồng quốc tế nói chung; để đạt được
mục tiêu này cần cả một quá trình lâu dài và sự vào cuộc của chính quyền, sự tham
gia của tồn dân./.



18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), “Di Chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Hà Nội, 1989.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), "Báo cáo Quốc gia: Kết quả 15 năm thực
hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam".
3. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2018), "Báo cáo tổng quan về lao động
nữ tại Việt Nam".
4. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2013), "Báo cáo phát triển con người
năm 2013". Tr.18
5. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2020), "Chỉ số phát triển con người
năm 2020". Tr 361-364.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII", Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
7. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (1946).
8. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình mơn học Giới
trong Lãnh đạo, quản lý, Nxb Lý luận chính trị. Hà Nội.
9. Luật số 73/2006/QH11 (2006), "Luật Bình đẳng giới", Quốc hội Nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 29 tháng 6 năm 2006.
10. Luật số 02/2007/QH12 (2007), "Luật Phịng, chống bạo lực gia đình", Quốc
hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 21 tháng 11 năm 2007.
11. Thủ tướng chính phủ (2015), Quyết định số 1696/QĐ-TTg "Chương trình
hành động Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020". Hà Nội, 2015.
12. Thủ tướng chính phủ (2014), Quyết định số 215/QĐ-TTg "Chương trình
hành động Quốc gia về Phịng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020". Hà
Nội, 2014.
13. Thủ tướng chính phủ (2017), Quyết định số 622/QĐ-TTg "Kế hoạch hành
động Quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền

vững". Hà Nội, 2017.
14. Tạp chí Lao động và Xã hội, TPHCM: Nhiều kết quả đạt được về hoạt động
bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ />


×