Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chào mừng cô và các bạn đã đến với bài thuyết trình của nhóm ff ngày hôm nay trước khi bắt đầu bài thuyết trình nhóm chúng mình sẽ gửi đến cô và các bạn 1 bài thơ CHIẾU HÌNH ẢNH ÔNG đồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.79 KB, 13 trang )

Dẫn dắt: Chào mừng cô và các bạn đã đến với bài thuyết trình của nhóm F&F ngày
hơm nay. Trước khi bắt đầu bài thuyết trình nhóm chúng mình sẽ gửi đến cơ và các
bạn 1 bài thơ: CHIẾU HÌNH ẢNH ƠNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ơng đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...

Ơng đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường khơng ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người mua năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ này đã chắc hẳn khơng cịn xa lạ với các bạn phải khơng nào? Đó chính là Bài
thơ Ơng Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Chúng mình lựa chọn bài thơ này để mở đầu
bài thuyết



trình vì nội dung cũng như hồn cảnh sáng tác của bài thơ cũng chính là vấn đề mà
nhóm mình muốn làm rõ ngày hôm nay. Bài thơ được sáng tác vào thời kì Pháp xâm
lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học
và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn
hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ từ chỗ là "linh hồn" của nền văn hóa truyền thống
dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng bóng.
Câu hỏi đặt ra: Liệu tư tưởng Nho giáo đã hoàn toàn biến mất và bị khai trừ hay nó
vẫn có ảnh hưởng vơ cùng to lớn đến nền giáo dục Việt Nam. Hãy cùng nhóm mình
tìm hiểu nhé.
Cấu trúc bài của nhóm mình gồm 3 chương :
CHƯƠNG I: Quan niệm của Nho giáo đối với lĩnh vực giáo dục Việt Nam trong lịch
sử
CHƯƠNG II: Ảnh hưởng của nho giáo đến nền giáo dục việt nam hiện nay – thực
trạng và những vấn đề đặt ra
CHƯƠNG III: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo trong giáo dục Việt Nam
hiện nay
Làm rõ được những vấn đề trên là việc làm quan trọng, góp phần thực hiện có hiệu quả
chủ trương đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam.
CHƯƠNG I: Quan niệm của Nho giáo đối với lĩnh vực giáo dục Việt Nam trong
lịch sử
Dẫn Dắt: Ở Việt Nam thời phong kiến là nền giáo dục Nho học với văn tự chữ
Hán. Tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán ngay từ thời Bắc thuộc qua tiếp xúc, giao
lưu với người Hán sang cai trị Việt Nam; qua những người nhà sư, đạo sĩ phổ
biến các đạo Phật, Lão, Khổng. Các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ
không quan tâm đến dạy cho người Việt Nam, mà chỉ chú trọng dạy cho những
người mang dòng máu Hán.
HAI BẠN CÙNG THUYẾT TRÌNH MỖI BẠN 1 TRIỀU ĐẠI XEN KẼ
Nội dung

1. Tư tưởng Nho giáo về giáo dục ở Việt Nam thời phong kiến qua các triều
đại LÀM 1 SILE VỀ CÁC THỜI ĐẠI PHONG KIẾN
a) Thời kỳ đầu đất nước mới giành được độc lập với các triều đại Ngô, Đinh,
Tiền Lê
 Do những biến động của đất nựớc ở thế kỉ X, sự tồn tại của các triều đại không
dài và những người đứng đầu các triều đại hầu hết là các thủ lĩnh quân sự nên
giáo dục của đất nước chưa có điều kiện phát triển.


Thời kì này các nhà sư là tầng lớp trí thức tinh thông cả Nho học, Phật giáo và
họ mở trường, lớp tại các chùa để dạy học, đào tạo được nhiều tài năng như sư
Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh. CHIẾU HÌNH ẢNH CÁC NHÀ SƯ
b) Triều Lý


