Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của hồ chủ tịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.24 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp Cách mạng
của Hồ Chủ tịch.

Họ và tên SV: Trần Thị Kim Liên
Lớp tín chỉ: TTHCM 35
Mã SV: 11192732
GVHD: TS. LÊ THỊ HOA

Hà Nôi, tháng 10 năm 2021

1


MỤC LỤC
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................ 3
PHẦN 2: NỘI DUNG................................................................................................ 4
I, Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa
xã hội của Hồ Chí Minh.......................................................................................... 4
II, Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội............................................................................................................. 5
1, Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.............5
1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.......................................5
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội..................................... 8
2. Mối quan hệ gắn liền giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội xuyên suốt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh................................................................................ 9


2.1 Giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội....................................... 9
2.2 Xây dựng chủ nghĩa xã hội là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển độc
lập dân tộc....................................................................................................... 9
2.3 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lưi xun
suốt tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh............................................................... 10
3. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong quá trình cách mạng Việt Nam................................................................. 10
PHẦN 3: KẾT LUẬN.............................................................................................. 13
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 14

2


PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
Trước đây, Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, yêu cầu độc
lập dân tộc và dân chủ luôn thường trực trong cuộc sống của nhân dân, nhiều cuộc
khởi nghĩa nổi dậy giành độc lập nhưng do nhiều nguyên nhân dẫn đến hầu hết đều
thất bại. Hàng loạt các cuộc thất bại của phong trào yêu nước ấy đã đem lại những
bài học và một sự đòi hỏi cấp thiết về một đường lối cách mạng mới, một hệ tư tưởng
mới. Đứng trước cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cơ sở lý luận về cơ sở
lý luận của chủ nghĩa mác-lênin, Hồ Chí Minh đã xác định: con đường giải phóng
dân tộc phải đi theo con đường chủ nghĩa Vô sản. Sự lựa chọn này mày là bước ngoặt
cực kỳ to lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam. khác với con đường cứu nước trước
đó Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa phong kiến hay với chủ nghĩa tư bản của
ông cha ta, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập gắn liền với Chủ nghĩa
xã hội. Theo Người, sau khi giành được độc lập cần xây dựng đất nước theo con
đường chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chủ Tịch, được gọi là nền tảng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng. Vì vậy, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội I là một vấn đề cần thiết đối với để

thế hệ trẻ đang được hưởng độc lập hạnh phúc, chúc ấm no như chúng ta

3


PHẦN 2: NỘI DUNG
I, Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự bất cập của tư tưởng yêu
nước trong khuôn khổ ý thức hệ phong kiến: “ trung quân, ái quốc”, chống pháp giúp
vua, mua để đi đến quan niệm mới: dân là dân nước nước là nước dân
Hồ Chí Minh đã từng nhắc đến bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) và
bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền in của cách mạng tư sản Pháp (1791) về
quyền bình đẳng: “ tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ
những Quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được
sống quyền tự do và quyền Mưu cầu hạnh phúc”. bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng Pháp cũng chỉ rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi; về phải ln ln tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Bước ngoặt lớn nhất là khi Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I Lê nin. Đến với con đường cứu nước
trong thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Từ đây Người nhân thức được
sâu sắc vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới được mở ra sau
thắng lợi Cách mạng Tháng Mười: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội. DO đó cách mạng giải phóng dân tộc phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng
vô sản. Người đã chỉ ra: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải tiến hành cách
mạng vơ sản. Hồ Chí Minh Nếu tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước,
cứ dân. đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, I giai cấp vô sản phải nắm lấy
ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng bước với phong trào cách

mạng vô sản thế giới.
Luận cứ để mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện
thực sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ
đạo cách mạng vơ sản, là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, trong cuộc
đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội theo tinh thần khẩu
hiệu chiến lược của Quốc tế thứ III: “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế
giới liên hợp lại”! Đồng thời, “muốn cách mệnh thành cơng thì dân chúng (cơng
4


nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(2) và “An Nam muốn cách
mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”(3). Khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời vào mùa Xuân năm 1930, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Con đường độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ
rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”(4) - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập
dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó trước hết là để
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Thứ hai là
đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân
tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Sau khi nghiên cứu cương lĩnh dân tộc của V.I Lênin: bình đẳng tự quyết, đồn
kết giai cấp cơng nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn nhất là dựa trên lập trường cách mạng vô sản. sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát vọng ngàn
đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc
II, Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với

Chủ nghĩa xã hội
1, Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói:
“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn;
đây là tất cả những điều tôi hiểu”.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng minh thắng
trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay mặt những người
Việt nam yêu nước, Nguyễn Ái quốc gửi tới hội nghị Véc xây bản Yêu sách gồm tám
điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.

