Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở CÁC ĐÔ THỊ MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.78 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở CÁC ĐÔ THỊ MIỀN
NAM VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HUẾ - NĂM 2016


Cơng trình được hồn thành tại trường Đại học Sư phạm Huế Đại học Huế

Người hướng dẫn khoa học
- PGS.TS LÊ CUNG
Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án
cấp Đại học Huế tại:
Vào hồi giờ...........ngày.......... tháng............ năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Đại học Sư phạm


Huế, Đại học Huế



NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
CQNĐD

Chính quyền Ngơ Đình Diệm

CQSG

Chính quyền Sài Gịn

ĐTMN

Đơ thị miền Nam

HLĐGP

Hội Lao động giải phóng
miền Nam Việt Nam

LSQS

Lịch sử quân sự

NCLS

Nghiên cứu Lịch sử


NXB

Nhà xuất bản

PTT

Phủ Tổng thống

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTLT

Trung tâm Lưu trữ

VNCH

Việt Nam Cộng hòa


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam hiện đại, phong trào công nhân ở
các đô thị miền Nam (ĐTMN) (1954-1975) là bộ phận của phong trào
ĐTMN, của phong trào cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng trong
sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Phong trào công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm 1965
diễn ra liên tục, sôi nổi và quyết liệt, thu hút hầu hết công nhân các
ngành tham gia như công nhân hỏa xa, công nhân thủy điện, công

nhân bến tàu, công nhân ngành dệt, công nhân taxi, công nhân xăng
dầu, công nhân Savon, công nhân vô tuyến viễn thơng,... Mặc dầu, bị
Mỹ và chính quyền Sài Gịn (CQSG) dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để
kìm kẹp, khủng bố và đàn áp quyết liệt nhưng phong trào công nhân ở
các ĐTMN vẫn luôn được giữ vững và tiếp tục phát triển theo hướng
đi lên của cách mạng miền Nam. Phong trào công nhân ở các ĐTMN
là một trong những nét đặc sắc của tiến trình lịch sử đấu tranh giữ
nước của dân tộc ta, ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam hiện
đại. Phong trào đã chứng minh tinh thần yêu nước và tinh thần đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Phong trào còn biểu thị sự thống nhất hành động giữa giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác ở thành thị, trong
đó cơng nhân ở các ĐTMN ln là lực lượng nịng cốt, dẫn đầu và có
tác dụng cổ vũ đồng bào đơ thị cũng như nơng thơn trong cuộc đấu
tranh chung vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cùng với phong trào của các tầng lớp nhân dân ĐTMN, phong trào
công nhân ở các ĐTMN đã giáng những đòn mạnh mẽ vào hậu cứ an
tồn của Mỹ, và CQSG. Sự tiến cơng ở thành thị, nịng cốt là phong
trào cơng nhân, có tác dụng từng bước phá lỏng thế kìm kẹp của địch
ở đơ thị, cơ lập địch về chính trị, làm cho hậu phương của địch trở nên
rối loạn, đẩy Mỹ và CQSG từng bước rơi vào tình trạng khủng khoảng
nghiêm trọng. Phong trào cơng nhân ở các ĐTMN góp phần tạo nên
một thế trận mới, biến các đô thị bị địch tạm chiếm thành tiền phương
của phong trào cách mạng miền Nam, thuận lợi cho việc xây dựng lực
lượng cách mạng ở nội đô, tạo điều kiện tiến đến giải phóng các đơ thị,
giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975).
Tuy nhiên, cho tới nay, ngoài phong trào công nhân cao su miền
Nam đã được nghiên cứu khá đầy đủ, có tính hệ thống, cịn lại một
1



mảng trống phong trào công nhân ở các ĐTMN Việt Nam (1954-1975)
vẫn chưa được giới sử học Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Vì vậy,
việc tiến hành nghiên cứu phong trào công nhân ở các ĐTMN (19541975), trước hết là giai đoạn từ sau Hiệp định Genève (21-7-1954) đến
thời điểm cuộc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản ở miền Nam
(6-1965) là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực
tiễn. Với lý do đó, chúng tơi chọn đề tài: “Phong trào cơng nhân ở
các đô thị miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ từ năm
1954 đến năm 1965” làm đề tài nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ,
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần làm rõ hơn, đầy đủ hơn về
các giai đoạn lịch sử hết sức vẻ vang của dân tộc trong sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước; về bản chất của CQSG do Mỹ
điều khiển trong tham vọng tiêu diệt phong trào kháng chiến của nhân
dân miền Nam; về những chủ trương của Đảng các cấp trong việc lãnh
đạo phong trào cơng nhân ở các ĐTMN; về tính đúng đắn và sáng tạo
của Đảng với phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi”, “ba mũi
giáp công”, “ba vùng chiến lược” trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975); hiểu được bản chất của phong trào công nhân ở các
ĐTMN, một phong trào diễn ra trong điều kiện chiến tranh giải phóng
dân tộc, thơng qua đó thấy được tính đa dạng, phong phú về hình thức
và biện pháp đấu tranh của phong trào; về những kết quả đạt được của
phong trào trên các lĩnh vực dân sinh, dân chủ; hiểu hơn về phong trào
công nhân ở từng ngành, sự phối hợp chung của cơng nhân trong tồn
ngành, cũng như sự liên kết giữa phong trào công nhân ở các ĐTMN
với phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.
Về ý nghĩa thực tiễn, hiện nay trong sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng khởi xướng, trong đó cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa giữ vị trí then
chốt. Vì vậy, luận án góp thêm một số kinh nghiệm cho các nhà chính trị xã hội vận dụng vào việc hoạch định những chính sách đối với cơng nhân.
Mặt khác, luận án góp phần nâng cao niềm tự hào cho giai cấp công nhân,

giáo dục lịch sử truyền thống cách mạng cho công nhân để họ làm tốt
nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng đất nước theo đường
lối đổi mới của Đảng mà nhân dân ta đang thực hiện. Luận án góp phần
bổ sung tư liệu về phong trào công nhân miền Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Mặt khác, kết quả của luận án có
thể sử dụng làm tài liệu cho giáo viên, sinh viên, học sinh trong các
trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông vận dụng nghiên cứu và
2


giảng dạy lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương; góp phần vào việc
biên soạn lịch sử cơng nhân Việt Nam nói chung, cơng nhân đơ thị
trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) nói riêng.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận án là phong trào công nhân ở các ĐTMN trong
kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 đến năm 1965, trong đó tập trung
nghiên cứu mục tiêu, diễn biến, hình thức, biện pháp, kết quả các cuộc
đấu tranh của công nhân ở các ĐTMN cũng như làm rõ tính chất, đặc
điểm và ý nghĩa của phong trào công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954
đến năm 1965. Để làm rõ những nội dung này, luận án chú ý đến việc
trình bày, phân tích cơ cấu, đội ngũ, đời sống cơng nhân ở các ĐTMN
dưới chế độ Mỹ và CQSG.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, luận án nghiên cứu phong trào công nhân ở các
ĐTMN (1954-1965). Miền Nam ở đây được hiểu theo nghĩa là hai
miền Nam Bắc theo quy định Hiệp định Genève năm 1954. Tuy nhiên,
luận án chỉ tập trung nghiên cứu phong trào công nhân ở các đô thị lớn
như Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, đây là những đô
thị tiêu biểu - nơi tập trung đông đảo công nhân và diễn ra những cuộc