Sau khi kiến lập vương triều và đưa đất nước đi vào ổn định, vương triều Lý
chú trọng chăm lo đến hệ thống giáo dục và khoa cử trên toàn đất nước. Cùng
với hệ thống giáo dục Phật học đã được phổ biến rộng rãi, năm 1070, vua Lý
Thánh Tông lập văn miếu để thờ Khổng Tử với mong muốn phát triển hệ thống
Nho giáo và khoa cử Nho học ở nước ta.
 Bên cạnh việc dựng Văn Miếu, nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi
cử để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành
chính. Năm 1075, nhà Lý cho mở kỳ thi Tam trường để chọn người minh kinh
bác học. Người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh. Nước ta bắt đầu có khoa thi từ đây
 Sự ra đời của Văn Miếu – Quốc Tử Giám dưới triều Lý đã đặt nền móng cơ bản
cho chế độ giáo dục khoa cử Nho học sau này với ba kì thi Hương, Hội, Đình.
Từ đây Văn Miếu – Quốc Tử Giám dần trở thành trung tâm hội tụ tinh hoa của
Nho giáo – Nho học Việt. CHIẾU HÌNH ẢNH QUỐC TỬ GIÁM, 3 KÌ THI
HƯƠNG, HỘI, ĐÌNH



CHIẾU VIDEOCLIP: />%2Ffb.watch%2F8bOPtpVtgw%2F%3Ffbclid%3DIwAR1FVhW-5jx9sli24EZINAmV5ysl1fwRm1eToqdOHDFTP1WlaK9zb2FT2s&h=AT1u08yYmn
o2F3LLHuuQapRhubNAqlR_UnjbosCdRzzrZ3hpzVe3uZFcvi67RVW91Wj
muBaMGEDkq5_FKYsxFuZj8H9JXr1bTP3WhRf_0BYL77pZ1mxQptc1DgDeV00f3qn5X2zgQofNWLPeC19
Dẫn dắt: Xi chiều theo dịng lịch sử chúng ta hãy cùng nhau đến với đặc
điểm giáo dục của Nhà Trần.
c) Nhà Trần
 Kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục thời Lý, nhà Trần tiếp tục chủ
trương giáo dục Nho học để chọn người tài, đảm đương công việc xã hội, cai trị
đất nước. Thời Trần chế độ học hành và thi cử ngày càng có quy củ và chính
quy hóa
 Năm 1247, vua Trần Thái Tơng đã cho đặt bộ máy Tam khôi (Trạng nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa). CHIẾU HÌNH ẢNH CÁC TRẠNG NGUYÊN
 xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, các học giả xuất sắc như Chu
Văn An, Lê Văn Hưu, Nguyễn Thuyên… Nho giáo phát triển mạnh mẽ có
chiều hướng lấn át Phật giáo. Thành tựu quan trọng thời Trần là chữ Nôm bắt
đầu được phổ biến và vận dụng vào sáng tác văn học. CHIẾU HÌNH ẢNH
CHU VĂN AN, LÊ VĂN HƯU, NGUYỄN THUYÊN
d) Nhà Hồ
 Nhà Hồ: ban hành những quy định để đưa thi cử vào nề nếp, đưa toán vào thi cử




Hồ Quý Ly phản đối lối học sáo rỗng, học vẹt, đem lời nói cổ nhân áp dụng
một cách máy móc để xét việc trước mắt
 tổ chức kỳ thi Thái học sinh, chọn được 20 người tài trong đó có Nguyễn Trãi
CHIẾU HÌNH ẢNH NGUYỄN TRÃI

e) Lê Sơ

 Thời Lê sơ: phát triển mạnh mẽ nhất dưới triều Lê Thánh Tơng (1460 1497).CHIẾU HÌNH ẢNH LÊ THÁNH TƠNG
 Mở rộng trường công của nhà nước đến các địa phương.
 Quy định 3 năm mở một kì thi Hội đế lựa chọn tiến sĩ.
 Năm 1484, cho dựng bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ đặt trong Văn
Miếu.CHIẾU HÌNH ẢNH BIA TRONG VĂN MIẾU
 Thời Lê Thánh Tông đã tổ chức được 12 khoa thi Hội, lấy đỗ được hàng trăm
tiến sĩ
f) Triều Nuyễn
 tổ chức dạy và học, cơ bản là rập khuôn Triều Lê
 chủ trương dạy học bằng chữ Nôm trong các trường học, tiếp tục duy trì chế độ
giáo dục Nho học CHIẾU HÌNH ẢNH 1 SỐ BÀI THƠ NƠM
Dẫn dắt: Qua tìm hiểu về nền giáo dục của mỗi triều đại phong kiến trong lịch sử
Việt Nam nhóm chúng mình nhận thấy rằng tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu, bén rễ
vào tư tưởng Việt. Điều đó được thể hiện qua những đúc kết sau:
Nội dung:
2. Đặc điểm của nền giáo dục Nho học Việt Nam thời phong kiến
 Mục tiêu của nền giáo dục thời phong kiến
 Xây dựng mẫu người lý tưởng của Nho giáo cho xã hội -người quân tử; đồng
thời tập luyện cho người học để đạt tới văn hay, chữ tốt, tức là để có năng lực
diễn đạt, trình bày những tư tưởng Nho giáo bằng các bài thơ, phú, văn
 Các triều đại quân chủ tôn sùng Nho giáo với chủ trương tuyển dụng nhân tài
cho đất nước qua các kỳ Khoa bảng
 Giáo dục khoa cử được các triều đại tổ chức nhằm truyền bá ý thức hệ phong
kiến vào trong nhân dân và để đào tạo và tuyển chọn quan lại – hiền tài giúp
vua trị nước, quản lí xã hội. Chủ trương khuyến khích giáo dục Nho giáo được
thể hiện qua rất nhiều thơ ca như: CHIẾU HÌNH ẢNH HIỀN TÀI LÀ
NGUN KHÍ CỦA QUỐC GIA
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh
Ngun khí yếu thì quốc gia suy”.



