Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

PHÂN TÍCH QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA ý THỨC TRONG THỰC TIỄN VÀ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN đổi MỚI ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.42 KB, 20 trang )

lOMoARcPSD|11558541

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN
______________________________________________________________________________

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ
QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:

PHÂN TÍCH QUAN NIỆM CỦA CHỦ

NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý THỨC VÀ VAI
TRÒ CỦA Ý THỨC TRONG THỰC TIỄN VÀ LIÊN HỆ
VỚI THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MÔN:

TRIẾT HỌC MÁC

– LÊ NIN

HỌC VIÊN:

TRẦN THỊ NGỌC LINH

MÃ SINH VIÊN:

11202306



LỚP: TRIẾT HỌC MÁC

– LÊNIN _(120)_10 KHÓA

62

0

HÀ NỘI

– 2020


lOMoARcPSD|11558541

PHẦN MỞ ĐẦU

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó
là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng
con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc
biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin). Tác động của
ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó khơng những là kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành cơng hay
thất bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát
triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà
biểu hiện ra là vai trị của khoa học văn hố và tư tưỏng.
Vì vậy, em chọn đề tài “ Phân tích quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về ý thức và vai trò của ý thức trong thực tiễn và liên hệ với thực tiễn
đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.

Bài tiểu luận của em đã hoàn thành, song do mới tiếp cận với triết học,
cũng như năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên khó có thể tránh được những
thiếu sót nhất định; rất mong nhận được ý kiến đánh giá từ giáo viên hướng
dẫn Phạm Văn Sinh để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân
thành cảm ơn.

1


lOMoARcPSD|11558541

PHẦN NỘI DUNG

I.

QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ Ý
THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC

1. Ý THỨC LÀ GÌ? NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, THUỘC TÍNH VÀ KẾT
CẤU CỦA Ý THỨC

Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được nhiều trường phái triết
học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên tùy theo các cách lý giải khác nhau
mà đã xuất hiện những quan niệm rất khác nhau và từ đó trở thành cơ sở để
hình thành các trường phái triết học khác nhau. Trong đó, hai đường lối cơ
bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà cốt lõi
là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng, triết học Mác – Lênin đã
góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý thức cùng với mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức.

Theo định nghĩa của triết học Mác – Lênin, ý thức là một phạm trù song
song, được quyết định với phạm trù vật chất, có mối quan hệ hữu cơ với
vật chất, và theo đó ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới vật
chất khách quan vào bộ óc con người. Ý thức dùng để chỉ toàn bộ đời sống
tinh thần của con người, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như tri thức, tình
cảm và trong đó nhân tố căn bản nhất theo lí luận triết học Mác là tri thức.
1.1. Nguồn gốc của ý thức
a. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước
Mác
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, khi lý giải về nguồn gốc ra
đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm quan niệm ý thức là nguyên thể
đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại và
biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có thể được chia thành hai khuynh hướng lớn:
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuyệt đối hóa vai trị của
cảm giác, cùng lúc phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và khẳng
2


lOMoARcPSD|11558541

định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân,
của chủ thể. Một số triết gia tiêu biểu của khuynh hướng này có thể kể đến
George Berkeley với luận điểm “tồn tại là cảm nhận được”, sự vật chỉ là sự
tổng hợp của những biểu tượng và được bao gói trong một cái tên, sự vật
cũng mất đi khi cảm giác về nó khơng còn nữa; hay David Hume với khẳng
định rằng tất cả những nội dung của ý thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm
giác quan.
Trong khi đó, chủ nghĩa duy tâm khách quan lại tuyệt đối hóa vai trị
của lý tính, khẳng định thế giới “ý niệm”, hay “ý niệm tuyệt đối” là bản thể

