Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tài liệu Đề tài: Nghiên cứu hệ thống dạng lịch sử pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 93 trang )










Đề tài
Nghiên cứu hệ thống
dạng lịch sử






MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay đã lãnh đạo nhân dân ta
đấu tranh giành thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; thắng
lợi của các cuộc chiến tranh giữ nước, giải phóng dân tộc; thắng lợi to lớn của sự
nghiệp xây dựng đất nước, đưa nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có được những thắng lợi đó là do trong Đảng ta có
rất nhiều cán bộ, đảng viên ta anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ
đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang. Đảng ta đã đào tạo được một thế
hệ cán bộ cách mạng… rất hăng hái, dũng cảm trong công tác.
Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới do tác động của nền kinh tế thị trường
đang được xây dựng và những nhân tố chủ quan mà vẫn còn một bộ phận cán bộ,


đảng viên đạo đức, phẩm chất còn thấp kém, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, xa rời
quần chúng, mắc bệnh quan liêu, tham nhũng.
Tham nhũng, lãng phí là tệ nạn rất nguy hiểm, gây tác hại to lớn và hậu quả
rất nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về tài sản nhà nước, làm băng hoại đạo đức cách
mạng, xâm hại trực tiếp đến công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn lòng tin của
nhân dân với Đảng, Nhà nước, là nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta, Đảng
ta.
Lênin đã cảnh báo: khi có chính quyền, hầu hết chức quyền trong bộ máy
nhà nước từ trung ương đến cơ sở đều do những người cộng sản đảm nhiệm, khi đó
một trong những kẻ thù nguy hiểm mà họ phải đối mặt là nạn tham nhũng, hối lộ.
Người khẳng định nạn quan liêu, tham nhũng, hối lộ sẽ tiêu hủy sự nghiệp cách
mạng của những người cộng sản.
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí là kẻ thù của nhân dân, là thứ “giặc nội
xâm”. Người nói: Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không cũng là đồng
minh của thực dân phong kiến, là một thứ “giặc nội xâm”, nó “làm hỏng tinh thần

2

trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của
ta là cần, kiệm, liêm, chính”
1
.
Nhận thấy sự nguy hiểm của thứ giặc này, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, đặc biệt thời kỳ đổi mới đất nước Đảng ta đã có nhiều chủ trương đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và đã đạt được những kết quả to lớn: “Nhiều cán bộ
đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, đi đầu trong cuộc đấu tranh
này. Nhiều vụ án tham nhũng, trong đó có những vụ án lớn, phức tạp gây hậu quả
nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý.”
2
Tuy nhiên, tham nhũng, lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn: “Tình trạng

tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng”
3
.Trong khi đó nhiệm vụ đặt ra cho cách
mạng còn hết sức nặng nề, đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
phấn đấu đến năm 2010 ra khỏi tình trạng nước kém phát triển.
Khi đổi mới càng đi vào chiều sâu và được đẩy mạnh thì vấn đề chống tham
nhũng, lãng phí càng quan trọng, Nghị quyết hội nghị lần thứ ba BCH TW khóa X
(7/2006) đã ra Nghị quyết chuyên đề “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Đây là Nghị quyết đầu tiên chuyên
đề chống tham nhũng, lãng phí. Điều đó thể hiện quyết tâm của Đảng trong việc
ngăn chặn tệ nạn này, mục tiêu là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng
phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã
hội, củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững
mạnh; đội ngũ cán bộ công chức kỷ cương, liêm chính.
Đây là đề tài hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có ai nghiên cứu hệ thống dạng
lịch sử Đảng. Đề tài này hệ thống toàn bộ quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh

1
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. NXB CTQG. HN. 2002. Trang 166.
2
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành TW khóa X. NXB CTQG. HN.
2006. Trang 11.

3
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX . NXB CTQG. HN. 2001.
Trang76.


3

phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thời kỳ đổi mới một cách đầy đủ, chi tiết,
làm cơ sở cho quyết tâm của Đảng trong việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Tham nhũng, lãng phí là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời
của Nhà nước và tồn tại song song cùng với sự phát triển của Nhà nước. Trong giai
đoạn thực hiện công cuộc đổi mới hiện nay, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí
là một cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt và là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và
toàn xã hội. Đây cũng là một vấn đề đã và đang được rất nhiều người quan tâm,
nghiên cứu, ví dụ:
- Ban nội chính TW Đảng cộng sản Việt Nam: Một số bài nghiên cứu về
tham nhũng và phòng, chống tham nhũng đăng trên các tạp chí. NXB CTQG. HN.
2005.
- Viện khoa học – xã hội Việt Nam: Tệ quan liêu, lãng phí và một số giải
pháp phòng, chống. NXB CTQG. HN. 2006.
- Đinh Văn Minh: Một số vấn đề về tệ tham nhũng và những nội dung cơ bản
của luật phòng, chống tham nhũng năm 2005. NXB CTQG. HN. 2006.
- Trần Quang Nhiếp: Nâng cao hiệu quả của báo chí trong cuộc đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay. NXB CTQG. HN. 2005.
- Lê Quỳnh(Sưu tầm và tuyển chọn): Đấu tranh chống tham nhũng- Trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội và công dân. NXB Công an nhân dân.
Các nghiên cứu đó tập trung tìm hiều về nguyên nhân, bản chất, thực trạng
và các giải pháp của tệ tham nhũng, lãng phí và sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng đối
với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Với những diễn biến phức tạp của tệ tham nhũng, lãng phí như hiện nay thì
nghiên cứu vấn đề này là rất cần thiết. Đây là đè tài rất mới mẻ vì trình bày hệ
thống quá trình Đảng lãnh đạo chống tham nhũng, lãng phí, từ đó góp phần khẳng

4
định bản lĩnh, quyết tâm của Đảng, của nhân dân và bày tỏ niềm tin của mình đối

với sự nghiệp cách mạng do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
- Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí trong thời kỳ đổi mới đất nước, thấy được những chủ trương biện pháp cũng
như kết quả đạt được của cuộc đấu tranh này.
- Khẳng định tính tất yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới
đất nước nói chung và đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí nói
riêng.
Nhiệm vụ:
- Nêu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của cuộc đấu tranh này: Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề tham
nhũng, lãng phí.
- Làm rõ từng bước Đảng lãnh đạo đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí
trên đất nước ta, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới của Đảng ta, từ đó thấy được
một số kết quả, kinh nghiệm bước đầu cũng như phương hướng, giải pháp cho cuộc
đấu tranh này.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Nhà nước ta đã có rất nhiều văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, mới đây nhất là “Luật chống tham nhũng” và “Luật thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí”. Nhưng khóa luận chỉ tập trung đề cập đến quá trình Đảng lãnh đạo
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thời kỳ đổi mới đất nước (Đề ra
đường lối, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả, kiểm tra).
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Lịch sử
Đảng, chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic qua các giai đoạn; kết
hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp

5
phân tích- tổng hợp, liệt kê để làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh

phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong thời kỳ đổi mới (1986-2006).