 Nội dung giáo dục
 Coi trọng giáo dục đạo đức, khinh tài trí, vì đối với quan cai trị, cần thiết là đức,
có đức thì an dân, có đức thì thơng cảm với trời đất, thì gió hịa, mưa thuận, còn

 kiến thức và kỹ năng về sản xuất của cải vật chất chưa trở thành nội dung của
giáo dục.CHIẾU HÌNH ẢNH CÁC GIÁM SINH
 Do vậy, người học tuy thấm nhuần tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ
văn, nhưng kiến thức về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì lại khơng phát
triển. Người nông dân học nông nghiệp một cách tự phát, người buôn bán cũng
vậy, các nghề thủ công như mộc, nề, xây dựng, kể cả khai mỏ, luyện và đúc sắt,
cơ khí... cũng được truyền lại bằng phương pháp kèm cặp thông qua tổ chức
phường hội và trực tiếp tham gia sản xuất, chứ khơng có trường lớp, sách vở,
chương trình gì.
 Hệ thống sách giáo khoa của nền giáo dục Nho học về cơ bản là sách kinh điển
của Nho giáo được tập trung trong bộ Tứ thư và Ngũ kinh, CHIẾU HÌNH
ẢNH TỨ THƯ, NGŨ KINH được viết bằng chữ Hán. Với mục đích nhằm
hình thành những quy tắc, chuẩn mực đạo đức Nho giáo. Từ đó, nắm được
những kiến thức cơ bản về cuộc sống; những kiến thức về lịch sử, văn hóa, thơ
ca; đạo trị nước và an dân
 Phương pháp giáo dục
 Phương pháp giáo dục kinh viện và giáo điều. Mỗi tháng giáo quan định một số
ngày giảng sách; đến giờ đó, học trị đến giảng đường để nghe giáo quan giảng
nghĩa.
 Trẻ mới học vỡ lòng sẽ được học Tam tự kinh, tứ tự kinh,... mỗi ngày dăm ba
câu, tập viết ván gỗ. Trẻ em phải học thuộc lịng; lớn lên ít tuổi thì học đến Tứ
thư ngũ kinh, tập làm câu đối. Có thể nói, từ khi đi học đến khi đi thi, học sinh
phải học theo khn khổ của nho giáo, bó mình vào trong các quy định phép tắc
CHIẾU HÌNH ẢNH LỚP HỌC VỠ LÒNG THỜI PHONG KIẾN

 Giáo dục nho giáo coi trọng việc làm quan, đề cao đạo đức lễ nghĩa, chú trọng
dạy đạo làm người
 Hệ thống trường lớp
 Nền giáo dục Nho học Việt Nam thời phong kiến chưa có sự phân chia các cấp
học đối với đội ngũ giáo viên, chưa có chương trình, tài liệu, sách giáo khoa
quy định chặt chẽ, phù hợp như ngày nay
 Tuy thi cử, phải kiểm tra kết quả mới được thi Hương, đậu thi Hương mới thi
Hội, đạt yêu cầu thi Hội mới được thi Đình, nhưng chương trình, tài liệu có thể
rộng, hẹp hơn trong chừng mực nào đó, khơng được quy định rõ rệt


 Trường chia làm hai loại: trường công và trường tư thục (trường làng). Trường
công tổ chức ở kinh đô và các tỉnh, phủ, huyện do nhà nước quản lý như: Sùng
văn quán, Quốc Tử Giám,... còn các trường tư có mọi nơi từ kinh đơ đến các
xóm do các thầy đồ thầy khóa và của các ơng tú ngồi nhà mở ra như: trường
của Chu