tồn tại khách quan bên ngoài con người, sinh ra toàn bộ thế giới hiện thực.
Plato và G.Hegel là hai trong số những đại diện tiêu biểu nhất của chủ
nghĩa duy tâm khách quan. Theo Plato, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh
hướng duy lý trong triết học Hy Lạp cổ đại, đã xem nhẹ vai trò của nhận
thức cảm tính và đồng thời tuyệt đối hóa vai trị của nhận thức lý tính.
Cũng từ đó mà ơng chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm
và thế giới của những sự vật cảm tính. Theo ông, thế giới của những ý niệm
là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến và nó là cơ sở tồn tại của
thế giới của các sự vật cảm tính. Cịn thế giới của các sự vật cảm tính (hay
giới tự nhiên) là tồn tại khơng chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý
niệm, là cái bóng của ý niệm. Đồng thời, ơng cũng cho rằng để nhận thức
được chân lý, người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính, “hồi tưởng”
lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được trong giới ý niệm. Quan
điểm của Hegel thì cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật
chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới” và ý niệm tuyệt đối
tồn tại vĩnh viễn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, đối lập với các
quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình lại tuyệt đối
hóa yếu tố vật chất, đồng nhất vật chất và ý thức, coi ý thức cũng chỉ là một
dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra ,“óc tiết ra ý thức cũng như
gan tiết ra mật”. Họ coi thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ
mà mỗi bộ phận tạo nên nói ln ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại và nếu có
biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do nguyên
nhân ngoại sinh gây ra.
Điển hình của chủ nghĩa duy vật siêu hình có thể kể đến hệ thống các
quan điểm của d’Holbach, Denis Diderot hay Ludwig Feuerbach,... Thế
giới quan của Holbach được dựng nên từ nền tảng vật chất và ông đã chỉ ra
3



lOMoARcPSD|11558541

rằng thế giới này khơng gì khác hơn đó là thế giới vật chất. Trong tác phẩm
Hệ thống tự nhiên hay là quy luật của thế giới vật lý và của thế giới tinh
thần, ông đã khẳng định “Thế giới, đó là sự kết hợp kỳ diệu của tất cả
những vật đang tồn tại, bất cứ chỗ nào chúng ta cũng chỉ thấy vật chất
và chuyển động; trước mặt chúng ta tồn thế giới chỉ là một sợi dây
chuyền vơ tận và liên tục của nguyên nhân và kết quả”. Diderot cũng cho
thấy tính duy vật triệt để khi quả quyết rằng thế giới là vật chất tồn tại
khách quan trong trạng thái thường xuyên vận động và vì thế khởi điểm
của thế giới là phải bắt đầu từ vật chất. Đối với nhà triết học này, tất cả sự
vật hiện tượng trong thế giới đều có chung nguồn gốc vật chất, “cảm giác
là đặc tính chung của vật chất hay là sản phẩm của tính tổ chức của vật
chất”. Quan điểm của Feuerbach cho rằng bản chất của thế giới là vật chất,
giới tự nhiên không hề phụ thuộc vào con người, nằm ngồi tầm kiểm sốt
của con người, không do một ai sáng tạo ra và không ai có thể tiêu diệt
được. Bên cạnh đó ơng cũng tuyệt đối hóa mọi mặt sinh học của con người,
khơng thấy mặt xã hội của con người.
Chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình đều thuộc lớp bản
thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên, cho rằng
tất cả thế giới đều thuộc về một bản chất, nguyên lý, chất hay năng lượng,
tất cả đều có một khởi nguyên. Mặc dù có những ý nghĩa và vai trị nhất
định, chúng đều có những quan niệm phiến diện, sai lầm và hạn chế, không
thể đạt đến chân lý của sự nhận thức, thiếu cơ sở giải quyết các vấn đề thực
tiễn xã hội.
b. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Karl Marx đã đưa ra khẳng định của quan điểm duy vật biện chứng
về ý thức: “ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong
đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó.”
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, có thể khái quát

ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con
người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan. Trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người,
từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách
quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới
khách quan.
4


lOMoARcPSD|11558541

Nhân tố chủ yếu đầu tiên tạo nên nguồn gốc tự nhiên của ý thức
chính là bộ não người. Chú nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là
hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh
cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi
bộ óc con người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của q trình tiến hố
lâu dài về mặt sinh vật - xã hội của thế giới vật chất, có cấu trúc đặc biệt
phát triển, rất tinh vi và phức tạp, nặng trung bình 1.7 kg, bao gồm 14 -15
tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên
hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thơng tin từ thế giới khách quan
vào não bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện và khơng có điều kiện,
điều khiển các hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
Nhân tố chủ yếu thứ hai tạo nên nguồn gốc tự nhiên của ý thức là
mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện tượng
phản ánh năng động, sáng tạo. Cũng theo chủ nghĩa Mác-Lê nin, hoạt động
ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi
bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ
có bộ óc người mà khơng có sự tác động của thế giới bên ngồi để bộ óc

phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng thể có ý thức. Phản ánh là năng
lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ
thống vật chất khác trong quá trình trao đổi qua lại của chúng. Phản ánh là
thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, song phản ánh được
thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hố học; phản ánh sinh học;
phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (tức phản ánh ý thức).
Những hình thức này tương ứng với q trình tiến hố của vật chất tự
nhiên.
Phản ánh vật lý, hố học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật
chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ,
lý, hố (thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý – hố qua q trình kết hợp,
phân giải các chất) khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật
chất vơ sinh. Ví dụ như mặt nước, mặt gương phản chiếu ánh sáng (sự phản
ánh này mang tính đơn giản, khơng phân biệt, khơng lựa chọn). Hình thức
phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật
nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho
giới tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên
5


lOMoARcPSD|11558541

hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm
ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc
thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu
sắc, thay đổi cấu trúc,... khi nhận sự tác động trong môi trường sống.
Chẳng hạn như hoa hướng dương biết hướng về phía mặt trời để hấp thụ
được nhiều năng lượng, rễ cây phát triển mạnh về hướng có nhiều dinh
dưỡng (sự phản ánh đã có lựa chọn).Tính cảm ứng là phản ứng của động

vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều
khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ khơng điều kiện, khi có
sự tác động từ bên ngồi mơi trường lên cơ thể sống. Ví dụ như mèo xù
lơng, co mình khi cảm thấy trời lạnh.
Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát
triển đến trình độ có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ
chế phản xạ có điều kiện đối với những tác động của mơi trường sống.
Chẳng hạn như con người có tâm lý đau buồn khi người thân yêu mất.
Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo chỉ có ở
con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thơng tin, xử lý
thơng tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thơng tin. Ví
dụ như tác phẩm Tây Du Ký là một tác phẩm hư cấu với những nhân vật hư
cấu, tình tiết hư cấu nhưng được viết dựa trên một câu chuyện có thật về
một vị sư đã trải qua quãng đường đầy gian truân để thỉnh kinh, truyền dạy
cho người trong quốc gia. Hình tượng năm thầy trị là sự sáng tạo dựa trên
những nét tính cách có thật của con người.
Tuy vậy, sự ra đời của ý thức khơng phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên
mà còn do nguồn gốc xã hội. Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra
tiền đề vật chất có năng lực phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức.
Hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định
sự ra đời của ý thức. Con người, nhờ có lao động mới làm nảy sinh ra
những quan hệ xã hội, mà trước hết là quan hệ trong sản xuất. Từ những
quan hệ này làm nảy sinh ra ngôn ngữ. C.Mác và Ph. Ăngghen xũng đã
nhiều lần chỉ rõ rằng, ý thức không những có nguồn gốc tự nhiên mà cịn
có nguồn gốc xã hội và là một hiện tượng mang bản chất xã hội.
Hai nhân tố cơ bản và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của
ý thức là lao động và ngôn ngữ.

6



lOMoARcPSD|11558541

Ý thức không chỉ là sự phản ánh tái tạo đơn thuần mà chủ yếu là sự
phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Thông qua các hoạt động thực
tiễn, những sáng tạo trong tư duy được con người hiện thực hố, cho ra đời
nhiều vật phẩm chưa có trong tự nhiên. Đó là “giới tự nhiên thứ hai” in
đậm dấu ấn của bàn tay và khối óc con người. Bản thân là phương thức tồn
tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu
cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã hội. Từ
nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngơn ngữ trong bộ óc con người
được hình thành và hồn thiện dần. Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con
người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao
động và cùng phắt triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng
về nguồn gốc của ngơn ngữ”.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý thức. Nó
xuất hiện trở thành “vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trục tiếp của ý
thức; là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch
sử. Cùng với lao động, ngơn ngữ có vai trị to lớn đối với sự tồn tại và phát
triển của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao
tiếp, đồng thời vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngơn ngữ con người có thể
khái qt, trừu tượng hoá, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính.
Cũng nhờ có ngơn ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đổi tư tưởng, lưu
giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội đã tích luỹ
được qua nhiều thế hệ cũng như thời kỳ lịch sử. Lao động và ngơn ngữ là
hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của lồi vượn người
thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức ta nhận
thấy, ý thức xuất hiện là kết quả của q trình tiến hố lâu dài của giới tự
nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội

- lịch sử của con người. Trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn
nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
Hoạt động thực tiễn phong phú của lồi người chính là mơi trường để ý
thức hình thành, phát triển và khẳng định sức mạnh sáng tạo của nó.
1.2. Bản chất và thuộc tính của ý thức
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực
thể độc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý

7


lOMoARcPSD|11558541

thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của
vật chất.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu hình lại đi tới tầm thường hóa vai trị
của ý thức, coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là
sự phán ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội
vốn rất phong phú, sinh động. Những quan niệm sai lầm đó đã không cho
phép con người hiểu được bản chất của ý thức, cũng như biện chứng của
quá trình phản ánh ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não con người thông qua thực tiễn, nên:
Thứ nhất, bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc
người.Cũng chính vì vậy mà ý thức có thuộc tính phụ thuộc vào vật chất
khách quan và cũng đồng thời mang thuộc tính ảo (hay phi cảm giác). Từ
đặc trưng phụ thuộc vào thế giới khách quan của ý thức cho thấy để tìm
được nguồn gốc của ý thức phải tìm đến hiện thực khách quan nào. Cũng
vì vậy mà V.I. Lê-nin đã nhận định rằng ý thức là hình ảnh chủ quan

nhưng là của thế giới khách quan (hay nó có nguồn gốc khách quan và
phản ánh khách quan). Đồng thời, ý thức mang thuộc tính ảo (hay thuộc
tính phi cảm giác). Vì vậy mà để tồn tại trong đời sống thực tế, nó phải
mượn hình thái vật chất nào đó để biểu hiện, gọi là ngơn ngữ.
Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có
nghĩa là ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới. Vì vậy mà ý
thức mang thuộc tính sáng tạo (hay tạo ra cái mới). Sáng tạo là thuộc tính
đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Tính năng động, sáng tạo của sự phản
ánh thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc
định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ
thông tin và trên cơ sở những thơng tin đã có, nó có thể tạo ra những thông
tin mới và phát hiện ý nghĩa của thơng tin được tiếp nhận. Tính chất năng
động, sáng tạo của sự phản ánh còn được thể hiện ở quá trình con người tạo
ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại,... trong đời sống tinh thần của
mình hoặc khái quát bản chất quy luật khách quan, xây dựng các mơ hình
tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Sức sáng tạo của ý
thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác
nhau về bản chất nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực

8


lOMoARcPSD|11558541

sáng tạo, khẳng định sức mạnh của còn người trong nhận thức và cải tạo
thế giới.
Thứ hai, ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội, vì
thế mà đồng thời, tính xã hội là một trong những thuộc tính của ý thức. Sự
ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối của không chỉ các quy luật tự nhiên mà còn (và chủ yếu là) các quy

luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng
tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
1.3. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết cấu phức tạp. Để có
thể hiểu rõ hơn về kết cấu của ý thức, ta cần tiếp cận nghiên cứu nó theo
nhiều hướng, cụ thể là theo yếu tố hợp thành (theo chiều ngang) và theo
chiều sâu của nội tâm (theo chiều dọc).
a. Các lớp cấu trúc của ý thức
Theo chiều ngang, ý thức bao gồm những yếu tổ cơ bản nhất là: tri
thức, tình cảm và ý chí. Trong đó, tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
Tri thức (sự hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội) là kết quả
quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, tái hiện trong tư
duy những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
bằng ngôn ngữ. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện
để ý thức phát triển. “Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một
cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức. Tri thức là hành vi duy nhất của ý
thức. Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức chừng nào ý thức
biết cái đó”. Tri thức có nhiều loại (về tự nhiên, xã hội, con người), nhiều
cấp độ (tri thức thường như cảm tính, kinh nghiệm, tiền khoa học; tri thức
khoa học như lý tính, lý luận và khoa học).
Tình cảm (tâm trạng, ước vọng, ý chí, nghị lực,...) là những rung
động biểu hiện thái độ của con người đối với nhau, với thực tại xung quanh
và đối với chính bản thân mình. Là hình thức đặc biệt của sự phản ánh thực
tại (giữa con người với nhau và giữa con người với thế giới khách quan);
tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người; là yếu tố quan trọng
để điều chỉnh các hoạt động đó. Tình cảm có tính chủ động và tính thụ
động. Có nhiều hình thức tình cảm, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm
9



