Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tác động của xu thế hưởng bảo hiểm xã hội một lần đến an toàn quỹ hưu trí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.9 KB, 10 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

TÁC ĐỘNG CỦA XU THẾ HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN
ĐẾN AN TOÀN QUỸ HƯU TRÍ
PGS. TS. Trần Mạnh Dũng
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
TS. Mai Thị Hường
Trường Đại học Lao động - Xã hội
Tóm tắt: Xu hướng gần đây dưới tác động của các cú sốc kinh tế và các yếu tố
nhân khẩu học cũng như điều kiện cá nhân, NLĐ tham gia BHXH muốn rút các khoản
trợ cấp hưu trí của họ sớm hơn dự kiến dưới hình thức hưởng trợ cấp một lần. Theo
đó, Chính phủ các quốc gia đang có xu hướng nhấn mạnh về tính bắt buộc của các
chương trình lương hưu cơ bản để có thể đảm bảo an ninh thu nhập sau khi nghỉ hưu
của NLĐ và khơng khuyến khích rút tiền sớm khỏi tài khoản trợ cấp hưu trí (Butrica
và Issa, 2010). Trên thế giới, chỉ có rất ít quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ai
Cập, Indonesia, Lào, Pakistan với các chương trình hưu trí BHXH dựa trên đóng góp
của các bên liên quan quy định chi trả khoản BHXH một lần khi những người tham gia
không đủ điều kiện theo luật định để hưởng hưu trí định kỳ khi đến tuổi nghỉ hưu.
Điểm chung của các hệ thống này là quy định về việc hưởng chế độ BHXH một lần
đều rất khắt khe, nhằm giảm thiểu khả năng rời bỏ hệ thống cũng như giảm các tác
động đến tài chính quỹ. Theo đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xem xét một số
tác động của xu thế hưởng bảo hiểm xã hội một lần đến an toàn quỹ bảo hiểm xã hội
trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: bảo hiểm xã hội một lần, an toàn quỹ, Việt Nam
1. GIỚI THIỆU
Lương hưu là một phần quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của một quốc
gia. Nó giúp ngăn chặn, giảm nghèo ở người cao tuổi và đảm bảo mức sống khá sau
khi nghỉ hưu. Tính bền vững của hệ thống lương hưu đã thu hút nhiều sự chú ý xung
quanh thế giới trong bối cảnh xu hướng già hóa tồn cầu gần đây. Nhiều quốc gia đã
đã tiến hành một số cải cách về lương hưu để có được sự đầy đủ và bền vững của hệ


thống lương hưu của mình. Nhiều nghiên cứu đã xem xét các nhân tố tác động đến sự
101


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

bền vững và an toàn của quỹ hưu trí dưới tác động của các biến số nhân khẩu học như
già hóa dân số (Chirchir, 2017; Bongaarts, 2004); tuổi nghỉ hưu (Vogel và cộng sự,
2017) thu nhập và các khoản đóng góp; cơ chế cân đối quỹ (Amaglobeli và cộng sự,
2019) và các biến số kinh tế khác (Cipriani, 2014; Alda, 2017). Theo đó, trong bối
cảnh kinh tế xã hội thay đổi, nhiều quốc gia đã nỗ lực khơng ngừng nhằm cải cách hệ
thống hưu trí với mục tiêu kéo dài sự ổn định và bền vững cho quỹ đồng thời đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ.
Xu hướng gần đây, dưới tác động của biến động kinh tế với các chiều hướng
khác nhau và các yếu tố nhân khẩu học cũng như điều kiện cá nhân, NLĐ tham gia
BHXH muốn rút các khoản trợ cấp hưu trí của họ sớm hơn dự kiến dưới hình thức
hưởng trợ cấp một lần. Do đó, Chính phủ các quốc gia đang có xu hướng nhấn mạnh
về tính bắt buộc của các chương trình lương hưu cơ bản để có thể đảm bảo an ninh thu
nhập sau khi nghỉ hưu của NLĐ và khơng khuyến khích rút tiền sớm khỏi tài khoản trợ
cấp hưu trí. Tuy nhiên, có rất ít các nghiên cứu xem xét tác động của hành virus khỏi
hệ thống sớm cũng như hưởng bảo hiểm xã hội một lần đến sự an toàn của quỹ hưu trí
xã hội.
Việt Nam với mục tiêu đến năm 2030, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân
theo hướng mở rộng đối tượng tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội (BHXH),
khuyến khích nơng dân, NLĐ trong khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự
nguyện, Luật BHXH năm 2014 đã có những quy định nhằm đạt được mục tiêu này.
Trong các quy định đó có sự thay đổi về chính sách hưởng BHXH một lần đối với
người tham gia nhằm hạn chế việc người tham gia BHXH cả bắt buộc và tự nguyện rời
bỏ hệ thống để duy trì độ bao phủ của BHXH và bảo tồn những khoảng thời gian đã