đấu tranh điển hình.
Về thời gian, luận án giới hạn từ năm 1954 đến năm 1965, cụ thể
là từ khi Hiệp định Genève (21-7-1954) được ký kết đến thời điểm
cuộc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản với chiến thắng Ba
Gia ở Quảng Ngãi (6-1965). Những vấn đề trình bày trong luận án
được sắp xếp theo quá trình phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục từ
năm 1954 đến năm 1965.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tái hiện bức tranh lịch sử về phong trào
công nhân ở các ĐTMN trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954
đến năm 1965 một cách có hệ thống. Kết quả nghiên cứu của luận án
góp phần cung cấp những luận cứ cho các nhà chính trị - xã hội trong
việc hoạch định chính sách đối với cơng nhân hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ những chính sách của Mỹ và CQSG, đời sống
công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm 1965, từ đó lý giải
nguồn gốc của phong trào.
3


Hai là, trình bày và phân tích những chủ trương của Đảng các cấp
đối với công nhân ở các ĐTMN. Quá trình đấu tranh, mục tiêu, hình
thức và biện pháp của phong trào công nhân ở các ĐTMN qua các giai
đoạn: 1954-1960, 1961-1965.
Ba là, phân tích, làm rõ một số tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
của phong trào công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm 1965.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tài liệu
Luận án chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các nguồn tài liệu sau đây:


- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tác phẩm của
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam viết về cách mạng
giải phóng dân tộc, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, về công
nhân và phong trào cơng nhân.
- Các cơng trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của Viện Sử học, Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử quân sự và
các chuyên khảo của tập thể các nhà nghiên cứu hoặc riêng từng nhà
nghiên cứu.
- Các tài liệu lưu trữ liên quan tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và phong trào công nhân miền Nam hiện đang lưu trữ tại Trung tâm
Lưu trữ (TTLT) Quốc gia II tại thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM), TTLT
của các thành phố Biên Hòa, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế.
- Luận án cũng chú ý tham khảo các cơng trình luận án Tiến sĩ,
luận văn Thạc sĩ và những bài viết trên các tạp chí có nội dung liên
quan đến đề tài.
- Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng một số tư liệu thu thập được
từ việc khảo sát thực địa và phỏng vấn nhân chứng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, luận án sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp logic là chủ yếu. Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng các
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích trên cơ sở khảo cứu các
nguồn tài liệu văn bản. Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp
liên ngành, kế thừa thành quả của các bộ môn khoa học khác như
chính trị học, kinh tế học,... để nghiên cứu và trình bày luận án.
5. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN ÁN
Một là, luận án là một cơng trình nghiên cứu tương đối có hệ
thống về phong trào cơng nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm
4



1965, góp phần bổ sung tư liệu cùng một số luận điểm nhằm làm rõ
hơn về lịch sử phong trào ĐTMN nói riêng và lịch sử Việt Nam cùng
khung thời gian.
Hai là, luận án làm rõ chính sách của Mỹ và CQSG đối với công
nhân ở các ĐTMN, để từ đó giải thích cho sự nảy sinh phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm
1965. Hiểu được tính dân tộc và đặc điểm phong trào công nhân ở các
ĐTMN - một phong trào diễn ra trong điều kiện chiến tranh giải phóng
dân tộc, thơng qua đó thấy được tính đa dạng, phong phú về hình thức
và biện pháp đấu tranh của phong trào.
Ba là, luận án chỉ rõ những mục tiêu đấu tranh của công nhân ở
các ĐTMN và kết quả đạt được của phong trào trên các lĩnh vực dân
sinh, dân chủ,... Hiểu hơn về sự đoàn kết đấu tranh của phong trào
công nhân ở từng ngành, công nhân các ngành, công nhân ở các
ĐTMN với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động trên
toàn miền.
Bốn là, luận án nêu bật tính chất, đặc điểm cùng những đóng góp
của phong trào cơng nhân ở các ĐTMN trong sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Luận án cịn góp phần giáo dục
truyền thống đấu tranh u nước, nâng cao niềm tự hào cho giai cấp
công nhân hiện nay, kết quả nghiên cứu của luận án có thể cung cấp
nguồn tư liệu tương đối hoàn chỉnh về phong trào công nhân ở các
ĐTMN (1954-1965).
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu (6 trang), kết luận (3 trang), tài liệu
tham khảo (26 trang), nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan (17 trang)

Chương 2: Phong trào công nhân ở các đô thị miền Nam giai
đoạn 1954-1960 (51 trang).
Chương 3: Phong trào công nhân ở các đơ thị miền Nam giai
đoạn 1961-1965 (46 trang).
Chương 4: Tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của phong trào
công nhân đô thị miền Nam từ năm 1954 đến năm 1965 (27 trang).

5


Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu về công nhân và phong
trào công nhân Việt Nam
Trước năm 1975, nghiên cứu về công nhân và phong trào công
nhân Việt Nam có các cơng trình sau:
Trần Văn Giàu (1958), Giai cấp cơng nhân Việt Nam sự hình
thành và phát triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho
mình”, Nhà xuất bản (NXB) Sự Thật, Hà Nội; Vũ Ngọc Ngun
(1959), Cơng nhân Nam Bộ trong khói lửa, NXB Lao Động, Hà Nội;
Hoàng Quốc Việt (1959), Những nét sơ lược về lịch sử phong trào
cơng nhân và cơng đồn Việt Nam 1860-1945, NXB Lao Động, Hà
Nội. Võ Nguyên (1961), Phong trào công nhân miền Nam, NXB Sự
Thật, Hà Nội; Trần Văn Giàu (1962), (1963), Giai cấp công nhân Việt
Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (19301945), (3 tập), NXB Sử Học, Hà Nội; Diệp Liên Anh (1963), Máu
trắng máu đào, NXB Lao Động Mới, Sài Gịn; Lê Ngun Khơi,
Dương Phẩm (1965), Cơng nhân miền Nam đấu tranh chống Mỹ Diệm, NXB Phổ Thông, Hà Nội; Trần Tử Bình (1965), Phú Riềng đỏ,
NXB Lao Động, Hà Nội,...
Sau năm 1975, nghiên cứu về công nhân và phong trào cơng nhân

Việt Nam có các cơng trình sau:
Cao Văn Lượng (1977), Công nhân miền Nam Việt Nam trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội; Một vài ý kiến về đội ngũ công nhân lao động miền Nam và
cơng tác cơng đồn vùng giải phóng (1978), NXB Lao Động, Hà Nội;
Ngơ Văn Hồ, Dương Kinh Quốc (1978), Giai cấp công nhân Việt
Nam trước khi thành lập Đảng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội; Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam (1995), Phong trào cơng nhân lao động
và hoạt động cơng đồn giải phóng miền Nam Việt Nam 1954-1975,
NXB Lao Động; Liên đoàn lao động Quảng Nam - Đà Nẵng (1996),
Lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân lao động và
hoạt động cơng đồn Quảng Nam - Đà Nẵng (1954-1975), NXB Đà
Nẵng; Liên đoàn Lao động tỉnh Thừa Thiên Huế (1998), Lịch sử
phong trào cơng nhân lao động và cơng đồn tỉnh Thừa Thiên Huế,
Tập 1 (1930-1975), NXB Lao động, Hà Nội; Nguyễn Thị Mộng
6