lOMoARcPSD|11558541

mỹ, tình cảm tơn giáo,... Khi kết hợp với tri thức, tình cảm tạo nên niềm
tin.
Ý chí là khả năng huy động tối cao sức mạnh tinh thần của con
người. Nhờ có ý chí, con người tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để
khắc phục những cản trở trong q trình hiện thực hóa mục đích. Có thể coi
ý chí sự điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người để tự giác hướng tới
mục đích; tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo niềm
tin. “Ý thức, ý chí, nhiệt tình và trí tưởng tượng của hàng chục triệu người
được cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất khích lệ” (V.I Lê-nin).
b. Các cấp độ của ý thức
Theo chiều dọc, ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức và tiềm thức. Tất
cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định
tính phong phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người.
Tự ý thức là nhận thức về bản thân thông qua quan hệ với thế giới
bên ngồi nhờ đó, con người nhận thức về mình là một thực thể đang tồn
tại, hoạt động có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức phù hợp với
quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đặt ra. Trình độ tự ý thức nói lên trình độ
phát triển của nhân cách, làm chủ bản thân của con người
Vô thức (xuất hiện do bản năng và do rèn luyện) là những trạng thái
tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí, khơng do ý thức kiểm sốt được trong
một lúc nào đấy. Trong đời sống hàng ngày, có những hành vi, thái độ ứng
xử của con người chưa có sự điều khiển của ý thức và thường được biểu
hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng, thơi miên, giấc mơ,
nhỡ lời, nói nhịu v.v. Các hiện tượng này đều nằm trong chức năng chung
là giải toả những ức chế của hoạt động thần kinh, góp phần lập lại thế cân
bằng trong hoạt động tinh thần của con người.
Tiềm thức là những tri thức mà con người đã có được từ trước và trở

thành bản năng, kỹ năng nhưng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức
dưới dạng tiềm ẩn, do đó tiềm thức có thể gây ra các hoạt động tâm lý,
nhận thức mà con người khơng cần kiểm sốt chúng một cách trực tiếp.
Tiềm thức có vai trị quan trọng trong hoạt động tâm lý hàng ngày và trong
tư duy khoa học (trong hoạt động tâm lý; trong hoạt động khoa học góp
phần làm giảm sự quá tải của não trong việc xử lý tài liệu, thông tin, dữ
kiện v.v).
10


lOMoARcPSD|11558541

Các yếu tố cơ bản trên của ý thức có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau, nhưng tri thức là yếu tố quan trọng nhất của ý thức; tri thức
không chỉ là phương thức tồn tại của ý thức, mà còn định hướng sự phát
triển và quy định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác cấu thành ý thức.

2. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC TRONG THỰC TIỄN
Như đã nói ở trên, ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết
cấu phức tạp bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ biện chứng với nhau, song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, đồng
thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu
hiện của các yếu tố khác.
Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri
thức là nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình
thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với qúa trình con
người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng
nhiều tri thức thì ý thức càng cao, càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo
thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên.
Nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có nghĩa là

chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí.
Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ
quan. Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại
nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người hoạt đọng
thì tự nó khơng có vai trị gì đối với đời sống hiện thực . Ý thức bao gồm
những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong sự liên hệ tác
động qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng
tới tri thức.
Như vậy, trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não
con người thơng qua lao động mà ngơn ngữ. Nó là tồn bộ hoạt động tinh
thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng, cảm súc, ý chí,
tập quán, truyền thống, thói quen, quan điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối,
chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng.Các yếu tố tinh
thần trên đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ. Chẳng hạn như nếu
tâm trạng của người cơng nhân mà khơng tốt thì làm giảm năng suất của
11


lOMoARcPSD|11558541

một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Hay nếu khơng có đường lối cách
mạng đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng khơng thể giảng thắng lơị
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như LêNin đã nói
“Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách
mạng”.
Như vậy ý thức khơng hồn tồn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức
có tính độc lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác
động trở lại. Vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt

động thực tiễn của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy
hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy
luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới quan. Ví dụ như khi
hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 1000 0C thì con người tạo
ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ
chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa. Hay từ
nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước, từ đại hội VI, đảng ta
chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường,
nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.
Người có thế giới quan khoa học (thế giới quan phản ánh một cách đúng
đắn, chân thực hiện thực khách quan bên ngồi) là người có tình cảm cao
đẹp, sâu sắc, đúng đắn, lành mạnh, có lý trí, khơng để tình cảm lấn át; có tri
thức đúng đắn, có niềm tin sâu sắc vào tương lai tốt đẹp của xã hội - xã hội
chủ nghĩa; có lý tưởng cao đẹp, trong sáng. Thế giới quan khoa học có vai
trị đặc biệt quan trọng với cuộc sống con người, giúp con người có cái
nhìn sâu hơn vào hiện thực, hiểu rõ các quy luật trong cuộc sống và có
phương hướng giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tiễn đặt ra bởi khi đó
con người sẽ dựa vào những tri thức và những kiến thức khoa học để lập ra
những mực tiêu ,những kế hoạch hoạt động đúng đắn để cải tạo thế giớ vật
chất, thúc đẩy xã hội ngày một phát triển hơn.
Mặt khác, ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể
kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới
quan. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ rơi vào bệnh chủ quan (duy ý chí).
Chẳng hạn như một dự án được đề ra nhưng thiếu khảo sát thực tế sẽ khơng
thể được thực hiện thành cơng vì khơng thể áp dụng vào thực tiễn.
Từ đó, có thể đưa ra kết luận, bằng việc định hướng hoạt động của
con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động

12

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay
không hiệu quả. Bên cạnh đó, qua phân tích về nguồn gốc, bản chất, vai trò
của ý thức, ta cũng khẳng định được rằng: vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định nội dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên
quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất,
sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn
(hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động
này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý
thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những
điều kiện vật chất, hồn cảnh vật chất, trong đó có con người hành động
theo định hướng của ý thức.

II.

VAI TRÒ CỦA Ý THỨC ĐỐI VỚI THỰC TIỄN ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Có thể nói ý thức có vai trị rất quan trọng đối với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam
hiện nay trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là vai trò của tri thức
khoa học đã góp phần khơng nhỏ trong cơng cuộc đổi mới xã hội Việt Nam theo hướng
tích cực hơn về nhiều mặt.
Ở đây, tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng
nó (hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã

hội. Tri thức đã và đang ngày càng trở nên quan trọng đối với đời sống xã hội các nước
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực
của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hố giáo dục...
Nền kinh tế vật chất, dựa chủ yếu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp, lấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất, chế biến, phân phối, sử
dụng sản phẩm vật chất để làm nền tảng, đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức,
trong đó việc sản xuất, truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh
tế. Các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực tiếp sản xuất
của cải vật chất mà trong khu vực khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Vai trò của tài nguyên
thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm so với tiềm năng trí tuệ, tinh
thần, văn hóa.
Trong xu thế tồn cầu hóa đi đơi với cạnh tranh quyết liệt, nền kinh tế tri thức
tạo nhiều thuận lợi cho các nước đi sau, trong đó có Việt Nam có thể dựa vào tiềm
năng chất xám (tri thức) để nhanh chóng đuổi kịp các nước khác, song cũng hàm chứa
nhiều rủi ro và khó khăn, thách thức.
13

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

Kinh tế tri thức là một trình độ phát triển cao của nền kinh tế, phát triển dựa trên
cơ sở lấy trí lực làm nguồn tài nguyên chủ yếu. Khoa học công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành công nghệ cao trở thành ngành nghề sản xuất quan
trọng hàng đầu trong nền kinh tế tri thức.
Thực tế đã cho thấy, xu hướng dịch chuyển kinh tế hiện nay đang là mỗi khi các
nước ở nhóm đi trước nâng trình độ sản xuất và dịng sản phẩm tiêu biểu lên một mức,
dòng sản phẩm tiêu biểu cũ sẽ được chuyển dịch tới các nước đi ngay sau. Vì nằm ở
nhóm sau cùng trong mối quan hệ này, Việt Nam hiện đang chủ yếu làm công nghiệp