đóng BHXH của họ để tích lũy dần dần cho quyền hưởng lương hưu hàng tháng trong
tương lai khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, theo báo cáo của BHXH Việt Nam giai đoạn 20142018, đã có xấp xỉ 2,7 triệu người hưởng BHXH một lần, nghĩa là bình qn mỗi năm
có hơn nửa triệu người hưởng BHXH một lần. Kết quả này đã có ảnh hưởng đáng kể
đến nỗ lực phát triển đối tượng BHXH của tồn ngành BHXH, cũng như tác động
khơng nhỏ đến cân đối quỹ BHXH.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Tiền lương hưu là khoản thu nhập mà mọi người có thể nhận được sau khi hết
tuổi lao động để thay thế thu nhập từ việc làm và thiết kế của nó dựa trên hai mục tiêu
đầy đủ về lương hưu cho người thụ hưởng và bền vững cho tài chính quỹ. Mục tiêu
102


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

của lương hưu đầy đủ là giúp người cao tuổi thoát nghèo và đảm bảo mức sống khá
sau khi nghỉ hưu. Đồng thời, mục tiêu tối quan trọng của một hệ thống lương hưu là
đạt được sự bền vững về tài chính trong dài hạn, tức là đạt được sự cân bằng tài chính
giữa thu nhập từ các khoản đóng góp và khả năng thanh tốn lương hưu hiện hành.
Chế độ hưu trí có thể được phân loại thành hai loại (Bodie và cộng sự, 1988): Hệ
thống với mức hưởng xác định trước (DB) và hệ thống với đóng góp xác định
(DC). Theo chương trình DC, mức hưởng lương hưu của mỗi người tham gia phụ
thuộc vào số tiền họ đã đóng góp và lợi nhuận của khoản tích lũy trong tài khoản
(Kruse, 1995; Choi và cộng sự, 2002). Trong chương trình DB, trợ cấp hưu trí được
xác định bằng một cơng thức có tính đến số năm đóng góp và tiền lương hoặc tiền
đóng góp của người tham gia (Harrison và Sharpe, 1983; Exley và cộng sự, 1997).
Hầu hết mọi quốc gia chọn chương trình DB khi thiết lập hệ thống lương hưu và
đa số vẫn giữ ngun hình thức đó cho đến nay bởi vì tính chất phân phối lại các
khoản đóng góp dễ dàng được Chính phủ kiểm sốt hơn. Trong khi các khoản đóng
góp được liên kết trực tiếp với các lợi ích theo chương trình DC, và cống hiến phúc lợi