Tuyền (2009), Phong trào đấu tranh của công nhân cao su Thủ Dầu
Một trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), luận án Tiến
sĩ, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ TPHCM; Cao Văn Lượng
(1964), Vấn đề liên minh công nông trong cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
(NCLS) số 64,...
1.1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu về công nhân và phong
trào công nhân ở các đô thị miền Nam
Trần Bút (1965), Công nhân Đà Nẵng chĩa thẳng mũi nhọn đấu
tranh vào đầu bọn xâm lược Mỹ, NXB Lao Động, Hà Nội; Hữu Tuấn
(1965), Công nhân đô thị trên tuyến đầu Tổ quốc, NXB Lao Động, Hà
Nội; Lê Thị Q (1988), Nghiệp đồn Sài Gịn và phong trào cơng nhân,

NXB TPHCM; Ban Chấp hành Liên đồn Lao động TPHCM (1993),
Cơng nhân Sài Gịn - Chợ Lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, NXB
Lao Động, TPHCM; Phạm Hồng Thụy, Mỹ Hà, Đinh Thu Xuân (1998),
Lịch sử xí nghiệp liên hợp Ba Son 1863-1998, NXB Quân đội Nhân dân,
Hà Nội; Trần Xuân Thảo (2000), Phong trào đấu tranh của nữ cơng nhân
Sài Gịn - Gia Định 1954-1975, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn TPHCM; Nguyễn Thị Thu Huyền (2013), Phong
trào đấu tranh của cơng nhân Sài Gịn (1954-1975), luận văn Thạc sĩ,
Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Về các bài công bố trên các tạp chí
NCLS, tạp chí LSQS có thể kể, Cao Văn Lượng (1974), Bước đầu tìm
hiểu về cơ cấu công nhân, lao động ở các thành thị miền Nam Việt Nam
hiện nay, Tạp chí NCLS, số 159; Lê Cung (2000), Phong trào công nhân
Huế những năm đầu sau Hiệp định Genève 1954, Tạp chí NCLS, số 1; Lê
Cung (2006), Cuộc đấu tranh của công nhân ngành thủy điện miền Nam
những năm đầu sau Hiệp định Genève (1954), Tạp chí Lịch sử quân sự
(LSQS), số 2; Lê Cung (2012), Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân
sinh ở các ĐTMN Việt Nam giai đoạn 1954-1959, Tạp chí NCLS, số 4.
Tựu trung các cơng trình nghiên cứu đã giải quyết được những
vấn đề cơ bản sau:
Một là, khái quát lịch sử hình thành và phát triển đội ngũ cơng
nhân Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ trước khi thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Hai là, hầu hết các cơng trình nghiên cứu cũng chỉ ra những chính
sách thống trị trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
7


hội của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đối với cơng nhân Việt Nam; dưới
chính sách thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đời sống công nhân Việt
Nam hết sức cực khổ.

Ba là, các cơng trình đã trình bày phong trào công nhân Việt Nam
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); đồng thời, các nghiên cứu đã đưa ra
những nhận xét, đánh giá về đặc điểm phong trào công nhân Việt Nam
qua các thời kỳ.
Bốn là, một số cơng trình tuy trình bày khá chi tiết một số cuộc
đấu tranh của công nhân ở các ĐTMN thời kháng chiến chống Mỹ
nhưng chỉ giới hạn ở một số ngành, ở một số địa phương hoặc ở khung
thời gian hẹp mà thôi.
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục được nghiên cứu
Luận án nhằm hướng đến giải quyết một số nội dung sau:
- Phân tích về những âm mưu và biện pháp của Mỹ và CQSG đối
với công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm 1965.
- Trên cơ sở khai thác nguồn tư liệu từ nhiều phía, luận án luận
giải, tái hiện một cách chi tiết về mục tiêu và diễn biến phong trào
công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến 1965.
- Rút ra những tính chất, đặc điểm của phong trào công nhân ở
các ĐTMN.
- Chứng minh và khẳng định vai trị to lớn của phong trào cơng
nhân ở các ĐTMN trong việc góp phần đánh thắng các chiến lược
chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến 1965. Mặt
khác, rút ra ý nghĩa lịch sử của phong trào công nhân ở các ĐTMN;
trên cơ sở đó có thể giúp các nhà chính trị - xã hội hoạch định những
chính sách đối với giai cấp công nhân hiện nay.

8


Chương 2
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở CÁC ĐÔ THỊ MIỀN NAM

(1954-1960)
2.1. Khái quát truyền thống đấu tranh của công nhân miền Nam
trước năm 1954
Phong trào công nhân miền Nam trước năm 1954, thu hút hầu
hết công nhân các ngành và nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, phong
trào công nhân đã gắn mục tiêu đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân
chủ với mục tiêu đấu tranh chống thực dân Pháp, bảo vệ độc lập, tự
do của Tổ quốc, phong trào đã sử dụng nhiều hình thức đấu tranh
phong phú như bãi cơng, đình cơng, lãn cơng,… với mục tiêu cụ thể
như đòi tăng lương, bớt giờ làm, chống sa thải, chống đánh đập,…
thiết thực góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm đối với
cơng nhân ở các đơ thị miền Nam (1954-1960)
2.2.1. Khái qt về tình hình miền Nam Việt Nam (1954-1960)
Thực hiện chủ trương của Mỹ, sau khi nắm lấy chính quyền
ở miền Nam (7-7-1954), một mặt, CQNĐD từ chối hiệp thương tổng
tuyển cử, từ chối việc tái lập quan hệ bình thường giữa hai miền Nam
- Bắc; tổ chức tuyển cử riêng rẽ, bầu cử Quốc hội Lập hiến (4-31956), ban hành Hiến pháp (26-10-1956), lập đảng Cần Lao nhân vị,
… Mặt khác, CQNĐD ra sức khủng bố những người tán thành hịa
bình, những người tham gia kháng chiến và những người đấu tranh
đòi thi hành Hiệp định Genève. Đó là những nguyên nhân sâu xa dẫn
đến phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam.
2.2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm đối
với cơng nhân ở các đơ thị miền Nam
2.2.2.1. Về tư tưởng - chính trị
Hệ tư tưởng của CQNĐD là chủ nghĩa nhân vị. Đối với công
nhân ở các ĐTMN, Mỹ và CQNĐD mở các lớp huấn luyện để tuyên
truyền và phổ biến “lý tưởng nghiệp đoàn Thiên Chúa giáo”. Bên
cạnh tuyên truyền tư tưởng Thiên Chúa giáo, Mỹ và CQNĐD còn
tuyên truyền thuyết “lao tư lưỡng đồng, lưỡng lợi”, “hòa hợp giai