 Văn An,...CHIẾU HÌNH ẢNH SÙNG VĂN QUÁN, QUỐC TỬ GIÁM VÀ
CÁC LỚP TRƯỜNG LÀNG


Quốc Tử Giám là trường cấp cao nhất, ban đầu dành cho con vua, hoàng tộc,
quý tộc. Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc tử giám và thu
nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Tiếp theo là các trường
dành cho con cái của quan lại. Cuối cùng là trường tư thục do các thầy đồ mở ra
dành cho đại chúng

Kết luận: Trong gần 2000 năm phát triển, Nho giáo ảnh hưởng tới nhiều phương diện
làm sâu sắc thêm tầng văn hóa đời sống nước ta nhưng vẫn mang những nét rất Việt
Nam. Đặc biệt, nó vẫn in hằn dấu tích và hình ảnh trong giáo dục nước ta một cách sâu

sắc. Sở dĩ, mức ảnh hưởng của nó mạnh mẽ đến vậy là do hơn 1000 năm Bắc thuộc,
Nho giáo đã dần bén rễ vào tư tưởng Việt. Đồng thời cũng là nhu cầu có một tơn giáo,
hệ tư tưởng chính thống làm bệ đỡ thống nhất quốc gia, xây dựng bộ máy nhà nước,
quản lý chính quyền và nhu cầu tìm kiếm nhân tài phục vụ trung thành của giai cấp
thống trị đòi hỏi các bậc vua chúa chọn Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống
CHƯƠNG II: Ảnh hưởng của nho giáo đến nền giáo dục việt nam hiện nay –
thực trạng và những vấn đề đặt ra
Dẫn dắt: Qua những nội dung được trình bày ở chương I chúng ta có thể thấy rằng
ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo về giáo dục từ nội dung đến tổ chức và quản lý đối
với Việt Nam thời phong kiến là rất lớn.
Thế nhưng trải qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử cùng với sự biến đổi của các
yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa thì nền giáo dục Việt Nam đã có bước chuyển mình
vơ cùng to lớn. Hơn bao giờ hết chúng ta nhận ra được tầm quan trọng của giáo dục
với sự sống còn của 1 quốc gia, giống như Nenso Mandela từng nói: “Giáo dục là vũ
khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới.”
1. Đặc điểm của nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Nội dung: Phát triển giáo dục cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng giáo dục theo yêu cầu chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội hóa học tập, nhiều
chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân
được học tập suốt đời.


 Mục tiêu giáo dục
đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc CHIẾU HÌNH ẢNH SINH

VIÊN 5 TỐT

 Nội dung giáo dục
là toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và
ý thức công dân; bảo tồn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa nhân loại;
phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi của người học. CHIẾU HÌNH
ẢNH CÁC LỚP HỌC HIỆ ĐẠI (HỌC VĂN HĨA, KĨ NĂNG SỐNG, THỂ
DỤC THỂ THAO
 Phương pháp giáo dục
là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của người học; bồi dưỡng
năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên; học đi đôi với hành,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
 Chương trình giáo dục
 Chương trình giáo dục được cụ thể hóa từ sách giáo khoa, giáo trình phù hợp
với mục tiêu, cấp độ và cấp bậc học.Hệ thống giáo dục bao gồm: CHIẾU
HÌNH ẢNH HỌC SINH, SINH VIÊN CÁC CẤP
 Giáo dục mầm mon
 Giáo dục phổ thông (cấp bậc tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5, cấp bậc trung học
cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9, cấp bậc trung học phổ thông từ lớp 10 đến lớp 12)
 Giáo dục nghề nghiệp (đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ
cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động)
 Giáo dục đại học (trình độ đại học và trình độ cao đẳng), giáo dục sau đại
học (trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ).
 Văn bằng hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng tốt nghiệp tiểu học, trung
học cơ sở, phổ thông trung học, trung cấp chuyên nghiệp, học nghề, cao
đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ
 Phương thức giáo dục có chính quy và khơng chính quy.
 Chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân cấp cho người học để xác nhận
kết quả học tập sau khi được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn,
nghề nghiệp.

Dẫn dắt: Nền giáo dục Việt Nam đã khốc lên mình một tấm áo mới mang hơi thở
của thời đại, có sự kết hợp giữ cả phương đơng và phương tây. Nhưng dù cho có đổi
mới đến đâu đi chăng nữa thì tư tưởng Nho giáo vẫn là cái gốc và sự ảnh hưởng của nó
vẫn cịn tồn tại đến ngày nay. Như ông bà ta thường nói :
“Con người có tổ, có tơng
Như cây có cội, như sơng có nguồn.”.