5


Đầu năm 1930, Nguyễn Ái quốc soạn thảo “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” của
Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tư tưởng cốt lõi là
độc lập, tự do cho dân tộc.
Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị là thứ tám Ban chấp hành trung Ương
đảng, viết thư “Kính cáo đồng bảo”, chỉ rõ: “trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy”. Người chí đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra
báo Việt Nam độc lập, thảo “Mười chính sách của Việt Minh”, trong đó mục tiêu đầu
tiên là: '“Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”.
Cách mạng tháng Tám thành cơng, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tun
ngơn độc lập, long trọng và khẳng định trường toàn thế giới: “Nước việt nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải đề
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Trong quan niệm của Hồ chí minh, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực
sự, hồn tồn, gắn với hịa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời

gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ chí minh trịnh trọng tun bố: “Nhân dân chúng
tơi thành thật mong muốn hịa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến
đấu đến cùng đề bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
quốc và độc lập cho đất nước.”
Cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân Pháp bùng nổ thể hiện quyết tâm bảo
vệ độc lập chủ quyền dân tộc, Hồ chí minh ra lời kêu gọi vang dội núi sông: “Không!
Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ.”
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và
phương tiện chiến tranh hiện đại vào Miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá
hoại Miền Bắc với quy mô và quyền lợi ngây cảng ác liệt, Hồ chí minh nêu cao chân
lý lớn nhất của thời đại: “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”.Độc lập dân tộc, cuối
cùng, phải đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người dân.
Độc lập tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của
dân tộc Việt Nam Trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân
6


tộc: “KHơng có gì q hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt
Nam, đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Như vậy, ta có thể thấy được tư tưởng của Hồ chí minh về độc lập dân tộc bao
gồm 5 quan điểm chính:
Độc lập dân tộc trước hết phải đảm bảo các quyền dân tộc cơ bản: quyền tự
do, quyền bình đẳng, quyền sống sung sướng, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Ngày 15 tháng 2 năm 1967, trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn, Người đã nêu
rõ. "Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do và hồ bình
Nhưng thiết tha độc lập tự do trong hồ bình, khát vọng chính đáng đó của Hồ
Chí Minh và của nhân dân Việt Nam không được đáp lại. Người nói, cho dù
chiến tranh kéo dài 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa, nhân dân Việt Nam

quyết giành cho được độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc.
Độc lập dân tộc đi liên với âm no, hạnh phúc của nhân dân.
Hồ Chí Minh viết: Chúng ta đấu tranh giành được độc lập rồi mà dân vẫn
đói, vẫn rét thì độc lập, tự do đó chẳng có ý nghĩa gì, dân chỉ biết giá trị của
độc lập khi được ăn no, mặc ấm. Vì vậy, đấu tranh cho dân tộc được độc lập,
thân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
lành là hoài bão, là lý tưởng, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc phải gắn - liền với quyền tự quyết. Độc lập dân tộc là phải gắn với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.

Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với sự toàn vẹn quốc gia, Bắc
- Trung
- Nam liền một dải, không thể chia cắt. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945,
Người đã trích dẫn lại Tun ngơn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả
mọi người đều sinh ra bình đẳng'’. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do
”và Người gọi đó là lẽ phải khơng ai chối cãi được.
Độc lập dân tộc là kiên quyết chống lại bất kỳ sự xâm phạm độc lập dân tộc
nào
Ngày 2/9/1945, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
7


Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nơ lệ”. Những tư tưởng đó đã
tạo nên chân lý có giá trị lớn nhất cho mọi thời đại: “Khơng có gì q hơn độc
lập, tự do!"
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu

nước, truyền thông nhân ái và tính thần cộng đồng làng xã Việt Nam. Hồ Chí Minh
đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương đông qua “?ét đại đồng
” của Nho giáo... Sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa Mác — Lênin lý tưởng về một xã hội nhân đạo
trong đó ““sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người
”. Khi đến nước Nga, Người đã thây “Chính sách kinh tế mới ” của Lênin và những
thành tựu bước đầu của nhân dân Xô Viết trên con đường xây dựng một chế độ xã
hội mới.
Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải
phóng dân tộc. Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của Mác
con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng lồi
người. Người đã viết: “.. chỉ có chủ ngHĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp cơng nhân tồn thế giới”
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh “Khơng có chế độ nào tơn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá
nhân đúng đắn và bảo đâm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa ". Từ
đó, Người tin tưởng cơ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách
mạng đề góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xát đựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng
lồi người ”.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội tử truyền thống lịch sử, văn hóa và con
người Việt Nam.