5. Đóng góp mới về khoa học
Từ đặc điểm đề tài và tình hình nghiên cứu đề tài, trước thực trạng hiện nay
có thể thấy luận văn là một sự hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí trong thời điểm điển hình là công cuộc đổi mới đất
nước (1986 – 2006), trong đó trình bày một cách có hệ thống sự nhận thức và giải
quyết vấn đề này của Đảng ta dựa trên cơ sở lý luận và dựa trên thực tiễn đất nước.
Từ đó thấy được sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc đấu tranh gay go
phức tạp này.
6. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được trình bày theo 3 chương
gồm:
Chương1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí.
Chương 2:Đảng lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí thời
kỳ 1986-1996.
Chương 3: Đảng lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí thời
kỳ1996-2006.

Em xin cam đoan bản khoá luận này là do em chuẩn bị hoàn toàn cùng với
sự giúp đỡ nhiệt tình của Tiến sĩ Phạm Xuân Mỹ – Trưởng khoa Lịch sử Đảng,
khoá luận này không có sự sao chép bất cứ phần nào từ các công trình khoa học
khác
.



6







CHƯƠNG1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ

I. CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Tham nhũng, lãng phí là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời
của nhà nước và tồn tại song song cùng với sự phát triển của nhà nước. Tùy từng
nơi, tùy từng thời kỳ cụ thể, tham nhũng, lãng phí cùng với tệ quan liêu hoành hành
ở những mức độ khác nhau, nhưng đều mang mang lại những hậu quả tiêu cực về
kinh tế, chính trị, xã hội, làm băng hoại giá trị truyền thống văn hóa và đạo đức dân
tộc, làm tê liệt bộ máy nhà nước, làm xói mòn niềm tin của nhân dân với Nhà nước.
Ngay từ những năm đầu của chính quyền Xô viết non trẻ, V.I Lênin đã chỉ
ra nguy cơ tham nhũng trong bộ máy nhà nước và coi đó là một “căn bệnh” của bộ
máy nhà nước. Người cảnh báo: Khi đã có chính quyền, hầu hết các chức quyền
trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở đều do những người cộng sản đảm
nhiệm, Đảng cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì khi ấy những người cộng sản
đứng trước ba kẻ thù chính: kẻ thù thứ nhất- tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ
thù thứ hai- nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ và người đã cảnh báo bệnh quan
liêu, tham nhũng, nạn hối lộ sẽ tiêu hủy sự nghiệp của những người cộng sản.

7


V.I.Lênin coi tham ô, lãng phí là một trong những tàn dư của xã hội cũ đã ăn
sâu vào đời sống văn hóa, phong tục tập quán, xã hội ; gây ra những thói quen vị
kỷ, tự phát, vô tổ chức, vô kỷ luật. Đưa ra những nhiệm vụ, những chính sách, sách
lược trước mắt của Nhà nước Xô Viết, trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh đến vai
trò lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân, duy trì lòng tin của nông dân đối với
giai cấp công nhân và chú trọng đến việc phải trừ bỏ cả những lãng phí nhỏ nhất
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chúng ta phải gắng
sức xây dựng một Nhà nước, trong đó công nhân tiếp tục lãnh đạo nông dân, duy
trì được lòng tin của họ đối với mình và trừ bỏ được cả đến những lãng phí nhỏ
nhất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội”
4
. Và thực hiện được điều này sẽ góp phần
khắc phục nhiều yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước, mà một trong những yếu
kém, khuyết điểm đó chính là tệ tham ô, lãng phí.
Người kết luận: “Chỉ có làm cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột
mức, chỉ có giảm bớt đến mức tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết,
chúng ta mới có thể đứng vững được. Và đứng vững như thế, không phải là đứng
vững ở trình độ của một nước tiểu nông, ở trình độ eo hẹp về mọi mặt đó mà là ở
một trình độ ngày càng vươn lên nền đại công nghiệp cơ khí.”
5
V.I.Lênin chỉ ra tác hại to lớn do tham ô, lãng phí gây ra, phê phán nghiêm
khắc những hành vi đó và kiên quyết đưa ra những biện pháp để trừng trị. Người
cho rằng tệ lãng phí tuy không phải là “ăn cắp của công” nhưng cũng làm tổn hại
đến lợi ích, tài sản chung và cũng là trực tiếp hay gián tiếp phá hoại kỷ cương.
Trong một bức thư gửi cho cán bộ tư pháp, V.I.Lênin viết: “Cần phải đệ
trình ngay, hết sức cấp tốc dự luật quy định rằng mức trừng phạt về tội hối lộ phải
không dưới 10 năm tù và thêm vào đó 10 năm lao động cưỡng bức”
6
, Người kêu
gọi: “Hãy kiểm kê tất cả những cái đã bị cướp và không để cho người ta ăn cắp


4
Lênin toàn tập. Tập 45. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Trang 458.
5
Lênin toàn tập. Tập 45. NXB Tiến bộ Matxcôva. 1978. Trang 459.
6
Lênin toàn tập. Tập 50. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Trang 91.