Nội dung: Những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến nền giáo dục Việt Nam
hiện nay
1. Ảnh hưởng tích cực CHIẾU CÁC HÌNH ẢNH HỌC SINH HỌC TẬP,
RÈN LUYỆN
 Thứ nhất, đó là đề cao việc học tập: Khổng tử quan niệm sự hiểu biết không
phải là sinh ra đã có sẵn mà phải được tích lũy qua q trình học tập, rèn luyện
khá cơng phu. Ngay các đức tính như nhân, trí, tín, trực, dũng, cương









cũng cần phải học tập rèn luyện thì mới có thể phát triển đúng hướng, ứng dụng
hoàn hảo. Ngày nay, Đảng và nhà nước luôn đề cao việc học tập và xem giáo
dục là quốc sách hàng đầu.
Thứ hai, đó là tư tưởng hiếu học: Khổng tử cho rằng con người thông thường
phải chịu đựng những khó khăn, vất vả mới biết. Đây là một quan điểm tiến bộ
làm cho các môn đệ của ông trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử vẫn tiếp tục tinh

thần ham học, học không biết chán, góp phần cổ vũ phong trào học tập. Ngày
nay, đất nước ta bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người
đứng trước một địi hỏi lớn về phát triển trí tuệ, phát triển năng lực sáng tạo. Vì
thế, việc học ngày nay ở nước ta đối với mỗi người, mỗi gia đình và xã hội là
yêu cầu cấp thiết. Tinh thần ham học, học không biết chán của Nho giáo có ý
nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng xã hội học tập hiện nay. Chủ tịch HCM
cũng đã khẳng định: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang hay khơng, dân
tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính
là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các cháu”
Thứ ba, đó là bình dân giáo dục: đây là chủ trương giáo dục rất tiến bộ trong
bối cảnh lịch sử bấy giờ vì khơng chỉ biểu hiện tư tưởng thân dân mà cịn làm
cho dân đổi mới. Khơng phân biệt giai cấp, quý tiện, sang hèn, “Nếu từ đô áp
đến chỗ châu huyện đều đặt nhà học, để cho từ con vua trở xuống đến con nhà
sỹ và thứ dân đều đi học cả, thì độ mười năm sau, trên biết bảo dưới, dưới biết
cách thờ trên”. Tư tưởng này hiện nay được Đảng và Nhà nước đang vận dụng
để giáo dục, nâng cao trình độ cho người dân.
Thứ tư, đó là tư tưởng về mối quan hệ giữa học và tập, giữa học và hành, giữa
dạy và học: Đây cũng là tư tưởng có giá trị về phương pháp giáo dục để thực
hiện nguyên lý “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý
luận gắn liền với thực tiễn” trong quá trình dạy và học hiện nay. Khổng Tử nói,
muốn học để biết, cần có bốn khơng: “khơng ý, khơng tất, không cố, không
ngã”. Nghĩa là, nếu chưa học hoặc chưa thật sự học đến nơi đến chốn mà đã có
sẵn ý này, ý khác về đối tượng và nội dung học thì rất dễ khn theo ý nghĩa sai
đã có trước khi học. Khi tìm hiểu đối tượng mà dựa vào những phán đoán chưa
chắc chắn rồi khẳng định tất phải thế này thế kia thì việc tìm hiểu sẽ thiếu khách
quan, khó đạt tới chất lý. Vì vậy chúng ta phải biết kết hợp vừa học lý thuyết và
thực hành nhuần nhuyễn những kiến thức đã học sẽ giúp chúng ta hiểu sâu và
nắm vững nguồn tri thức hơn.
Thứ năm, đó là trở thành cơ sở cho đạo đức: Với hệ thống các quy định chặt
chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo



khuôn phép. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có luật pháp thì nước mới
nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã
tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp
cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy
nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội. Theo Nho giáo, đạo đức người
cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại, những người
trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì khơng thể cai trị được nhân dân.
Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ
giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu,
tề, trị, bình”. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời
về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Ngày nay tư tưởng nêu
trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức,
đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục và đưa đất nước lên tầm cao
mới.
Vì thế mà trong mỗi lớp học thường treo khẩu ngữ: “Tiên học lễ hậu học văn”.
Hay lời Bác dạy thanh thiếu niên : “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng.
Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”
Dẫn dắt: Tuy nhiên vấn đề nào cũng có hai mặt của nó bởi lẽ trong cuộc sống khơng
có điều gì là hồn hảo vì thế nên chúng ta khơng nên tuyệt đối hóa một vấn đề nào đó
và Nho giáo cũng không phải ngoại lệ.
2. Ảnh hưởng tiêu cực
Nho giáo cũng đã để lại những “di chứng” rất nặng nề cho nền giáo dục của Việt
Nam hiện nay:
 Ngày xưa, các nhà Nho lặp đi lặp lại bốn chữ “ôn cố tri tân”, từ Khổng Tử,
Mạnh Tử cho tới các Nho giáo thời sau, cách học của họ là lặp đi, lặp lại, thuộc
lòng như con vẹt, nhớ vanh vách, thuộc lầu lầu, dù không hiểu rõ cũng chẳng
sao. CHIẾU HÌNH ẢNH GIÁO VIÊN ĐỌC BÀI CHO HỌC SINH CHÉP
Nội dung của bài học, phải qua tụng niệm hàng tháng, hàng năm, hàng chục

năm. Người nào mà không hiểu được là do tư chất học kém, coi trọng con
đường lập thân bằng học vấn, học để làm thầy chứ không làm thợ, nội dung và
phương pháp học nặng về lý thuyết, học vẹt, thầy đọc trò chép… Ngày nay, lối
học vẹt ấy vẫn cịn được khuyến khích và áp dụng đối với tuổi trẻ, đối với quần
chúng. Cứ thế, thế hệ thầy thuật đúng y nguyên cho thế hệ trò, thế hệ trò học
xong trở thành thầy lại thuật đúng y nguyên cho thế hệ trò kế tiếp theo. Bằng
cách “thuật lại” như vậy, sự phát triển và sáng tạo rất nghèo nàn trong nền giáo
dục hiện nay.
Đồng thời Nho giáo luôn đặt ra các khuôn khổ, khiến sự sáng tạo bó mình vào
trong các quy định phép tắc. Ngay cả trong văn thơ- lĩnh vực dành riêng cho
những tâm hồn nghệ thuật với những sáng tạo bay bổng thì các thi sĩ khi làm
thơ cũng phải tuân theo các quy tắc gieo vần.
 Khổng tử coi trọng việc học nhưng lại không quan tâm đến nền sản xuất xã hội
hoặc ứng dụng cái học vào lãnh vực sản xuất vật chất (bằng lao động chân tay


hoặc lao động trí óc), cho rằng Người bề trên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì
dân chúng bốn phương sẽ đem đến phục dịch mình. Dẫn đến việc những điều
học được chỉ mang tính giáo điều, kiến thức sống trở nên hạn hẹp
 Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trị của đạo đức và
nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” CHIẾU TRANH BIẾM
HỌA VỀ NHỜ VÀO QUAN HỆ MÀ THĂNG CHỨC của Nho giáo, mà
quên pháp luật là sai lầm. Coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc mà sắp xếp và
bố trí cán bộ khơng theo năng lực, trình độ và địi hỏi của cơng việc mà dựa vào
sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Do quan niệm sai lệch
về đạo đức với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái
độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, hối lộ,
cửa quyền…Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các
công việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết
đốn.

Nhưng quyết đốn theo kiểu độc đốn, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia
trưởng.
 Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo
thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp
trẻ, trọng nam khinh nữ, bắt bề dưới phải phục tùng bề trên đã tạo nên thói gia
trưởng.… Trong khi đó ở Phương Tây thì đề cao sự sáng tạo, chân lý, tư tưởng
cá nhân: "Platon là thầy tơi nhưng chân lý cịn q hơn thầy". CHIẾU HÌNH
ẢNH ARISTOTLE Nhà triết học cổ đại Hy Lạp Aristotle đã nói như vậy.
Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước
đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám
chịu trách nhiệm.
 Kết luận: Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng Nho giáo
đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa
có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định. Để xây dựng đạo đức mới cho
con người Việt Nam hiện nay, chúng ta cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời
khắc phục và xóa bỏ triệt để những ảnh hưởng tiêu cực. Công việc này phải
được tiến hành thường xun, kiên trì và lâu dài.
Dẫn dắt: Vừa rồi nhóm chúng mình đã đưa đến cho các bạn một cái nhìn cụ thể
về ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Vậy
vấn đề được đặt ra ở đây là hiện nay, tại thế kỉ 21 chúng ta sẽ lựa chọn hướng đi
nào cho giáo dục Việt Nam? Nho giáo truyền thống, tự do phương tây hay một
hương đi khác. Liệu chúng ta có nên loại trừ tư tưởng Nho giáo và tiếp thu hoàn
toàn nền giáo dục Phương Tây, hay là kết hợp cả 2.
Chúng mình biết rằng mỗi người sẽ có cho mình một quan điểm riêng về vấn đề
này phải khơng nào? Chúng ta hay thường có câu nói cửa miệng quen thuộc rằng
“Hịa nhập chứ khơng hịa tan” vậy thì điều gì đã khiến chúng ta khơng hịa tan,
đó chính là những giá trị truyền thống mà mỗi con người chúng ta có. Chúng ta