8


Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan
dung, hòa mục đề hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí thức, hiến tài.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân văn

và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt
văn hóa và giải phóng con người.
2. Mối quan hệ gắn liền giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội xuyên
suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1 Giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội
Giành độc lập dân tộc đề đi lên chủ nghĩa xã hội, điều này khác với các bậc tiền
bối yêu nước trước đó, họ mới chỉ đề cập đến việc giành độc lập dân tộc mà chưa
gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội, với chủ nghĩa xã hội.
Đề có độc lập thật sự cho dân tộc, tự do, hạnh phúc hồn tồn cho nhân dân khơng
có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản, là một trong
những “cái cánh” của cách mạng vơ sản. Gắn cách mạng giải phóng dân tộc của Việt
Nam với cách mạng thế giới, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa cách mạng
giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội được mở đầu từ cách mạng tháng Mười
Nga (1917).
Hồ Chí Minh giành độc lập dân tộc và tiến lên xã hội chủ nghĩa khơng vì lý do gì
khác ngồi khát khao làm cho nhân dân được ấm no, trẻ em được cắp sách tới
trường.
2.2 Xây dựng chủ nghĩa xã hội là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển độc
lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội,
còn chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc, dân
chủ, là mục tiêu của cách mạng Việt Nam
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân chủ được tiến hành
triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho nền độc lập dân tộc được giữ
vững và ngày càng củng cố, phát triển.

9



Với các thiết chế kinh tế, chính trị và nền tảng tinh thần riêng, chủ nghĩa xã hội có
khả năng vận động phát triển liên tục, bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của
nhân dân và nên độc lập của dân tộc.
Hồ chí minh đã thực hiện việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên tất cả các mặt: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
2.3 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lưi xun
suốt tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thẻ hiện sự nhất quán trong tư duy lý
luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thanh người cộng sản cho
đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mỗi quan tâm hàng đầu của Hồ Chí
Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là:
chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những
luận điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị
lâu đài chỉ đạo đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát
triển lý luận về cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi
giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp
phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích,
lý tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hố Hồ Chí Minh: nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự đo, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của
con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất tất

cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày
nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng
10


chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa
của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản quốc gia trường thọ),
sinh thời Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn ln có
tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói: “ Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân” Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách
thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền
cũng là nước mà lật thuyền cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì
độc lập dân tộc cịn. Chủ trương diệt giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ
bản chính là nền tảng của việc chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật
chất cũng như tinh thần. Và suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân
được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập vốn mang lại những điều
tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, khơng những nâng cao đời sống nhân dân vừa là mục
tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh thần mà Hồ
Chí Minh đã nêu rõ. Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải
phát huy chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự
lực tự cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống u nước, tinh thần
đồn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô
lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ
trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện
Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng MN thống nhất đất nước, đưa cả nước
quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền thống quý báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính
3. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong quá trình cách mạng Việt Nam

Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng
để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ
bản sau đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam
11


không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ
đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản
đánh mất vai trị lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản
bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu
những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên
các mặt chủ yếu sau đây:
-

Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát

triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
-

Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ
cán bộ, đảng viên của mình.
-


Thơng qua cơng tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công

tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo tồn dân giành độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hồn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch,
vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây
dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó cơng tác cán bộ bao
giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nơng
dân và trí thức làm nền tảng khối đại đồn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình
thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức
sáng tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai
tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội Người địi hỏi cơng nơng trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp
trong Mặt trận dân tộc thống nhất.

12


Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã
hội chủ nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt
trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh cơng
- nơng và trí thức để đồn kết tồn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối
quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ
hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt

Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh ln có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù
hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hồ bình dân chủ
trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm
chống Pháp, chống Mỹ, trong thời kỳ hồ bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều
không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài
học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm
mãi”(5).
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.
Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm,
trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

13


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu
của dân tộc Việt Nam. Bởi vì đó là quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, sớm hay
muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội, khơng ai có thể ngăn cản nơi.
Điều này khơng những đúng đối với Việt Nam mà cịn đúng với thế giới. Hồ Chí
Minh bơn ba nước ngồi để đem lại cho nhân dân Việt Nam nền độc lập, tự do hạnh
phúc cùng với hệ tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã xuyên
suốt sự nghiệp cách mạng của Người. Tư tưởng này cịn là tất yếu khi nó gắn với các
điều kiện đảm bảo và nằm ngay trong yếu tố chủ quan của chính sự hoạt động củ hệ
thống chính trị, trong đó quan trọng nhất là phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Do đó trở thành yếu tố then chốt bảo đảm cho dân tộc Việt Nam
phát triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo đảm và giữ vững ngọn cờ chiến lược độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

14


PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, xuất bản lần
thứ 3, t.9, tr.30.
(2)

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.304.

(3)

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr 312

(4)

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.3, tr.1.

(5)

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.11, tr.372.

15



×