8

những cái đó, còn nếu có ai tìm cách vơ vét cho mình một cách trực tiếp hay gián
tiếp thì hãy xử bắn những kẻ phá hoại kỷ luật ấy đi.”
7
Nhận thức được tác hại to lớn của tham ô, lãng phí- một cản trở lớn đối với
công cuộc xây dựng đất nước, V.I.Lênin đã kêu gọi phải xử lý nghiêm minh và
kiên quyết những hành vi hối lộ, ăn cắp của công và phải có luật pháp để ngăn
ngừa những hành vi đó. Người cũng đưa ra nhiều biện pháp để ngăn ngừa tham
nhũng, lãng phí.
Trong diễn văn đọc tại Đại hội IV Quốc tế cộng sản ngày 13/11/1922, với
chủ đề “Năm năm cách mạng Nga và triển vọng của cách mạng thế giới”, V.I
Lênin đã phân tích những chính sách, biện pháp chủ yếu đã bước đầu đưa nước
Nga Xô viết ra khỏi những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua của
những ngày đầu giành và giữ chính quyền cách mạng. Một trong những biện pháp
mà V.I Lênin nhấn mạnh trong đó là chính sách thực hành tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí.
Trong những năm đầu sau cách mạng tháng Mười, nước Nga vẫn trong tình
trạng nội chiến, nạn đói diễn ra trầm trọng . Vấn đề lương thực đang trở thành vấn
đề nan giải nhất của cách mạng Nga lúc bấy giờ. V.I Lênin tập trung vào nhiệm vụ
chống tham ô, lãng phí và thực hành tiết kiệm lương thực. Người nhấn mạnh rằng,
trong tình hình như thế mọi hành vi đầu cơ, tham ô, lãng phí lương thực đều là tội

lỗi: “ Khi nhân dân bị đói và nạn thất nghiệp hoành hành ngày càng trầm trọng,
thì tất cả những ai giấu giếm một put lúa mì là thừa, làm cho nhà nước thiếu một
put nhiên liệu, là kẻ phạm tội lớn nhất”
8
.Chống tham ô lãng phí, thực hiện tiết kiệm
lương thực (cụ thể là lúa mì) cho công nhân cho dân nghèo và nhiên liệu cho công
nghiệp là những nội dung cần kíp trước mắt dược đề cập, nhấn mạnh trong nhiều
văn kiện lúc này của Đảng Bônsêvích Nga do V.I Lênin khởi thảo.

7
Lênin toàn tập. Tập 36. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Trang 330.
8
Lênin toàn tập. Tập 36. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Trang 450.

9

Theo Người, công việc đầu tiên là phải tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: xây dựng kế hoạch sản
xuất, phân phối sản phẩm, tổ chức và hoạt động quản lý của Nhà nước, kỷ luật lao
động và sử dụng tài chính, Người cho rằng kiểm kê, kiểm soát không chỉ nhằm giữ
gìn kỷ luật, tổ chức mà còn kịp thời đấu tranh chống lại các căn bệnh lười biếng,
thói ăn bám, tệ tham ô, hối lộ, ăn cắp của công, lãng phí, cố ý làm trái quy dịnh;
nếu không quét sạch được các hiện tượng tiêu cực đó thì không thể xây dựng được
chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cần phải và có thể thực hiện được việc tiết kiệm,
chống lãng phí, nguyên liệu và lao động, với điều kiện kiểm kê, kiểm soát một cách
chặt chẽ đối với mọi vật liệu và năng suất lao động.”
9
Trong cuộc đấu tranh này thì vai trò của Nhà nước cũng hết sức quan trọng.
Nhà nước phải có pháp luật, dựa vào pháp luật đó và sử dụng các phương pháp của
mình để ngăn ngừa, trừng trị những hành vi tham ô, lãng phí. Trong tác phẩm:

“Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”, V.I.Lênin nhấn mạnh những
khẩu hiệu thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô là nhiệm vụ bắt buộc tất yếu
của chính quyền Xô viết: “Việc chính quyền Xô viết dùng những phương pháp của
mình và căn cứ vào những khẩu hiệu ấy là điều kiện cần thiết và đầy đủ để cho chủ
nghĩa xã hội thắng lợi triệt để.”
10

V.I.Lênin chỉ rõ, thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí trước hết và
chủ yếu ở những người đang làm chủ đất nước, làm chủ chính quyền ; những người
làm việc trong bộ máy nhà nước cách mạng và phải tăng cường kỷ luật tự giác
trong lao động, tăng cường sự tổ chức, kiểm tra kiểm soát chặt chẽ: “Hãy tính toán
tiền nong cho cẩn thận và thành thực, hãy chi tiêu tiết kiệm, đừng lười biếng, đừng
tham ô, hãy triệt để tuân theo kỷ luật trong lao động.”
11

9
Lênin toàn tập. Tập 36. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Trang 432.
10
Lênin toàn tập. Tâp45. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978.Trang 221-222.
11
Lê nin toàn tập. Tập 36. NXB Tiến bộ Matxcơva. 1978. Trang 211.

10
Việc tinh giản, cải tiến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng được
Lênin coi là một biện pháp chống lãng phí rất tích cực. Lênin yêu cầu vô luận thế
nào cũng phải giảm bớt số nhân viên, cũng phải ra sức tiết kiệm và sự tiết kiệm đó
là biện pháp tích cực và quan trọng.
V.I.Lênin còn chủ trương tiến hành cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng để
từng bước tẩy trừ những ý thức, lối sống xa hoa, lãng phí, thói lười biếng, ăn cắp
của công, không tôn trọng kỷ luật lao động, trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Như vậy, ngay từ rất sớm Lênin đã phát hiện ra căn bệnh tham ô, lãng phí
với những biểu hiện, tác hại của nó đối với xã hội, đồng thời Người đã đề ra nhiều
biện pháp đấu tranh hiệu quả với căn bệnh này. Đây là những vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, không chỉ thích ứng với tình hình nước Nga sau cách
mạng tháng Mười mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với Việt Nam và nhiều nước khác
trên thế giới. Vì vậy, đòi hỏi Đảng ta phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa
học để đưa vào vận dụng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí đạt
hiệu quả cao.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm
đối với vấn đề chống tham ô lãng phí, quan liêu và thực hành tiết kiệm. Sự quan
tâm đó thể hiện đặc sắc tư tưởng đạo đức của người cộng sản và của cách mạng
Việt Nam. Người đã để lại tấm gương sáng trong, mẫu mực về sự giản dị và tinh
thần cần, kiệm, liêm , chính, chí công vô tư; đồng thời là hình ảnh tiêu biểu về sự
quyết tâm chống những thói hư tật xấu, chống tham ô, lãng phí và thực hành tiết
kiệm.
Ngay khi mới giành được chính quyền và xây dựng chính quyền cách mạng,
Hồ Chí Minh đã rất chú trọng bồi dưỡng dạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ:
giáo dục, đào tạo công chức theo tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”,
không tơ hào một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, nhân dân. Người nhắc nhở: “Tuy
nhiều người trong ban hành chính làm việc tốt và thanh liêm song cái tệ tham ô,