biết biết kế thừa những giá trị tích cực và rút kinh nghiệm từ những tiêu cực, vận

dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, nước ta cũng cần học hỏi kinh
nghiệp phát triển giáo dục của một số nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc,
Singapore hay các nền giáo dục hiện đại phương Tây như Mỹ, Hà Lan… Việc kế
thừa, học hỏi cần phải được tiến hành một cách nghiêm túc,

sáng tạo, biết chắt lọc những giá trị tích cực, phù hợp với hồn cảnh đất nước và
biết rút kinh nghiệm từ những hạn chế, thiếu sót.
1. Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng nho giáo
trong giáo dục Việt Nam hiện nay.
 Một là, cần phải kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục tri thức và giáo dục lý
tưởng CHIẾU HÌNH ẢNH GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI
 Khi đưa ra nội dung giáo dục, Nho giáo rất chú trọng đến việc giáo dục đạo đức
như nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng… Ngồi ra, Nho giáo cịn giáo dục cả lý tưởng
cho người học: việc học phải hướng đến làm chính sự, mang những điều mình
học được để giúp nước, giúp dân.
 Ở Việt Nam, một trong những thực trạng giáo dục hiện nay là việc tách rời
giữa giáo dục tri thức với giáo dục đạo đức và giáo dục lý tưởng. Vấn đề giáo
dục đạo đức và giáo dục lý tưởng chưa được coi trọng khiến cho nội dung giáo
dục mang tính một chiều, chưa thật sự đầy đủ và khoa học. Bởi vậy, công tác
giáo dục, đào tạo học sinh, sinh viên - đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa tương
lai cần theo một phương hướng cơ bản là phải thực sự coi trọng giáo dục đạo
đức cách mạng; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục lý luận với giáo dục lý tưởng,
đạo đức.
 Kết hợp giữa giáo dục đạo đức, lý tưởng với giáo dục lý luận với học sinh, sinh
viên, với mục đích làm thế nào để đào tạo một lớp thanh niên trí thức "vừa hồng
vừa chun" Có như vậy mới thiết thực góp phần hình thành và củng cố lý
tưởng sống đúng đắn cho thanh niên - sinh viên của đất nước trong tiến trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
 Hai là, phải coi trọng tự giáo dục, phát huy sự tu dưỡng, học tập và rèn luyện

cá nhân CHIẾU HÌNH ẢNH GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI
 Khi đưa ra các phương pháp giáo dục, ngoài việc chú trọng hoạt động dạy học
của người thầy, theo quan điểm của Nho giáo, để việc học thật sự có hiệu quả,
người học cần phải khơng ngừng nỗ lực, phát huy sự tu dưỡng, rèn luyện của
bản thân. Điều đó giúp cho người học phát huy được tính năng động, chủ động
của mình.
 Đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, việc tu dưỡng, rèn luyện lối sống mới lối sống xã hội chủ nghĩa là vô cùng quan trọng. Lối sống chính là một nhân
cách quan trọng nhất trong cấu trúc chính trị - tinh thần, nó quy định mục tiêu,
lý tưởng, lẽ sống của mỗi người.


 Ba là, phải kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội CHIẾU HÌNH
ẢNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ TRƯỜNG, GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
 Giáo dục không phải là việc của một cá nhân hay của một cấp, một ngành nào
mà là cơng việc của tồn xã hội. Vì vậy, để hoạt động giáo dục thật sự có hiệu
quả rất cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Mỗi
bộ phận lại có vai trị khác nhau trong hoạt động giáo dục:
 Nhà trường đảm bảo một nền giáo dục toàn diện phát triển mọi mặt cho từng
học sinh, từ thể chất, tinh thần, cho tới trí tuệ và tình cảm.