cấp”, “dân chủ” hay chủ trương “thăng tiến cần lao”.
Về chính trị, dưới chế độ Mỹ và CQNĐD, quyền tự do của công
nhân bị xâm phạm. Nguy hiểm và thâm độc hơn, Mỹ và CQNĐD
lũng đoạn các tổ chức nghiệp đồn cịn lại, thực hiện chủ trương “lấy
9


phong trào để phá phong trào, nắm nghiệp đoàn để nắm quần
chúng”.
2.2.2.2. Về kinh tế
Cùng với sự phát triển công nghiệp, đội ngũ công nhân ở các
ĐTMN tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là ở các ngành cơng nghiệp
nhẹ (dệt, thực phẩm) hoặc xây dựng, vận tải được kích thích bởi
những đơn đặt hàng của các cơ quan hậu cần Mỹ và CQNĐD.
2.2.2.3. Về văn hoá - xã hội
Mục tiêu của chính sách văn hóa của Mỹ và CQNĐD là tạo ra mặt
“tích cực” để lơi kéo cơng nhân vào guồng quay của một nền văn hóa
mới - nền văn hóa Mỹ, từ đó biến cơng nhân ở các ĐTMN thành cơng cụ
thực hiện chính sách thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam.
2.3. Đội ngũ và đời sống công nhân ở các đô thị miền Nam (1954-1960)

2.3.1. Đội ngũ cơng nhân ở các đơ thị miền Nam
Những chính sách về kinh tế của Mỹ và CQNĐD đã tác động
đến công nhân ở các ĐTMN mà trước hết là số lượng cơng nhân
ngày càng tăng. Sự phát triển đó khơng theo quy luật kinh tế mà theo
yêu cầu của chiến tranh.
2.3.2. Đời sống công nhân ở các đô thị miền Nam
2.3.2.1. Thời gian và điều kiện lao động
Để bóc lột công nhân lao động, giới chủ thường kéo dài thời
gian làm việc đến mức phải báo động [250; tr. 10]. Khơng chỉ bị bóc

lột bởi thời gian lao động mà cơng nhân ở các ĐTMN cịn làm việc
với điều kiện hết sức tồi tệ [68; tr. 2].
2.3.2.2. Tình trạng thất nghiệp
Điều dễ nhận thấy ở các ĐTMN sau ngày đình chiến là nạn thất
nghiệp diễn ra khá phổ biến trong các xí nghiệp, nhà máy.
2.3.2.3. Lương cơng nhân
Thu nhập từ tiền lương không theo kịp giá cả thực phẩm và hàng
tiêu dùng hàng ngày. Bên cạnh đó là thuế má và phạt vạ rất nặng nề.
2.4. Diễn biến phong trào công nhân ở các đô thị miền Nam
(1954-1960)
2.4.1. Chủ trương của Đảng
Trong giai đoạn 1954-1960, Đảng chú ý tập trung vào hướng lợi
dụng các tổ chức nghiệp đồn cơng khai, đồng thời phát triển hình
thức rộng rãi bán hợp pháp để vận động, tập hợp công nhân từng
bước đấu tranh chống Mỹ và CQNĐD.
2.4.2. Diễn biến phong trào
10


2.4.2.1. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân sinh
Ngay sau Hiệp định Genève (1954), phong trào đấu tranh vì
mục tiêu dân sinh của công nhân ở các ĐTMN diễn ra sôi nổi, đều
khắp các đô thị lớn miền Nam như Sài Gòn - Chợ Lớn, Biên Hòa, Đà
Nẵng, Huế, thu hút công nhân nhiều ngành tham gia.
Mở đầu là cuộc đình cơng của 30.000 cơng nhân và thợ thuyền nhà
binh Pháp cuối năm 1954, đòi sửa đổi về lương bổng, đòi trả tiền truy
cấp, tiền Tết và hưởng lương khi bị sa thải. Hưởng ứng cuộc đấu tranh
này, ngày 7-12-1954, cơng nhân Biên Hịa tổng bãi cơng ủng hộ [238; tr.
151]. Ngày 4-1-1955, đại diện chính phủ Pháp phải nhượng bộ, công
nhân được tăng lương và lãnh tiền truy cấp [238; tr. 151].

Song song với cuộc đấu tranh công nhân và thợ thuyền nhà binh
Pháp là cuộc đấu tranh của công nhân lái xe tuyến đường Đông Ba Bao Vinh Huế [217; tr. 2].
Ngày 10-11-1955, toàn thể đoàn viên nghiệp đồn cơng nhân
hỏa xa Việt Nam địa phương Huế họp phiên bất thường tại ga Huế.
Tiếp theo cuộc đấu tranh của cơng nhân hỏa xa Huế, ngày 24-111955, tồn thể cơng nhân Sở thủy điện Đà Nẵng đình cơng [183; tr.
3]. Cuộc đình cơng làm cho điện trong thành phố bị cúp 2 ngày. Song
song với cuộc đấu tranh của cơng nhân ngành thủy điện, ở Sài Gịn,
ngày 23-3-1956, Nghiệp đoàn tài xế taxi cũng tiến hành đại hội phản
đối lệnh đóng thuế đặc biệt về xăng dầu [174; tr. 1].
Khi cuộc đấu tranh của công nhân thủy điện Huế, cơng nhân tài
xế taxi Sài Gịn chưa kết thúc, ngày 26-3-1956, 800 công nhân Nhà
máy đèn Chợ Quán cũng đình cơng chống chủ sa thải và khủng bố 3
cơng nhân. Cuộc bãi công kéo dài 2 ngày làm cho cả thành phố Sài
Gòn - Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hịa, khơng có điện, nước, mọi hoạt
động cơng nghiệp bị đình đốn; các rạp hát, rạp chiếu bóng phải đóng
cửa; sáu tờ báo hằng ngày không ra được; đài phát thanh phải im lặng
48 tiếng đồng hồ. Trước tình hình đó, Ngơ Đình Diệm phải đồng ý
thu nhận những cơng nhân đã bị sa thải [32; tr. 93].
Ngày 13-5-1956, công nhân khuân vác kho 5 bến tàu Nhà Rồng
đồng loạt đình cơng địi hãng Stic điều chỉnh lương [182; tr. 2].
Tiếp theo cuộc đình cơng của cơng nhân cơng nhân khuân vác
kho 5 bến tàu Nhà Rồng là cuộc đấu tranh của công nhân hãng dầu
Standard Vacuum Oil ngày 19-7-1956 yêu cầu Ban Giám đốc giải
quyết các yêu sách: “Chỉnh đốn lương bổng; y tế; trả lương giờ phụ
trội” [140; tr. 12].
11


Khi cuộc đấu tranh của công nhân hỏa xa đang diễn ra quyết liệt
thì cuộc bãi cơng địi tăng lương của trên 3.500 cơng nhân cảng Sài