11

nhũng lạm chưa quét sạch”
12
và chỉ ra một số hành vi tham nhũng mà công chức
nhà nước mắc phải như tham ô của công, đục khoét của dân, lợi dụng của chung và
ăn hối lộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một trong những nguyên nhân trực tiếp của

tham ô là bệnh quan liêu, biểu hiện ở chỗ cá nhân và cơ quan lãnh đạo, cơ quan
quản lý từ cấp trên đến cấp dưới không sát sao công việc thực tế, không theo dõi
giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng, không kiểm tra đến nơi đến chốn. Do
mắc bệnh quan liêu nên “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có
chế độ mà không giữ đúng, kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người
xấu, những cán bộ kém tha hồ mà tham ô”
13
.
Người cũng chỉ ra: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những cái xấu xa của xã
hội cũ, nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra. Nó do chế độ “người bóc lột
người” mà ra. Chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do bình
đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính – cho nên ta phải tẩy cho sạch hết những
thói xấu của xã hội cũ”
14
.
Tham ô, lãng phí, quan liêu là những cái xấu xa của chế độ thực dân phong
kiến, nó làm cho cán bộ ta mắc các khuyết điểm: óc địa phương cục bộ, bè phái,
quân phiệt, quan liêu, ham chuộng hình thức, vô kỷ luật, làm việc không nghiêm,
không có kế hoạch. Đó là những nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tham
ô, lãng phí, quan liêu.
Theo Hồ Chí Minh, tham ô là phạm trù dùng để chỉ những hành vi xấu xa
của con người, Người cho rằng: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn cắp
của công, đục khoét của nhân dân. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là ăn
cắp của công, khai gian, lậu thuế ”
15
. Về bản chất, tham ô chính là lợi dụng quyền

12
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. NXB. CTQG. HN. 2002. Tr.ang166
13

Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB. CTQG. HN. 2002. Trang 490
14
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB. CTQG. HN. 2002. Trang 494.
15
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB. CTQG. HN. 2002. Trang.488

12

hành để ăn cắp của công làm của riêng và biểu hiện rất đa dạng: trộm cắp của công,
đục khoét của công, ích kỷ, hẹp hòi, thiếu trung thực.
Hồ Chí Minh chỉ rõ có rất nhiều biểu hiện của tệ lãng phí: lãng phí sức lao
động, lãng phí thì giờ, lãng phí tiền của, phô trương hình thức, dài dòng ba hoa.
Tham ô và quan liêu rất nguy hiểm và có hại nhưng lãng phí cũng không kém phần
nguy hại vì đôi khi chúng ta không coi trọng cuộc đấu tranh này.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những tác hại của tham ô, lãng phí. Nó có tác hại
ghê gớm, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là bạn đồng hành của tệ quan
liêu; nó làm băng hoại đạo đức cách mạng, là kẻ thù, thậm chí kẻ thù rất nguy hiểm
của cách mạng. Trong bài “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống
bệnh quan liêu” Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy
không lấy của công đút túi song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính
phủ”
16
.
Người coi những hành vi tham nhũng, tệ lãng phí, quan liêu là kẻ thù của
nhân dân, của cách mạng. Cũng trong bài “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí, chống bệnh quan liêu” Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ
thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ, là một thứ giặc ở trong lòng.”
17

Theo Hồ Chí Minh, đây thật sự là kẻ thù nguy hiểm của cách mạng, không những

nó phá hoại và làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm tha
hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước, đối với cách mạng.
Tính nguy hiểm của thứ “giặc trong lòng” này biểu hiện ở chỗ vì nó nằm sâu
trong các cơ quan, tổ chức cách mạng, nằm trong tư tưởng và hành động của cán
bộ, đảng viên, trong những người có chức, có quyền và còn ẩn náu cả trong quần
chúng nhân dân, bộ đội, viên chức. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho việc đấu
tranh có hiệu quả chống lại các tệ nạn này. Hồ Chí Minh cho rằng đây là “kẻ thù

16
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB. CTQG. HN. 2002. Trang.489.
17
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB CTQG. HN. 2002. Trang.490.

13

khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng mà nó nằm trong các tổ chức
của ta để làm hỏng công việc của ta”
18
và kịch liệt lên án tệ tham ô: “Tham ô là
hành động xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp
của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước
nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân, hại đến đạo đức cách mạng
của người cán bộ.”
19
Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì tham ô, lãng phí có liên quan đến phạm trù
đạo đức cách mạng, cần phải coi đó là một tiêu chí để đánh giá đạo đức, tư cách
người cán bộ cách mạng. Người kết luận: những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu
thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của chính phủ và nhân
dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội “Việt gian”, “mật thám”. Tham ô, lãng phí nếu

không sớm được ngăn chặn sẽ phát triển từ hiện tượng nhỏ lẻ và trở thành quốc
nạn, đe dọa sự tồn vong của chế độ mới mà nhân dân ta xây dựng.
Không chỉ chỉ rõ nguồn gốc, biểu hiện và tác hại ghê gớm của tham ô, lãng
phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kiên quyết chống lại các thứ giặc này và chỉ ra:
“Muốn thành công trong tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, phải nhổ cỏ cho
sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không thì
nó sẽ làm hại đến công việc của chúng ta.”
20
Tính ưu việt của chế độ mới không cho phép những hành vi xấu xa của xã
hội cũ cùng với những tàn tích và hệ quả của chúng tồn tại, chỉ rõ bản chất và ảnh
hưởng của bệnh tham ô, lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: chống tham
ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng; chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ.
Đồng thời người nhấn mạnh: “Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng
những cái gì tốt. Chúng ta làm cách mạng để tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến,
để xây dựng chế độ mới. Thực dân, phong kiến tuy bị tiêu diệt nhưng cái nọc xấu

18
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB. CTQG. HN. 2002. Trang.490.
19
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB CTQG, HN. 2002. Trang.489.
20
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB CTQG. HN. 2002. Trang.488.