chế biến và gia cơng, với ít hàm lượng tri thức. Và nếu khơng có cách thay đổi cái lược
đồ dịch chuyển này, ta sẽ chỉ luôn làm được việc người khác khơng làm nữa khi họ
chuyển qua các việc có lợi nhuận kinh tế cao hơn do có nhiều hiểu biết hơn. Sự dịch
chuyển này dễ làm cho các nước đi sau trong đó có ta sẽ ln đi sau với tiềm ẩn nguy
cơ ngày càng tụt hậu. Có thể nói một cách tổng quát rằng sự khác biệt giữa các quốc
gia đã và sẽ chính là sự khác biệt về hiểu biết, và thách thức lớn nhất của chúng ta
chính là thách thức để vượt qua sự khác biệt này. Có nhiều lý do cho thấy việc có và
dùng hiệu quả tri thức trong các hoạt động kinh tế và xã hội là con đường chúng ta cần
đi. Vì nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể là vô hạn để có thể khai thác và bán mãi,
vì phát triển khơng thể bền vững nếu dựa quá nhiều vào nhập khẩu cơng nghệ và sản
phẩm của thiên hạ, vì khơng thể vượt ra khỏi nhóm đi sau hay đi cuối nếu ta khơng tìm
được cách để làm những việc khác ngồi gia công và chế biến, hay đào mỏ, chặt rừng,
bắt cá. Tất nhiên làm sao để xây dựng nền kinh tế tri thức là câu hỏi của cả đất nước.
Nhưng nếu muốn làm kinh tế tri thức, cần xem đâu là những thách thức của ta, chẳng
hạn những gì là nền tảng của một nền kinh tế tri thức và ta đã có bao nhiêu?
Ngân hàng Thế giới cho rằng các nền kinh tế tri thức cần dựa trên bốn trụ cột
sau:
Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri
thức: Một mơi trường và thể chế theo luật, cho phép dịng chảy tự do của tri thức, hỗ
trợ đầu tư cho cơng nghệ thơng tin và truyền thơng, khuyến khích việc làm chủ
doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức.
Giáo dục và đào tạo: Có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào
tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.
Hệ thống cách tân: Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ
chức chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để
thu nhận được kho tri thức tồn cầu ln khơng ngừng tăng, truyền bá và thích ứng
chúng cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
14

Downloaded by quang tran ()



lOMoARcPSD|11558541

Hạ tầng cơ sở thông tin: Một hạ tầng cơ sở thông tin động, từ radio đến
Internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thơng tin.
Mặc dù cịn những tranh luận, giả sử ta thừa nhận bốn trụ cột này để xem ta
sẽ gặp những thách thức nào khi phải xây dựng chúng. Tạo ra được một môi trường
kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức trước hết là việc
của chính quyền và bộ máy lập pháp. Một thách thức là làm sao để nâng cao được
dân trí tồn xã hội. Khi dân trí được nâng cao, người dân sẽ có thêm động lực và khả
năng tìm kiếm dịng chảy tri thức, hoạt động sáng tạo cũng như tăng xu hướng làm
chủ doanh nghiệp. Vì những cán bộ của bộ máy chính quyền và địa phương là
những cơng dân có ảnh hưởng nhiều hơn đến môi trường kinh tế và thể chế xã hội,
việc nâng cao được quan trí, như dân gian thường nói, là một điều hệ trọng. Giáo
dục và đào tạo là chuyện sống còn của đất nước. Đương nhiên nếu giáo dục
không làm được sứ mạng đào tạo được những người có tinh thần và khả năng sáng
tạo, sẽ khơng có cách nào tiến đến kinh tế tri thức. Nói riêng về đào tạo người lao
động có tri thức trong cơng nghiệp, nhìn theo năm nhóm ngành, A: Hàm lượng lao
động cao và làm việc giản đơn như may mặc, giày dép...; B: Hàm lượng lao động
cao và sử dụng nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp như chế biến thực phẩm; C: Hàm
lượng tư bản cao và sử dụng tài ngun khống sản như thép, hóa dầu...; D: Hàm
lượng lao động cao và lành nghề, làm các sản phẩm như đồ điện gia dụng, xe máy,
bơm nước, linh kiện điện tử...; E: Hàm lượng công nghệ cao và làm máy tính, cơng
nghệ thơng tin và truyền thơng, xe hơi, đồ điện tử cao cấp... Ở Đông Á, Trung Quốc
tập trung vào A và lắp ráp trong D; Thái Lan và các nước Đơng Nam Á 4 có lợi thế
trong B và D; Nhật Bản và các nước NIEs giữ lợi thế ở D và đang tăng phần sản
xuất bên ngoài nên Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á đang dịch chuyển về
D. Việt Nam đang chủ yếu làm A và B. Rõ ràng muốn chuyển dịch qua các nhóm
ngành khác như C, D, và E, chúng ta phải đối mặt với bài tốn đào tạo người lao