Gịn ngày 24-1-1957 tiếp diễn. Cuộc đình cơng làm cho bến tàu Sài
Gịn hồn toàn tê liệt, buộc chủ hãng phải chấp nhận tăng lương 15%
cho cơng nhân [178; tr. 115].
Ngày 8-1-1958, Nghiệp đồn công nhân vô tuyến viễn thông
họp để lấy quyết nghị đình cơng truy tố Ban Giám đốc đã chặn bớt
lương của công nhân và dùng lời lẽ đàn áp, mạt sát công nhân [112;
tr. 1]. Tiếp theo cuộc đấu tranh của công nhân vô tuyến viễn thông,
ngày 25-5-1958, 170 đại biểu cơng nhân của 150 xưởng dệt Sài Gịn Chợ Lớn và Gia Định.
Tiêu biểu nhất trong năm 1959 là cuộc đấu tranh của công nhân
hãng dầu Shell. Ngày 15-10-1959, hơn 500 cơng nhân của hãng nhất
loạt đình cơng để phản đối việc chủ tư bản Mỹ sa thải công nhân.
Sang năm 1960, phong trào vì mục tiêu dân sinh của công nhân
ở các ĐTMN vẫn tiếp tục diễn ra. Một số cuộc đấu tranh tiêu biểu
như ngày 7-1-1960, 200 cơng nhân hãng Ơ tơ bt họp đại hội đấu
tranh đưa u sách địi tiền thưởng, tiền cơng những giờ làm thêm và
phụ cấp gia đình. Sau bốn ngày đấu tranh, chủ hãng đã đồng ý những
yêu sách của công nhân [178; tr. 140].
2.4.2.2. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân chủ
Trước tình trạng Mỹ và CQNĐD bắt bớ, đàn áp, chia rẽ cơng nhân,
quyền tự do nghiệp đồn bị vi phạm, công nhân ở các ĐTMN đã đứng
lên đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong ngày Quốc tế Lao
động 1-5-1955, công nhân các thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, Biên Hòa,
Đà Nẵng, Huế đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình địi tự do hội
họp, tự do ngôn luận, chống đàn áp, khủng bố [32; tr. 92].
Ngày 1-2-1956, Thường vụ Chi đoàn Hỏa xa ga Sài Gịn đã gởi
cơng văn đến Thường vụ Liên đồn Trung ương Cơng chức Cách
mạng Quốc gia (Sài Gịn) nêu rõ tình trạng Nha Giám đốc hỏa xa độc
quyền, khủng bố đồn viên, bóp nghẹt đời sống cơng nhân về tinh
thần [73; tr. 3].
Tiếp theo, ngày 21-6-1956, Liên hiệp nghiệp đồn địa phương Chợ

Lớn gởi cơng văn đến CQNĐD vạch rõ quyền tự do nghiệp đoàn đã bị
xâm phạm bởi những hành động trắng trợn, nhục mạ, bắt cóc đàn áp tra
tấn các cán bộ nghiệp đồn của chính quyền Thủ Dầu Một [138; tr. 1].
Ngày Quốc tế Lao động 1-5-1957, mặc dù CQNĐD ra lệnh cấm
biểu tình, nhưng tại Sài Gịn, đơng đảo quần chúng, trong đó đa phần
12


là cơng nhân tỏa ra các ngả đường biểu tình, nêu cao khẩu hiệu địi
quyền lợi, trong đó có quyền “Tự do nghiệp đồn”.
Ngày 22-10-1958 trong điện tín số 2035 của Tổng Liên đồn
Lao động Việt Nam (Sài Gịn) u cầu Ngơ Đình Diệm: “Cứu xét số
đồn viên Tổng Liên đồn bị bắt, khơng có hành động phá hoại an
ninh cơng cộng Quốc gia mà bị tình nghi hoặc bị khai cử vì tư thù.
Tổng Liên đồn xin Tổng thống cho họ về, hoặc cho Tổng Liên đoàn
xin lãnh họ về đồn tụ với gia đình” [230; tr. 2].
2.4.2.3. Phong trào đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định
Genève và chống chính sách “tố Cộng”
Tại Sài Gịn - Chợ Lớn ngày 1-8-1954, 50.000 đồng bào, phần đông là
công nhân nhà đèn, bến cảng, công nhân làm việc trong các đơn vị hậu cần
của Pháp và các tầng lớp khác, biểu tình. Đồn biểu tình vừa đi vừa hoan hơ
hịa bình, giương cao các biểu ngữ đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định
Genève. Cũng trong ngày (1-8-1954), tại Đà Nẵng, phong trào đấu tranh địi

thi hành Hiệp định Genève của cơng nhân hỏa xa diễn ra sôi nổi [134;
tr. 21]. Sang năm 1956, cuộc đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử
của công nhân ở các ĐTMN vẫn tiếp diễn sôi nổi. Trong tháng 4, 51956, ở Sài Gòn bùng lên đợt đấu tranh cơng khai địi hiệp thương tổng
tuyển cử, dẫn đến cuộc mít tinh 200.000 người trong ngày Quốc tế Lao
động 1-5-1956 dưới khẩu hiệu “Thống nhất nước nhà bằng phương
pháp hịa

bình”, “Nước Việt Nam độc lập và thống nhất vạn tuế” [2].
Đi đơi với phong trào đấu tranh địi thi hành Hiệp định Gèneve,
đòi hiệp thương tổng tuyển cử và đấu tranh đòi quyền lợi về dân sinh
và dân chủ, công nhân ở các ĐTMN tham gia đấu tranh chống chính
sách “tố Cộng” của Mỹ và CQNĐD.
Ở Đà Nẵng, Mỹ và CQNĐD đưa một số phần tử phản động đứng ra
“tố Cộng” hoặc tuyên bố ly khai, xé cờ Đảng hay kêu gọi cán bộ,
đảng viên ra hàng cố làm cho quần chúng hoang
mang, dao
động. Nhưng, hầu hết công nhân Đà Nẵng vẫn kiên định
lập trường. Tiêu biểu là công nhân khuân vác cảng Đà Nẵng đào hầm,
che chở các đồng chí đảng viên bám cơ sở, xây dựng phong trào.
[134; tr. 40-41].
Tháng 5-1959, khi Mỹ và CQNĐD ban hành Luật “10-59” đặt
cộng sản ra ngồi vịng pháp luật, ở cơng xưởng Ba Son, CQNĐD buộc
nghiệp đồn giải tán, phong trào công nhân tạm thời lắng xuống, phản
ứng của công nhân lúc này là cáo ốm, không dự học, hoặc nếu

13


đến lớp thì gây ồn ào, mất trật tự, một số cơng nhân lợi dụng sơ hở
của “thuyết trình viên” để chất vấn, đấu lý,… [211; tr. 251- 252].
Chương 3
PHONG TRÀO CƠNG NHÂN Ở CÁC ĐƠ THỊ MIỀN NAM
(1961-1965)
3.1. Chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gịn đối với công
nhân ở các đô thị miền Nam (1961-1965)
3.1.1. Khái quát về tình hình miền Nam Việt Nam (1961-1965)
Để tiếp tục giữ vững miền Nam trong quỹ đạo của Mỹ, năm