14

của nó (tham ô, lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn
thành công vì những nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự
nghiệp xây dựng của cách mạng.
Tham ô, lãng phí, quan liêu là những cái xấu xa của chế độ cũ, nó do lòng tự
tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra. Nó do chế độ “người bóc lột người mà ra.

Chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng, một
xã hội cần, kiệm, liêm, chính- cho nên chúng ta phải tẩy cho sach hêt những thói
xấu của xã hội cũ.”
21
Khi phê phán những căn bệnh có nguồn gốc từ chế độ xã hội cũ mà không
thể một sớm, một chiều khắc phục được trong đội ngũ cán bộ cách mạng và trong
nhân dân ta như các bệnh hẹp hòi, ích kỷ, hủ hóa, chủ quan, Người nói: “Bệnh chủ
quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi vv…mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ đich
bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng
sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy ta phải ra
sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó.”
22
Chống tham ô, quan liêu, lãng phí không thể hô hào, kêu gọi lòng tốt của
mọi người một cách chung chung mà phải có kế hoạch cụ thể, có sự chuẩn bị. Đồng
thời đòi hỏi có sự lãnh đạo chặt chẽ, đòi hỏi phẩm chất đạo đức trong sáng, trung
kiên, không dao động trước những cám dỗ về vật chất, danh vị của người tham gia
đấu tranh. Vì vậy Hồ Chí Minh quan niệm chống tham ô, lãng phí là cách mạng và
để cuộc đấu tranh đạt kết quả thì phải phát huy sức mạnh của mọi lực lượng trong
xã hội và là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành.
Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở mọi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần
phê bình và tự phê bình, phải thật thà tự kiểm điểm để làm gương mẫu, phải kiên
quyết “nhổ cỏ”. Nghĩa là phải tự mình đấu tranh với mình, kiên quyết đấu tranh
chống tham ô, lãng phí một cách hiệu quả, dựa vào quần chúng và đưa quần chúng

21
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB CTQG, HN. 2002. Tr.ang 494 – 495.
22
Hồ Chí Minh toàn tập,.Tập 5 NXB CTQG. HN. 2002. Tr.ang 450.

15


vào vào cuộc đấu tranh: “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa
vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”
23
. Điều này phản ánh sâu sắc quan
niệm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng. Những khuyết điểm, sai lầm, thói tham ô, lãng phí trong cán bộ, đảng viên,
trong các tổ chức Đảng và chính quyền Nhà nước do nhiều nguyên nhân có thể
không được phát hiện hoặc phát hiện không kịp thời nhưng không thể che chắn
được hàng triệu con mắt của quần chúng nhân dân.
Chừng nào quần chúng nhân dân còn đứng ngoài, còn coi đấu tranh chống
tham ô, lãng phí, quan liêu là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ
mà không thấy đó cũng là trách nhiệm của mình thì chừng đó cuộc đấu tranh chưa
thể đạt kết quả như mong muốn. Ý nghĩa sâu xa của tư tưởng này chỉ ra rằng muốn
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí thì nhất thiết phải phát
huy vai trò của quần chúng nhân dân, đồng thời phải có quy chế cụ thể để họ có thể
phát huy được vai trò của mình trong quá trình đấu tranh.
Hồ Chí Minh còn đặc biệt nhấn mạnh: chống tham ô, lãng phí phải gắn bó
chặt chẽ với thực hành tiết kiệm. Khi bàn về vấn đề tiết kiệm, Người đưa ra quan
niệm rất đúng đắn về vấn đề này: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là “
xem đồng tiền to bằng cái nống”, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu
cũng không tiêu. Trái lại tiết kiệm cốt để góp và tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản
xuất để dần dần nâng cao mức sống của đảng viên, cán bộ, nhân dân. Nói theo lối
khoa học thì tiết kiệm là tích cực chứ không phải là tiêu cực”
24
.Theo Hồ Chí Minh,
ý nghĩa tích cực của tiết kiệm không những góp phần quan trọng cho sự phát triển
của kinh tế, của sản xuất mà điều quan trọng ở đây nó còn thúc đẩy tạo điều kiện
cho cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí đạt hiệu quả cao.
Tiết kiệm và lãng phí là hai phạm trù đối lập nhau, tiết kiệm càng tốt thì càng

lọai trừ được lãng phí. Mối quan hệ của hai mặt đối lập này lại thống nhất với nhau

23
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXB CTQG. HN. 2002. Trang 495.

24
Hồ Chí Minh toàn tập. NXB CTQG. HN. 2002. Tập 6. Trang 490.

16

trong phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nhận thức sâu sắc vấn đề
này, Người kêu gọi: “Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm, trước nhất là các cơ
quan, các đơn vị bộ đội, xí nghiệp”
25
Tiết kiệm là vấn đề rộng lớn, trong mọi lĩnh vực hoạt động, trong sản xuất
cũng như trong tiêu dùng, về của cải tiền bạc cũng như thời gian… tất cả đều phải
tiết kiệm. Có tiết kiệm mới có thể thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí;
ngược lại có đẩy mạnh đấu tranh chống tham ô, lãng phí mới thực hành tiết kiệm
được tốt. Mối quan hệ này đòi hỏi phải được giải quyết tốt trong quá trình cách
mạng nhằm phục vụ cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Khéo tiết kiệm sức người, tiền của và thời giờ thì với sức lao động, tiền tài
của nước ta hiện nay có thể tăng gia sản xuất gấp bội mà lực lượng của ta về mọi
mặt cũng tăng lên gấp bội”
26
.
Trong suốt những năm giữ trọng trách cao nhất trong cơ quan Đảng và Nhà
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về sự tu dưỡng đạo đức cách
mạng, là con người hình mẫu: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn luôn đấu
tranh không khoan nhượng với căn bệnh tham ô, lãng phí và quan liêu.
Hồ Chí Minh đã đề cập một cách toàn diện, sâu sắc đến tất cả mọi khía cạnh

của tham nhũng, lãng phí: nguồn gốc, tác hại và các giải pháp đấu tranh phòng,
chống tham ô, lãng phí. Và trong điều kiện hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, quan liêu và nâng cao hiệu quả thực hành tiết
kiệm càng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết.
II. THỰC TRẠNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ Ở NƯỚC TA TRƯỚC ĐỔI
MỚI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc- kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước đứng

25
Hồ Chí Minh toàn tập. NXB CTQG. HN. 2002. Tập 6. Trang 485.
26
Hồ Chí Minh toàn tập. NXB CTQG. HN. 2002. Tập 4. Trang 486.


