Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bài tập nhóm 4 quan niệm của angghen về phân kỳ lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.03 KB, 4 trang )

BÀI TẬP NHÓM 4:
QUAN NIỆM CỦA ĂNG GHEN VỀ PHÂN KỲ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
I. Khái niệm về phân kỳ lịch sử triết học.
Phân kỳ lịch sử triết học tức là xác định những mốc quan trọng trong sự
phát triển của triết học gắn liền với quá trình hình thành, phát sinh, phát triển
của các học thuyết triết học trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng.
II. Việc phân kỳ lịch sử triết học dựa trên cơ sở nào?
Việc phân kỳ lịch sử triết học dựa vào:
- Học thuyết hình thái kinh tế xã hội;
- Đặc điểm của các vùng, các dân tộc sản sinh ra Triết học;
- Tính độc lập tương đối của Triết học;
- Bản chất của các học thuyết triết học tạo ra được những cột mốc lớn lao
trong sự phát triển của triết học.
III. Phân kỳ lịch sử triết học.
Dựa trên các cơ sở nêu trên việc phân kỳ lịch sử triết học có thể phân chia
như sau:
1. Triết học Phương Đông cổ trung đại
2. Triết học Phương Tây cổ – trung – cận – hiện đại
3. Triết học Mác Lê nin
Hoặc dựa vào hình thái kinh tế xã hội có thể phân chia như sau:
1. Triết học cổ đại
2. Triết học trung đại
3. Triết học phục hưng và cận đại
4. Triết học cổ điển Đức
5. Triết học Mác – Lênin
6. Những trào lưu triết học tư sản hiện đại
IV. Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học:
1. Những quan niệm chung nhất
1.1. Theo Ăngghen lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giai cấp, rằng
những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy lúc nào cũng là sản phẩm của


những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là sản phẩm của những quan
hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy; rằng do đó kết cấu kinh tế của x hội,
của mỗi thời đại nhất định tạo nên cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng, phải
Page 1 of 4


bằng cái cơ sở hiện thực ấy mà giải thích toàn bộ thượng tầng kiến trúc bao gồm
những thể chế pháp luật và chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết
học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định.
1.2. Trong số các nhà kinh điển, có lẽ Ph.Ăngghen để lại những nhận xét
về phân kì lịch sử triết học có hệ thống hơn cả. Ông nhận thấy vai trò đặc biệt
quan trọng của lịch sử triết học đối với sự phát triển của tư duy lý luận, đồng
thời có điều kiện quan tâm tới những vấn đề cụ thể của lịch sử triết học. Theo
Ph.Ăngghen, “tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực
của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và
muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên
cứu toàn bộ triết học thời trước“(2). Cũng ở đây, Ph.Ăngghen nhấn mạnh, “tư
duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một
sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác
nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau. Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa
học nào khác, khoa học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự
phát triển lịch sử của tư duy con người”.
1.3. Ăng ghen chỉ ra vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần
và vật chất với tư cách vấn đề cơ bản của triết học, đồng thời chỉ ra hai mặt của
vấn đề này. Đây là sự khái quát những thành tựu của Arixtốt, Lépnít, đặc biệt là
của Hêghen về lịch sử triết học và phân chia các nhà triết học thành hai khuynh
hướng duy vật và duy tâm tuỳ thuộc vào việc họ giải quyết vấn đề cơ bản trên.
Hiển nhiên, cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng trên là một trong những nội
dung cơ bản của lịch sử triết học
2. Một số quan niệm cụ thể về nền triết học qua các thời kỳ

2.1. Quan niệm về triết học cổ đại:
Không có điều kiện nghiên cứu triết học phương Đông như Hêghen,
nhưng nhận xét của Ph.Ăngghen “những nhà Phật giáo nguyên thuỷ là những
nhà biện chứng sơ khai” là vô cùng quan trọng, nó giúp chúng ta định hướng khi
nghiên cứu triết học Phật giáo nói riêng, triết học Ấn Độ nói chung. Không dừng
lại ở những nhận xét chung, Ph.Ăngghen có điều kiện nghiên cứu một số giai
đoạn chính của lịch sử triết học phương Tây. Ông đã có những nhận xét khá thú
vị về triết học cổ Hy Lạp: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà
biện chứng tự phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà
triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện
chứng”(5). Nhấn mạnh quá trình phát triển biện chứng của giới tự nhiên,
Page 2 of 4