1961, sau khi bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Kennedy đã
quyết định loại bỏ chiến lược “trả đũa ồ ạt” và chấp nhận chiến lược
quân sự “phản ứng linh hoạt” toàn cầu mới do Maxwell Taylor đề
xướng. “Chiến tranh đặc biệt” là một trong ba loại hình chiến tranh
của chiến lược “phản ứng linh hoạt”. Song những âm mưu và hành
động của Mỹ và CQNĐD không cản được bước tiến của cách mạng
miền Nam. Trên cả hai mặt quân sự và chính trị, quân và dân miền
Nam liên tục tiến cơng và giành được những thắng lợi có ý nghĩa
chiến lược.
3.1.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gịn đối với
công nhân ở các đô thị miền Nam
3.1.2.1. Về tư tưởng - chính trị
Về mặt tư tưởng, CQSG tiếp tục truyền bá tư tưởng cần lao nhân
vị trong công nhân miền Nam. Mỹ và CQSG còn cho bọn tay sai
trong Tổng Liên đồn Lao cơng xuất bản thường xun nội san báo
chí cơng nhân để tun truyền các luận điệu phản động như: “Tư bản
nhân dân”, “hịa bình giai cấp”, “hợp tác giai cấp”, “hữu sản hóa
vơ sản”.
Về chính trị, để mua chuộc công nhân ở các ĐTMN, một mặt,
Mỹ và CQSG đẩy mạnh chính sách lơi kéo cơng nhân tham gia vào
các tổ chức như đảng Cần lao nhân vị, nghiệp đoàn vàng,... Ngoài ra,
chúng sử dụng một số tay sai trong các tổ chức nghiệp đoàn chui vào
phong trào công nhân để tiến hành những hoạt động chia rẽ, phá
hoại, tiếp tục phương châm “lấy phong trào, phá phong trào, nắm
nghiệp đoàn để nắm quần chúng”.
3.1.2.2. Về kinh tế
Để thực hiện “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ tăng cường viện trợ cho
CQSG với hai hình thức chủ yếu viện trợ kinh tế và viện trợ quân
14



sự. Chỉ trong năm 1963, Mỹ viện trợ kinh tế cho CQSG là 175 triệu
USD. Bên cạnh “viện trợ”, Mỹ và CQSG cịn đề ra một số chính
sách nhằm thúc đẩy nền công nghiệp miền Nam phát triển trong
guồng quay của chủ nghĩa thực dân mới và phục vụ trực tiếp cho
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
3.1.2.3. Về văn hóa - xã hội
Sống dưới chế độ Mỹ và CQSG, công nhân miền Nam chịu sự
tác động của thuyết hiện sinh, sống gấp, sống vội, đồi trụy mê hoặc
họ trong mơi trường tràn ngập văn hóa Mỹ từ sách báo đến phim ảnh,
hàng nội cũng như hàng ngoại tất cả đều xoay quanh chủ đề cao bồi,
tình ái, nhất là mục tiêu chiến tranh, “chống Cộng”.
3.2. Đội ngũ và đời sống công nhân ở các đô thị miền Nam (1961-1965)

3.2.1. Đội ngũ công nhân ở các đô thị miền Nam
Những chính sách về kinh tế, nhất là những chính sách về công
thương nghiệp làm cho số lượng công nhân ngày càng gia tăng.
3.2.2. Đời sống công nhân ở các đô thị miền Nam
3.2.2.1. Thời gian và điều kiện lao động
Tình trạng bóc lột cơng nhân tinh vi thơng qua việc tăng giờ lao
động đã trở thành hiện tượng phổ biến. Bên cạnh đó, tai nạn lao động
thường xun rình rập, đe dọa đến cuộc sống công nhân và đẩy nhiều
gia đình cơng nhân vào cảnh tang thương, cùng quẫn.
3.2.2.2. Tình trạng giải cơng, sa thải và thất nghiệp
Tình trạng giải công, sa thải và thất nghiệp là mối đe dọa thường
xuyên đối với đời sống công nhân ở các ĐTMN giai đoạn 1961-1965.
3.2.2.3. Lương công nhân
So với giai đoạn 1954-1960, giai đoạn 1961-1965 lương cơ bản
của công nhân các ĐTMN hầu như không tăng.
3.3. Diễn biến phong trào công nhân ở các đô thị miền Nam (1961-1965)


3.3.1. Chủ trương của Đảng
Một là, Đảng đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng tổ chức,
đồn ngũ hóa cơng nhân trước lúc tiến hành các cuộc đấu tranh. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ I (tháng 10-1961)
chỉ rõ: “Tiến hành tổ chức các đồn thể cách mạng trong cơng nhân,
nhân dân lao động” và về mặt võ trang: “Xây dựng lực lượng ngầm
ở cơ quan, xí nghiệp” [101; tr. 627-628].
Hai là, Đảng đề ra chủ trương cần thiết phải thành lập Ban Công
vận. Ba là, song song với việc xây dựng, tổ chức HLĐGP và thành
lập Ban Công vận, đối với phong trào công nhân ở các ĐTMN giai
15


đoạn 1961-1965, Đảng đặc biệt chú trọng đến việc đề ra những chủ
trương thích hợp.
3.3.2. Diễn biến phong trào
3.3.2.1. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân sinh
Mở đầu là cuộc đình cơng của 400 cơng nhân hãng Savon ngày
6-3-1961 đòi thỏa mãn lương bổng và chấm dứt việc sa thải công
nhân vô cớ [163; tr. 4].
Ngày 6-9-1961, công nhân hãng dầu Stanvac đình cơng. Cuộc
đình cơng của cơng nhân hãng dầu Stanvac được sự đồng tình, ủng
hộ của hàng vạn cơng nhân cao su Biên Hồ, Thủ Dầu Một, trên 100
nghiệp đồn ở Sài Gịn - Chợ Lớn, 40.000 lái xe và bà con nơng dân.
Một số báo chí ở Sài Gịn cũng chỉ trích thái độ của chủ hãng
Stanvac. Nối tiếp cuộc đấu tranh của công nhân hãng Stanvac, ngày
11-11-1961, công nhân tài xế taxi mướn xe của ơng Lê Văn Lượm
đình cơng địi chủ hãng thâu nhận tài xế Huỳnh Văn Bình bị thu hồi
xe trước đó 3 tháng [60; tr. 3].

Sang năm 1962, phong trào công nhân ở các ĐTMN vì mục tiêu
dân sinh tiếp tục diễn ra. Mở đầu là cuộc đấu tranh của công nhân
xích lơ, cuối tháng 2-1962. Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của
cơng nhân, Đơ trưởng Sài Gịn - Chợ Lớn phải thu hồi giấy phép
chuyên chở nói trên của hãng Vinaco [249; tr. 66].
Sang năm 1963, khí thế phong trào cơng nhân ở các ĐTMN được
nâng lên. Hàng nghìn cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân sinh tiếp tục diễn
ra. Tại Sài Gịn, cuộc đấu tranh của Nghiệp đồn cơng nhân Autobus
(thuộc Tổng Liên đồn Lao cơng Việt Nam) diễn ra quyết liệt.
Tại Đà Nẵng, ngày 10-11-1963, hòa nhịp cùng với phong trào
của công nhân miền Nam nhất là được kích thích bởi sự sụp đổ của
CQNĐD (1-11-1963), 38 nữ cơng nhân hãng dệt Sicovina Hịa Thọ
đấu tranh địi tăng lương. Cuối năm 1963, 1.800 công nhân hãng dệt
Vimytex (thuộc phân bộ của nghiệp đồn thợ dệt Sài Gịn - Chợ Lớn
và Gia Định trong hệ thống Tổng Liên đồn Lao cơng Việt Nam) tiến
hành đình cơng.
Ngày 7-1-1964, khoảng 300 cơng nhân hãng dệt Thanh Hịa (Gia
Định) đình cơng [270; tr. 10]. Khi cuộc đấu tranh của công nhân dệt
Thanh Hịa chưa kết thúc, ngày 14-1-1964, khoảng 2.000 cơng nhân
hãng dệt Vinatexco và xưởng nhuộm Vinatefinco tiếp tục đình công
[278; tr. 2]. Dưới áp lực đấu tranh của công nhân và dư luận, Mỹ và
CQSG buộc phải trả tự do cho những người bị bắt và chủ hãng
16