17
trước những thuận lợi hết sức cơ bản: chính quyền về tay nhân dân, có lực lựong
vũ trang lớn mạnh, có khối đoàn kết dân tộc rộng rãi và vững chắc, đặc biệt chúng
ta có Đảng cộng sản Việt Nam-từ một Đảng hoạt động bất hợp pháp đã trở thành
Đảng cầm quyền, có Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của dân tộc. Cùng
với đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, sự suy yếu của
phe đế quốc sau chiến tranh đã tạo ra thế và lực mới cho đất nước đi lên.
Tuy nhiên chúng ta cũng đứng trước những khó khăn, thử thách nghiêm
trọng mà nguy hại hơn cả là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Những khó khăn
này đã đặt cách mạng nước ta trong tình thế “Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh dân tộc
như ngàn cân treo sợi tóc”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời sau cách
mạng tháng Tám đã thực sự là bộ máy phục vụ cho lợi ích của nhân dân Việt Nam.

Ngay từ khi thành lập, chính quyền non trẻ đã bắt tay ngay vào sự nghiệp “kháng
chiến và kiến quốc”. Đây là sự nghiệp cách mạng mới mẻ và khó khăn, một mặt
chúng ta sử dụng những người từng tham gia bộ máy chính quyền cũ nhưng có tinh
thần yêu nước và hiểu biết công việc vào quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; mặt
khác và chủ yếu là huy động sức lực, trí tuệ và tinh thần của cán bộ và quần chúng
cách mạng.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền non trẻ đang lãnh đạo nhân dân ta
thực hiện phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm đã bắt đầu có hiện
tượng một số cán bộ trong bộ máy chính quyền lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích
cá nhân, tham ô, lãng phí. Cán bộ ăn cắp của công làm của tư, đục khoét sách nhiễu
nhân dân, khai khống để lập quỹ riêng cho địa phương, cho đơn vị mình; còn trong
nhân dân thì tình trạng ăn cắp của công, khai gian lậu thuế, trốn thuế. Cùng với tệ
tham ô là tệ lãng phí của công, lãng phí sức lao động, lãng phí thời gian cũng diễn
ra rất phổ biến. Đặc biệt trong hoàn cảnh nạn đói vẫn đang đe dọa, lương thực–thực
phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân thì vẫn còn một bộ phận không

18

nhỏ nhân dân trong đó có cả cán bộ, đảng viên dùng lương thực để nấu rượu lậu;
trong khi ruộng đất bị hoang hóa nhiều đặc biệt là tệ cưới xin, ma chay, đình đám
tổ chức theo những hủ tục lạc hậu của chế độ cũ đã gây nên sự lãng phí lớn trong
nhân dân.
Ngay từ năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra nhiều sắc lệnh để ngăn
ngừa, xử lý các hiện tượng tiêu cực này: Sắc lệnh số 64/ SL ngày 23/11/1945 về
thành lập Ban thanh tra đặc biệt để giám sát, kiểm soát hoạt động của các cơ quan
chính quyền và nhân viên nhà nước; Sắc lệnh số 223 ngày 27/11/1946 truy tố các
tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ; Sắc lệnh 138/ SL ngày 18/12/1949 thành lập
Ban thanh tra Chính phủ thay thế Ban thanh tra đặc biệt… Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng xử lý nghiêm khắc một số hành vi tham ô, lãng phí của công.
27

Sau năm 1954 đất nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ
chính trị- xã hội khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội; ở miền Nam, Mỹ nhảy vào hất cẳng Pháp hòng biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của chúng. Nhân dân miền Nam tiếp tục
đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Với sự cố gắng của nhân dân hai miền cùng với sự giúp đỡ to lớn của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: kinh tế phát triển, kỹ thuật được cải tiến và nâng
cao, đời sống nhân dân được cải thiện, một số lĩnh vực khác của đời sống xã hội
cũng có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, chúng ta cũng mắc một số sai lầm,
khuyết điểm : “Thiếu tinh thần trách nhiệm, chế độ và phương pháp quản lý kinh tế
- tài chính còn nhiều thiếu sót và lỏng lẻo, kỷ luật lao động chưa nghiêm túc, sử
dụng sức lao động chưa hợp lý, khả năng thiết bị máy móc nhiều nhưng sử dụng

27
Vụ án tham ô lãng phí của Trần Dụ Châu. Trần Dụ Châu nguyên là một đảng viên, đại tá trong quân đội
và là Giám đốc Nha quân nhu, đã tham ô, biển thủ công quỹ hàng trăm triệu đồng để ăn chơi trụy lạc, gây
thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và quân đội. Mặc dù là người có công lớn đối với cách mạng nhưng để
làm gương cho đảng viênvà tỏ rõ quyết tâm của Đảng, chính quyền cách mạng đối với tội thâm ô, lãng
phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh tử hình đối với Trần Dụ Châu.