Ph.Ăngghen khẳng định “Như thế là chúng ta đã trở về với cái quan niệm của
những người sáng lập vĩ đại ra triết học Hy Lạp, cho rằng toàn bộ giới tự nhiên...
từ những sinh vật nguyên thuỷ cho đến con người, nằm trong tình trạng không
ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động không ngừng, vận động và biến hoá bất
tận”(6). Ph.Ăngghen xếp các nhà triết học cổ Hy Lạp vào hình thức thứ nhất của
phép biện chứng - phép biện chứng sơ khai và coi họ là những nhà duy vật tự
phát. Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, “từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của
triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế
giới quan sau này. Do đó, khoa học tự nhiên lý thuyết buộc phải quay trở lại với
người Hy Lạp”(7).
2.2. Triết học trung đại
Phê phán chủ nghĩa kinh viện
2.3. Triết học phục hưng và cận đại
Phê phán phương pháp tư duy siêu hình là phương pháp tư duy “chỉ nhìn
thấy cây mà không thấy rừng”.
2.4. Triết học cổ điển Đức

Đứng về phía C.Mác, nhưng ít nhiều với tư cách “người thứ ba” trong
quan hệ giữa C.Mác và Hêghen, nên việc đánh giá của Ph.Ăngghen về triết học
Hêghen có phần khách quan hơn. Theo ông, “Geothe và Hêghen, mỗi người
trong lĩnh vực của mình, đều là một Dớt trên núi Ôlimpơ... Hệ thống Hêghen
bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát
triển, trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta
vẫn còn ngạc nhiên. Hiện tượng học tinh thần (mà người ta có thể coi là giống
như bào thai học và cổ sinh vật học tinh thần, là một sự phát triển của ý thức cá
nhân qua các giai đoạn khác nhau của nó, như là sự lặp lại thu gọn của các giai
đoạn mà ý thức con người đã trải qua trong lịch sử), lôgic học, triết học tự nhiên,
triết học tinh thần... Hêghen cố gắng phát hiện ra và chỉ rõ sợi chỉ đỏ của sự phát
triển xuyên suốt ấy”(11). Tinh thần này chúng ta cũng thấy trong những đánh
giá của Ph.Ăngghen đối với triết học I.Cantơ và các nhà triết học trước đó. Mặc
dù phê phán, nhưng chúng ta ít thấy Ph.Ăngghen dùng những “ngôn từ mạnh”
cả khi nhận xét về những người có quan điểm đối lập với mình, như Đ.Hium,
I.Cantơ, v.v.. Một đôi chỗ, Ph.Ăngghen còn phê phán Đuyrinh đã giản lược
những gì mà I.Cantơ đã trình bày trong tác phẩm nổi tiếng Phê phán lý tính
thuần tuý(12). Phê phán quan niệm về “vật tự nó”, nhưng Ph.Ăngghen đánh giá
cao những phát kiến của nhà triết học Đức này trong khoa học tự nhiên. “Học
Page 3 of 4


thuyết của Cantơ cho rằng tất cả các thiên thể hiện tại đều sinh ra từ những khối
tinh vân đang xoay tròn, là một thành tựu lớn nhất của khoa thiên văn từ thời
Côpécníc đến nay. Lần đầu tiên, cái quan niệm cho rằng giới tự nhiên không có
lịch sử trong thời gian, đã bị lung lay... Chính Cantơ là người đầu tiên đã phá vỡ
cái quan niệm hoàn toànthích hợp với phương pháp tư duy siêu hình đó... Hiện
nay phần lớn những lý lẽ của ông đã dùng để chứng minh vẫn còn có giá trị”
IV. ĐÁNH GIÁ
- Là tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển Triết học Mác


Page 4 of 4



×