phải chấp nhận tăng lương từ 6% đến 8%, đồng thời mở lại cửa
xưởng cho công nhân đi làm. Tại Đà Nẵng, để ủng hộ cuộc đấu tranh
của công nhân Vinatexco, ngày 17-1-1964, 900 cơng nhân dệt Hịa
Thọ đã liên tiếp đấu tranh địi tăng lương, địi tuyển dụng chính thức,
đòi phát tiền trước Tết và tiền phép cuối năm [134; tr. 68].

Hịa trong khơng khí cuộc đấu tranh của cơng nhân dệt
Vinatexco, cùng ngày (17-1-1964), tồn thể cơng nhân tài xế taxi
(thuộc nghiệp đồn cơng nhân tài xế taxi Sài Gòn) tổ chức đại hội và
gởi 12 nguyện vọng đến Chính phủ VNCH. Theo phiếu trình ngày
13-10-1964 của Ban Lãnh đạo Lâm thời Quốc gia và Quân lực thì 6
nguyện vọng trên đã được Đô trưởng giải quyết gần như trọn vẹn
thuộc phạm vi Đô Thành [7; tr. 9].
Khi cuộc đấu tranh của công nhân tài xế taxi Sài Gòn chưa kết
thúc, ngày 5-10-1964, nhân lúc chủ nhà máy Dofitex Biên Hịa sa
thải 22 cơng nhân [238; tr. 178]. Cuộc đấu tranh của cơng nhân
Dofitex góp phần thúc đẩy phong trào cơng nhân trong tồn Khu Kỹ
nghệ Biên Hịa.
Sang năm 1965, tuy phong trào công nhân ở các ĐTMN, về mặt
công khai chưa sôi động như các phong trào khác ở miền Nam,
nhưng ngày càng vươn lên trở thành lực lượng nòng cốt trong phong
trào đấu tranh ở ĐTMN, tiếp tục góp phần đánh bại âm mưu thủ đoạn
mới của Mỹ và CQSG. Tiêu biểu là cuộc lãng công ngày 17-1-1965
của công nhân nhà máy xay lúa số 277 Bến Bình Đơng địi chủ hãng
trả 8 ngày nghỉ có lương trong năm 1964.
3.3.2.2. Phong trào cơng nhân vì mục tiêu dân chủ
Mở đầu là cuộc đấu tranh bảo vệ nghiệp đồn của anh chị em
cơng nhân thuộc Tổng Liên đoàn Lao động quyết giành lại tổ chức và
trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam từ tay Trần Kim Tuyến,
Lê Đình Cư. Kết quả, Nguyễn Văn Của, Lê Văn Thốt, Đặng Đức
Hào vẫn giành được đại đa số phiếu bầu.
Tiếp theo, ngày 9-10-1961, Nghiệp đồn cơng nhân Ơ tô buýt
(thuộc công quản chuyên chở công cộng dưới hệ thống Tổng Liên
đồn Lao cơng Việt Nam) tổ chức đại hội bất thường tại trụ sở Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam (197 Lý Thái Tổ, Sài Gòn). Đại hội đã
bầu được Ban Chấp hành mới và chấm dứt lúc 23 giờ 10.

Ngày 17-2-1962, 800 công nhân hãng dệt Vimytex bãi công
chống hành động khủng bố của chủ tư bản và tay sai [249; tr. 69].
17


Cuối tháng 8-1962, cuộc đấu tranh của công nhân Vimytex chống
chủ Mỹ đuổi thợ lại một lần nữa bùng nổ. Ngày 27-8-1962, chủ hãng
buộc phải thu nhận những công nhân đã bị sa thải [249; tr. 70].
Tại Huế, ngày 7-5-1963, khi cảnh sát hạ cờ Phật giáo trong ngày
Lễ Phật Đản, lên án hành động này của CQNĐD ngay lập tức ngày
8-5-1963, công nhân thành phố Huế cùng với Tăng ni, Phật tử liên
tiếp biểu tình, tuần hành trên các đường phố, đưa yêu sách tới Tòa
Tỉnh trưởng đòi chấm dứt kỳ thị tôn giáo và những hành động chà
đạp tín ngưỡng [135; tr. 149]. Để ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật
giáo Huế, tại Đà Nẵng công nhân kết hợp với Tăng ni, Phật tử biểu
tình mặc cho CQNĐD rải lính canh gác, tung mật vụ, cảnh sát ngăn
cản [134; tr. 61].
Sang năm 1964, phong trào công nhân ở các ĐTMN vì mục tiêu
dân chủ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt hơn, đặc biệt là những
cuộc đấu tranh của công nhân ngành vận tải, ngành dệt. Công nhân tổ
chức tuần lễ tẩy chay khơng chở Mỹ, đón đánh Mỹ trên đường phố,
nhiều quán treo bảng không tiếp Mỹ khiến nhiều lính Mỹ khơng dám
ra đường [120; tr. 346].
Với mục tiêu dân chủ, công nhân ở các ĐTMN không chỉ dừng
lại đấu tranh với những nội dung đơn thuần, mà phong trào công
nhân ở các ĐTMN giai đoạn 1961-1965 còn thể hiện rõ ý thức dân
tộc, vạch mặt tính chất phản dân tộc của các CQSG và cả “có ý
nghĩa chống Mỹ rõ rệt” [256; tr. 92].
Ngày 30-1-1964, Nguyễn Khánh lên nắm chính quyền, đến ngày
16-8-1964, Nguyễn Khánh cho ra đời “Hiến chương Vũng Tàu”.

Chống “Hiến chương Vũng Tàu”, phong trào công nhân ở các
ĐTMN phản ứng mau lẹ. Tiếp đến, ngày 25-10-1964, Phan Khắc Sửu
được cử giữ chức Quốc Trưởng và Trần Văn Hương được chọn làm
Thủ tướng (31-10-1964). Chính phủ Trần Văn Hương khơng tránh
khỏi mũi nhọn của phong trào của công nhân ở các ĐTMN, nổi bật
nhất là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế.