19

chưa đầy đủ”
28
(Năng suất của thiết bị máy móc sử dụng thấp: công nghiệp nặng
60 – 65%, công nghiệp nhẹ 50%, xây dựng cơ bản 35%, bình quân cứ 2 nhà máy
chỉ có một nhà máy làm việc), ngoài ra còn là sự lãng phí nguyên vật liệu. Những
yếu kém, khuyết điểm đó không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội mà còn

làm cho tình hình xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và vi phạm nguyên tắc chế
độ quản lý tài chính, diễn biến phức tạp; tình trạng trộm cắp, tham ô lãng phí, để
mất mát, hư hao tài sản của tập thể và nhà nước có nơi xảy ra nghiêm trọng. Bên
cạnh đó tình trạng trông chờ, ỉ lại vào viện trợ nước ngoài, chi tiêu không hợp lý tài
sản, công sức đã ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền, Nam thống nhất đất nước.
Trong 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã xuất hiện tình trạng
“rong công, phóng điểm”, tham ô, lãng phí nhưng do yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng miền Nam nên những tiêu cực đó đã được khắc phục kịp thời
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ tạo
ra bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại, tiếp tục mở ra kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, chúng ta có những thuận lợi cơ bản
để cả nước đi vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến trước đổi mới, trải qua 10 năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
(1975-1985), đất nước ở trong tình trạng rất khó khăn, việc duy trì cơ chế quản lý
tập trung, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm lực lượng sản xuất, đặc biệt là tư duy
năng động sáng tạo của người lao động, đồng thời tạo ra kẽ hở cho những tiêu cực
trong xã hội phát triển. Các tệ nạn như tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa (chủ nhiệm
hợp tác xã tham ô công điểm của xã viên, cán bộ quản lý nhà đất ăn hối lộ để phân
phối nhà ở, mậu dịch viên tuồn hàng cho tư thương để kiếm chênh lệch giá), báo

28
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 11. NXB CTQG. HN. 2002. Trang 109.


20

cáo khống, nhận hối lộ, mưu cầu lợi ích cá nhân, thất thoát, sử dụng không hiệu quả

tài sản nhà nước, càng làm cho tình hình kinh tế - xã hội rối ren: sản xuất trì trệ và
gặp nhiều khó khăn, lạm phát gia tăng với 3 con số (1976: 128%, 1981: 313%), đời
sống đại bộ phận nhân dân gặp nhiều khó khăn, các hiện tượng tiêu cực ngày càng
phát triển. Tất cả những khó khăn này đã đẩy nước ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, quyết sách kịp
thời, đúng đắn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã nhận định:
“Một trong những khuyết điểm trong quản lý kinh tế là lối quản lý quan liêu, hành
chính, xem nhẹ hiệu quả, năng suất, chất lượng.”
29
Vì vậy, phương hướng, nhiệm
vụ phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa xã hội, Đảng xác định: “Coi trọng công tác
tổ chức và quản lý lao động. Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động, buộc mọi người
có sức lao động phải lao động. Kết quả lao động tính từng giờ, từng phút, kiên
quyết đấu tranh chống lãng phí lao động là thứ lãng phí lớn nhất hiện nay. Gắn
chặt quyền lợi với nghĩa vụ, quyền lợi với trách nhiệm, kết hợp kỷ luật nghiêm minh
của tổ chức với tinh thần tự giác của từng người.”
30
Đặc biệt trong những năm đầu
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, củng cố và
hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là vấn đề Đảng ta đặc biệt quan
tâm. Cùng với đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ quản
lý và phân phối mới, đẩy mạnh cuộc vận động tổ chức lại sản xuất nông nghiệp
theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì Đảng cũng nhấn mạnh: “Ruộng đất và
tài sản tập thể phải được bảo vệ, chống lại những hành động lợi dụng, lấn chiếm;
nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa phải được tuân thủ, chống tệ tham ô, tư lợi,
chống thói lười biếng”.
31

29

Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 37. NXB CTQG. HN. 2005. Trang 481.
30
Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 37. NXB CTQG. HN. 2005. Trang534.
31
Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 37. NXB CTQG. HN. 2005. Trang 534.

21

Đảng ta cũng nhấn mạnh việc tăng cường quản lý, sửa đổi những thể lệ
không hợp lý làm cho sản xuất tiểu - thủ công nghiệp phát triển thuận lợi theo
phương hướng của kế hoạch nhà nước, thực hiện đúng các hợp đồng ký kết, tuân
thủ các chính sách của nhà nước về quản lý kinh doanh, chống những tàn dư của lề
thói cũ, làm hàng gian dối, bớt xén nhiên liệu.
Để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong công tác cán bộ,
Đảng chủ trương: “Kiên quyết và kịp thời loại ra khỏi đảng những phần tử thoái
hóa biến chất, những kẻ mất hết tinh thần chiến đấu cách mạng, những phần tử
chui vào Đảng mưu đồ lợi ích riêng, những kẻ lợi dụng chức quyền để ức hiếp quần
chúng, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.”
32
Vì vậy “trong các cơ quan nhà nước
kiên quyết tẩy trừ những hiện tượng cán bộ, nhân viên lạm dụng chức quyền, xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, kiên quyết chống bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên
quyền; nghiêm khắc thi hành kỷ luật đối với những trường hợp vi phạm kỷ luật
lãnh đạo, không chấp hành quy định của tổ chức… Bằng pháp luật Nhà nước và dư
luận xã hội, chúng ta cần biểu dương khen thưởng những người tốt, việc tốt đồng
thời ngăn chặn những việc làm xấu, kiên quyết trừng trị những hành động ăn cắp,
buôn lậu làm thiệt hại đến nền kinh tế quốc dân và tài sản xã hôi chủ nghĩa.”
33

Quyết tâm của chúng ta lúc này là kiên quyết chấm dứt tình trạng vô trách nhiệm,

vô kỷ luật, dân chủ một chiều cũng như tình trạng thiếu dân chủ tập thể, quan liêu,
độc đoán, chuyên quyền trong công việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, kinh tế - xã hội có nhiều chuyển
biến, tuy nhiên chúng ta vẫn còn nhiều yếu kém khuyết điểm, đặc biệt quyền làm
chủ của nhân dân lao động chưa được phát huy do các hiện tượng tiêu cực xã hội
vẫn phát triển. Nghị quyết TW 6 khóa IV (8/1978) xác định: để phát huy quyền làm
chủ của tập thể trong công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương thì
một trong những biện pháp là “lãnh đạo quần chúng, nhất là quần chúng trong các

32
Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 37. NXB CTQG. HN. 2005. Trang 559.
33
Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 37. NXB CTQG. HN. 2005. Trang 692.