động có tri thức cao hơn, làm được những việc ở các nhóm ngành này.
Cơng nghệ thơng tin và truyền thơng là hạ tầng cơ sở để thực hiện hầu hết các
hoạt động của kinh tế tri thức, là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ cho ba trụ cột nêu ở
trên về giáo dục và đào tạo, hệ thống cách tân, môi trường kinh tế và thể chế xã hội
thuận lợi cho việc sáng tạo và sử dụng tri thức. Thách thức trong việc xây dựng hạ
tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông là chuyện thời sự của ta hiện nay khi
Nhà nước đang đặt mục tiêu tăng tốc để trở thành một nước mạnh về công nghệ
thông tin và truyền thông.
Để thấy được sự ảnh hưởng của công nghệ thông tin và truyền thông đối với
nền kinh tế tri thức cũng như thách thức đặt ra trong việc đưa công nghệ thông tin và

15

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

truyền thông vào hỗ trợ những hoạt động kinh tế như vậy, có thể xem xét các ví dụ
sau đây:
Thí dụ thứ nhất về ngành du lịch. Không phải mọi người liên quan đến làm du
lịch của ta đều biết rằng ngày nay các du khách nước ngoài sau mỗi chuyến đi
thường viết những nhận xét để trên Web cho mọi người tham khảo, và mỗi người
trước khi quyết định đi đâu ở đâu đều tìm xem nhận xét của người khác. Những
chuyện tưởng nhỏ như cái hay điều dở tại một thắng cảnh, tại một khách sạn xa xôi
ở Việt Nam đều được lên mạng. Những chuyện như đi suốt buổi khơng tìm ra nhà vệ
sinh, như giá cao phục vụ dở, hơn 70% du khách được hỏi đã nói khơng muốn quay
lại Việt Nam,... dễ dàng được biết qua Internet, và có thể làm một lượng lớn du
khách thay vì chọn Việt Nam, sẽ chọn Thái Lan, nơi ngành du lịch thường nhận
được những đánh giá tốt trên mạng.

Thí dụ thứ hai là về cơng nghệ thơng tin và truyền thông hỗ trợ con người
vượt qua rào cản ngơn ngữ để tăng hiểu biết. Tri thức lồi người được diễn đạt theo
các ngôn ngữ khác nhau. May thay những chương trình dịch tự động tiếng nói và
chữ viết, tuy chất lượng chưa thật cao nhưng đang được cải thiện rất nhanh do tiến
bộ của công nghệ thông tin, đã cho phép con người ở một mực độ chấp nhận được
trong rất nhiều công việc, đọc được các tài liệu hay các trang Web viết trong ngôn
ngữ khác, nghe hiểu được tiếng nói trong ngơn ngữ khác. Có được những hỗ trợ này
để người Việt hiểu được tiếng nói và chữ viết trong nhiều ngôn ngữ khác cũng là
một thách thức của công nghệ thông tin và truyền thông trong nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là con đường ta cần đi và đi càng sớm càng tốt. Có những
nghiên cứu chỉ ra kinh tế tri thức đã xuất hiện ở Việt Nam qua sự phát triển công
nghệ thông tin. Theo đuổi khoa học hiện đại và công nghệ cao là một cách ta cần
làm trong kinh tế tri thức, nhưng không phải duy nhất. Để một đất nước cịn hạn chế
về khoa học và cơng nghệ như ta có được sản phẩm cơng nghệ cao cạnh tranh với
thế giới là vô cùng gian truân. Nếu không biết và đặt mục tiêu khơng thích hợp, ta
dễ rơi vào tình huống “người đi chân đất muốn đóng giày bán cho thiên hạ”.

16

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

KẾT LUẬN
Tóm lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả
năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ
có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà
phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức
mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý

thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ
chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó
có con người hành động theo định hướng của ý thức. Trong thời kì đổi mới của
nước ta khi chuyển nền từ tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt
Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan. Với chủ trương này chúng ta đã giành được một số thắng
lợi to lớn tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu hành động. Đề ra
chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó mới là một vấn đề thực sự
khó khăn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
[1].

Bộ giáo dục và đào tạo,Giáo trình triết học Mác – Lênin.
17

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

[2].

C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

[3].

Cơng cụ tìm kiếm : www.google.com.vn


18

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

19

Downloaded by quang tran ()



×