18


Chương 4
TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Ở CÁC ĐÔ THỊ MIỀN NAM
(1954-1965)
4.1. Tính chất của phong trào
4.1.1. Tính chất dân tộc
Phong trào cơng nhân ở các ĐTMN (1954-1965), mang đậm tính
chất dân tộc, thể hiện trước hết là sự tham gia đông đảo của công
nhân nhiều ngành; công nhân đấu tranh hưởng ứng chủ trương của
Trung ương Đảng sau Hội nghị Genève (21-7-1954); khẩu hiệu đấu
tranh nhằm trực tiếp vào Mỹ và CQSG.
4.1.2. Tính chất dân chủ và dân sinh
Trên lĩnh vực dân sinh, nhằm địi cải thiện đời sống, chống chính sách
bần cùng hóa của Mỹ và CQSG, cơng nhân ở các ĐTMN đã đấu tranh xoay
quanh các khẩu hiệu thiết thực như: đòi tăng lương, đòi ngày làm tám giờ,
chống sa thải, chống giải cơng, địi tiền thưởng Tết, tiền phụ trội, đòi cải
thiện điều kiện làm việc, phản đối tăng thuế và phạt vạ,...

Về mục tiêu dân chủ của phong trào công nhân ở các ĐTMN
(1954-1965) hết sức phong phú, trong đó nổi bật là địi quyền tự do

nghiệp đoàn; đấu tranh phản đối bắt bớ, tra tấn, đấu tranh bảo vệ
nghiệp đồn; đấu tranh địi tách khỏi nghiệp đoàn cũ để thành lập
nghiệp đoàn mới nhằm lành mạnh hóa nghiệp đồn của mình khơng
để những phần tử xấu lợi dụng; đấu tranh chống lại luật cấm đình
cơng và hội họp của CQSG,…[120; tr. 347].
4.2. Đặc điểm của phong trào
4.2.1. Quy mô rộng lớn, sự liên tục và quyết liệt của phong trào
Về quy mô rộng lớn của phong trào, đặc điểm này được thể hiện
trước hết là ở mặt không gian và thời gian; lực lượng tham gia; sự
ủng hộ rộng rãi của nhân dân miền Bắc và nhân dân thế giới; báo chí
tiến bộ miền Nam [178; tr. 112].
Sự liên tục của phong trào công nhân ở các ĐTMN được thể
hiện rõ khi cuộc đấu tranh của công nhân ngành này vừa kết thúc đã
dấy lên cuộc đấu tranh công nhân ngành khác [202; tr. 3], [164;
tr.101]. Có lúc cùng một thời gian nhưng diễn ra cuộc đấu tranh của
công nhân nhiều ngành hoặc nhiều đô thị, có sự hưởng ứng của cơng
nhân đơ thị khác hoặc đấu tranh độc lập. Mặt khác, số lượng các cuộc
đấu tranh năm sau cao hơn năm trước [22].
19


4.2.2. Hình thức và phương pháp đấu tranh phong phú, linh
hoạt Phong trào công nhân ở các ĐTMN (1954-1965) đã xuất hiện
nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, có thể kể như: họp đại hội, đưa
yêu sách, kiến nghị, mạn đàm, gây dư luận, lãng cơng và tiến lên
đình cơng hoặc kết hợp với bãi cơng, biểu tình thị uy. Phong trào
công nhân ở các ĐTMN từ năm 1954 đến năm 1965 thể hiện tính
chiến đấu và tính năng động sáng tạo khá cao trong việc lợi dụng thế
công khai hợp pháp cũng như đấu tranh bán hợp pháp và bất hợp
pháp.

4.2.3. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơng nhân các ngành ở
các đô thị; giữa công nhân đô thị với công nhân đồn điền cùng
giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân miền Nam
Tác dụng của phong trào công nhân ở các ĐTMN (1954-1965)
đối với các phong trào của các tầng lớp nhân dân, từ nông thơn đến
thành thị đã khẳng định vị trí của cơng nhân ở các ĐTMN trong
phong trào cách mạng miền Nam.
4.3. Ý nghĩa của phong trào
4.3.1. Phong trào chứng minh tinh thần đấu tranh bất khuất
của công nhân ở các đô thị miền Nam trong tinh thần đấu tranh
dân tộc
4.3.2. Phong trào chứng minh tính đúng đắn của phương
châm đấu tranh “hai chân, ba mũi”, “ba mũi giáp công”, “ba
vùng chiến lược” trong cách mạng miền Nam
Xét toàn cục tương quan lực lượng giữa ta và địch, thì về quân
sự địch mạnh hơn ta, nhưng về chính trị thì Mỹ và CQSG yếu hơn ta
rất nhiều, chỗ yếu này không khắc phục được và ngày càng khoét
sâu. Nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để chiến thắng một đối thủ
có tiềm lực quân sự và kinh tế đứng đầu các nước tư bản chủ nghĩa,
cách mạng miền Nam (1954-1975), đề ra phương châm đấu tranh
“hai chân, ba mũi”, “ba mũi giáp công”, “ba vùng chiến lược”.
4.3.3. Phong trào công nhân ở các đơ thị miền Nam góp phần
làm rối loạn hậu phương của Mỹ và chính quyền Sài Gịn, tạo
điều kiện cho cách mạng miền Nam phát triển
Phong trào đô thị nói chung, phong trào cơng nhân nói riêng mỗi
khi diễn ra đã góp phần làm rối loạn hậu phương của Mỹ và CQSG
và một khi như thế, lực lượng cách mạng khơng chỉ có điều kiện phát
triển ở đơ thị mà ngay cả nông thôn đồng bằng và rừng núi.

20



4.3.4. Phong trào góp phần làm phong phú thêm những bài
học kinh nghiệm đối với sự nghiệp giữ nước và dựng nước của
dân tộc
4.3.4.1. Mục tiêu và khẩu hiệu đấu tranh cụ thể
Đối với giai cấp công nhân mục tiêu giải phóng giai cấp là cần
thiết, tuy nhiên, mục tiêu giải phóng giai cấp gắn liền với sự nghiệp
giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp cơng nhân đặt trong lợi ích tối cao
của dân tộc.
4.3.4.2. Sự đồn kết, thống nhất, kiên trì đấu tranh
Trong điều kiện Mỹ và CQSG khống chế, kìm kẹp, đàn áp,
trong lúc bản thân cơng nhân đang gặp nhiều khó khăn trong đời
sống. Sỡ dĩ phong trào cơng nhân vẫn được duy trì như vậy, trước hết
là nhờ tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong đấu tranh.
4.3.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ hạn chế của
phong trào
Một là, sau khi Hiệp định Genève ký kết (21-7-1954), một bộ
phận đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đúng về bản chất của Mỹ
và CQNĐD, họ cho rằng có hiệp định Genève tất nhiên sẽ có hịa
bình, do nhận thức như vậy nên có nơi, có lúc trong cơng tác giáo
dục, vận động và chỉ đạo của tổ chức Đảng các cấp chưa kịp thời nên
phong trào công nhân ở các ĐTMN chưa tạo được sự phối hợp rộng
rãi, chặt chẽ. Một số cuộc đấu tranh diễn ra còn lẻ tẻ, rời rạc chưa
giành được thắng lợi như mục tiêu đã đề ra.
- Hai là, đối với phong trào cơng nhân, vai trị của tổ chức cơng
đồn là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế cho đến năm
1960, tổ chức công đồn cách mạng chưa được hình thành trên quy
mơ tồn miền Nam. Chủ yếu, cơng đồn cách mạng mới phát triển
được ở một số đồn điền cao su và một số ít ở đơ thị, hoạt động bí

mật.

21


×