22

hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đấu tranh chống tham ô, móc ngoặc và các hành vi
sai trái khác, đấu tranh để thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước”
34

đồng thời Hội nghị cũng khẳnh định: “Một trong những công tác cấp bách trước
mắt là kiên quyết loại ra khỏi bộ máy Đảng và nhà nước những phần tử ức hiếp
quần chúng, ăn cắp của công, hối lộ, không để một tổ chức hoặc cá nhân nào bao
che, dung thứ”
35
.
Nhiệm vụ trước mắt để tạo sự phấn khởi trong quần chúng nhân dân, dấy lên
khí thế thi đua lao động sản xuất cần tuyên truyền, giáo dục, động viên kịp thời một
số mặt không hợp lý trong tổ chức, quản lý, trong chính sách, chế độ; tôn trọng đầy
đủ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động…, kiên quyết đấu tranh chống các

biểu hiện tiêu cực, nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong sản xuất,
công tác, trong chấp hành chính sách và thực hiện lối sống tiết kiệm, giản dị, có
quan hệ tốt với quần chúng.
Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết hội nghị 6 (khóa 4), ngày 10/11/1979 Ban
Bí thư ra chỉ thị “ Về thực hiện nhiệm vụ đấu tranh khắc phục các hiện tượng tiêu
cực trong xã hội” đã tiếp tục khẳng định: “Từ TW đến cơ sở phải kịp thời ngăn
chặn và tiến tới xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực… thông qua cuộc đấu tranh này
làm cho tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, củng cố niềm tin của quần chúng”
36
. Yêu cầu cơ bản
của các ngành, các địa phương là phải khắc phục được tệ ăn cắp, hối lộ, ức hiếp
quần chúng, phải tập trung kiểm tra kiểm soát, tăng cường công tác quản lý.
Từ yêu cầu đó, Ban bí thư đề ra trách nhiệm của các ngành, các đơn vị trong
cuộc đấu tranh này là “phải căn cứ vào tình hình của mình mà đề ra kế họach chi
tiết và chỉ đạo chặt chẽ đối với công tác tuyên truyền, phát động quần chúng đấu

34
Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 40. NXB CTQG. HN. 2005. Trang 298.
35
Văn kiện Đảng tòan tập. Tập 40. NXB CTQG. HN. 2005. Trang 334.
36
Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 40. NXB CTQG. HN. 2005. Trang

485.

23

tranh chống tiêu cực; đối với việc chấn chỉnh các khâu cấp bách về quản lý đang

còn nhiều sơ hở, xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ vi phạm.”
37
Bước sang năm 1980, tình hình sai phạm, ăn cắp của công, hối lộ trong cán
bộ, đảng viên, công nhân viên chức và cả trong quần chúng nhân dân vẫn diễn ra
nghiêm trọng. Nhiệm vụ đặt ra là “xử lý kịp thời những sai phạm nghiêm trọng, kịp
thời truy tố trước pháp luật và nghiêm trị những đối tượng lợi dụng chui vào tổ
chức đảng, chính quyền, cơ quan đơn vị làm hư hỏng tổ chức.”
38
Không chỉ vậy,
lúc này đất nước cũng đang đứng trước những khó khăn to lớn: Đất nước có hòa
bình nhưng cũng có thể xảy ra chiến tranh; sản xuất phát triển chậm chạp, trì trệ,
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp, các mặt của đời sống xã hội mất cân
đối nghiêm trọng; sự rối loạn của thị trường, giá cả, sự thiếu hụt lương thực, thực
phẩm đã làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhất là những người làm công ăn
lương.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 khóa IV (9/1980) chỉ rõ: để đảm bảo pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu lực và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
thì “mỗi cán bộ, đảng viên phải sửa chữa ngay những việc làm sai trái: không
gương mẫu chấp hành chủ trương, pháp luật của nhà nước; tham ô, hối lộ, lãng
phí; lợi dụng chức quyền ức hiếp quần chúng nhân dân, xâm phạm quyền công
dân… gây thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa.”
39
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác đấu tranh chống lại tham ô, lãng
phí và các tiêu cực xã hội khác nhưng kết quả đạt được chưa tương xứng, chưa
khắc phục được những tiêu cực đó. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra là tiếp tục và đẩy mạnh
hơn nữa cuộc đấu tranh này nhằm phục vu cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

37
Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 40. NXB CTQG. HN. 2005. Trang


485-486.
38
Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 41. NXB CTQG. HN. 2005. Trang

24.
39
Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 41. NXB CTQG. HN. 2005. Trang

339-340.

24

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) đánh giá:
“Chúng ta đã có nhiều cố gắng để không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công
nhân, tính tiền phong gương mẫu, năng lực và sức chiến đấu của Đảng, từng bước
kiện toàn hệ thống tổ chức đảng từ TW đến cơ sở, phát huy vai trò của các đoàn
thể quần chúng, song chúng ta cũng đứng trước những khuyết điểm trong lãnh đạo:
quản lý kinh tế xã hội chậm được sửa chữa, cùng với những khuyết điểm kéo dài
trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của đảng, nhất là biểu hiện suy thoái
về phẩm chất cách mạng, ý chí chiến đấu. Tinh thần trách nhiệm của một bộ phận
cán bộ, đảng viên là trở ngại lớn.”
40
Trước yêu cầu đó, Đại hôi V khẳng định: “Mỗi cán bộ, đảng viên ở bất kỳ
cương vị công tác nào đều phải xem xét tác phong công tác của mình, liên hệ chặt
chẽ với quần chúng, đi sâu vào phong trào, lắng nghe ý kiến quần chúng, giữ vững
ý thức tổ chức và kỷ luật, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong đảng; chống lại
những tư tưởng, quan điểm sai lầm, bảo vệ chân lý, bảo vệ Đảng, giữ được lối sống
lành mạnh, không bị vật chất xa hoa, đồi trụy cám dỗ.”
41

Như vậy, trước thời kỳ đổi mới đất nước, chúng ta đã phải đối phó với vấn
đề tham ô, lãng phí biểu hiện ở những hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội:
ăn cắp của công, hối lộ, móc ngoặc, xâm phạm tài sản nhà nước… Là người tổ
chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã luôn luôn đề ra
nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn để đưa sự nghiệp cách mạng đi lên. Cùng với
đường lối phát triển kinh tế, Đảng cũng luôn quan tâm đến công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, gắn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.



40
Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 43. NXB CTQG. HN. 2005. Trang

151-152.
41
Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 43. NXB CTQG. HN. 2005. Trang

164.

×