 Gia đình cũng đóng vai trị quan trọng trong hoạt động giáo dụcmọi người
trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hóa, tạo mơi trường thuận
lợi cho việc phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ .
 Muốn hoạt động giáo dục đạt kết quả tốt khơng thể khơng có sự tham gia của
các tổ chức đoàn thể xã hội. Trong các tổ chức xã hội, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh có vai trị to lớn trong việc phối hợp với nhà trường giáo dục
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; vận động đoàn viên, thanh niên gương mẫu
trong học tập, rèn luyện và tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Sự kết hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội là rất cần thiết, tạo thành sức mạnh
tổng lực tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động giáo dục phát triển.


 Bốn là, phải có sự kết hợp giữa học và hành
 Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học Trung Quốc thuộc trường phái Nho giáo
đã cho rằng để hoạt động giáo dục thật sự có hiệu quả cần thiết phải có sự kết
hợp giữa học và hành. Hiện nay, ở nước ta, trong nhiều nhà trường mới chỉ chú
trọng hoạt động học tập, không coi trọng đúng mức hoạt động thực hành khiến
nhiều học sinh, sinh viên phát triển lệch lạc, chỉ thiên học lý thuyết mà coi nhẹ
hoạt động thực hành.
 Để kết hợp tối ưu giữa học và hành, một phương pháp cần thiết là phải xây
dựng nội dung học tập có tính mở, có sự gắn bó kiến thức lý luận với thực tiễn
để người học có thể vận dụng vào trong quá trình thực hành. Bản thân người
học cũng phải tích cực trong việc thực hành để kiểm nghiệm những kiến thức lý
thuyết mình đã có được. Có như vậy, hoạt động giáo dục mới mang tính thực
tiễn và gắn bó với đời sống hàng ngày.
Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo trong
giáo dục Việt Nam hiện nay.
 Một là, hạn chế lối giáo dục tuyên truyền một chiều. Một trong những hạn chế
của Nho giáo là chỉ đưa ra tư tưởng giáo dục một chiều như vua - tôi lấy chữ
trung làm đầu, cha con lấy chữ hiếu làm đầu… Đơi khi vì tuyệt đối hóa mối
quan hệ này nên chữ “trung”, chữ “hiếu” trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo


được hiểu một cách cứng nhắc. Điều đó dễ làm cho giáo dục mang tính thụ
động.
 Hai là, hạn chế nội dung giáo dục chứa đựng nhiều yếu tố phiến diện. Một
trong những biểu hiện của sự phiến diện trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
là chỉ chú trọng giáo dục đạo đức, ít chú trọng đến giáo dục thực hành. Điều
này không phù hợp với việc phát triển giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế
như ở nước ta hiện nay. Vì vậy, một việc làm cần thiết đối với nền giáo dục ở
Việt Nam hiện nay là cần tạo ra được một triết lý mới cho nền giáo dục hiện

đại. Nên chăng, triết lý mới cho nền giáo dục hiện đại ở nước ta là: Học cho
bản thân, học vì sự phồn vinh của đất nước.

KẾT LUẬN: Như vậy chúng ta thấy rằng Sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo
dục ở Việt Nam đã và đang được tiến hành trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội
của đất nước có bước phát triển đáng kể, kể cả về lượng và chất nhưng cũng vẫn
còn nhiều vướng mắc, khó khăn, thử thách. Việc đổi mới và phát triển giáo dục vì
thế khơng phải là một việc làm giản đơn, có thể tiến hành nhanh chóng. Để có
được đường lối đổi mới và phát triển giáo dục đúng đắn, khoa học; do đó khơng
chỉ căn cứ vào thực tiễn phát triển giáo dục của đất nước mà cần phải kế thừa
những tinh hoa trong tư tưởng giáo dục của nhân loại. Những tinh hoa ấy không
thể không kể tới tư tưởng giáo dục của Nho giáo. Một việc làm cần thiết, có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay không chỉ là
bám sát thực tiễn phát triển giáo dục trong nước để đưa ra những đường lối,
chính sách hợp lý mà cần phải biết kế thừa những tinh hoa trong tư tưởng nhân
loại về giáo dục.
 Sự kết hợp hài hòa giữ hai yếu tố sẽ là con đường để chúng ta thực hiện sự
nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục mà khơng hịa tan đi những nét truyền
thống vốn có của dân tộc.



×