cho người cao tuổi trong toàn xã hội là tương đối khó đạt được (Sullivan, 2004). Theo
đó, các mức đóng góp có thể được thay đổi bởi các cơ quan có thẩm quyền theo các
chương trình DB để đáp ứng các u cầu tài chính. Do đó, các hệ thống DB cung cấp
các lợi ích cố định dựa trên các mức đóng góp thay đổi. Ngược lại, các chương trình
DC cung cấp lương hưu thay đổi dựa trên các khoản đóng góp cố định, bởi vì quy tắc
của các chương trình DC quy định số tiền phải được đóng góp vào chương trình,
nhưng khơng phải là trợ cấp lương hưu sẽ được chi trả.
Về cơ chế chi trả, cả hai hệ thống DB và DC đều có thể dựa trên cơ chế tọa thu
tọa chi (PAYGO) để chi trả cho NLĐ. Cơ chế này thể hiện mối quan hệ phân phối
giữa người đóng và người hưởng trong cùng hệ thống. Theo cơ chế này, tiền đóng góp
của những người hiện nay đang làm việc sẽ được sử dụng để chi trả cho những người
hiện nay đang hưởng lương hưu. Do đó, nó bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố về
nhân khẩu học (Bongaarts, 2004; Chybalski, 2014). Tính bền vững về tài chính là rất
quan trọng đối với PAYG hệ thống lương hưu trong bối cảnh già hóa nhanh hiện nay,
kể từ khi tăng tuổi thọ và mức sinh giảm sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu nhân
khẩu học. Hệ thống lương hưu trả khi mua (PAYG) yêu cầu sự cân bằng giữa các
quyền lợi được trả cho những người hưởng lương hưu và những đóng góp của những
NLĐ tích cực
103


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3. TÁC ĐỘNG CỦA XU THẾ HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN ĐẾN
KHẢ NĂNG AN TOÀN VÀ CÂN ĐỐI QUỸ
3.1. Xu thế hưởng bảo hiểm xã hội một lần
Quyền lợi rút tiền là một trong những lợi ích được cung cấp bởi các quỹ an sinh
xã hội của các quốc gia khác nhau trên toàn cầu. Đây là một trong những lợi ích giúp
mang lại cho các thành viên của quỹ có cơ hội tiếp cận một cách linh hoạt một phần

hoặc tổng số tiền mặt một lần dựa trên số tiền đóng góp vào quỹ hưu trí sớm hơn so
với các điều kiện quy định (Argento và cộng sự, 2015). Quyền lợi này được cấp trong
một số trường hợp nhất định như nghỉ việc, từ chức, miễn nhiệm, cách chức hoặc thôi
giữ chức vụ và kinh tế gian khổ… Tuy nhiên, khái niệm này có xu hướng thay đổi rất
nhiều tùy thuộc vào chính sách của quốc gia và loại chương trình mà thành viên được
đăng ký. Ở một số quốc gia như Nam Phi, một thành viên có thể nhận được một khoản
thanh tốn một lần tương đương với số tiền đã đóng góp của người sử dụng lao động
và người sử dụng lao động cùng với lãi phát sinh phải trả cho một thành viên đã từ
chức, miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng hoặc bỏ trốn (Bielawska và cộng sự, 2017).
Số tiền được rút một phần hay tồn bộ cũng có sự khác nhau dựa trên cơ chế cân
đối tài chính quỹ. Phương thức cung cấp tài chính của Hoa Kỳ và Australia cho phép
rút tiền sớm một phần tài khoản hưu trí giữa những NLĐ theo kế hoạch nghỉ
hưu. Nhưng những người khơng được bảo hiểm kế hoạch nghỉ hưu hồn tồn có thể
rút tồn bộ khoản đóng góp của họ (Butrica và cộng sự, 2010). Thông thường, nếu một
công nhân từ chức và rút khỏi quỹ hưu trí, thì họ chỉ được rút phần đóng góp của chính
mình cộng với lãi suất rất nhỏ cho những đóng góp đó. NLĐ có thể khơng được nhận
lại hoặc rút ra số tiền được sự đóng góp của người sử dụng lao động vào quỹ (Amisi,
2012). Việc rút tiền sớm cũng có xu hướng khác nhau, giữa các quỹ an sinh xã hội. Ví
dụ: hầu hết các quỹ dự phịng trả lợi ích rút tiền tốt hơn quỹ hưu trí.
Động cơ rút tiền sớm có thể khác nhau ở mỗi cá nhân, tuy nhiên việc quyết định về
thời điểm nghỉ hưu là rất quan trọng đối với kế hoạch chi tiêu hưu trí do những tác động
của nó đến quyền lợi cá nhân của chính người tham gia và sự đảm bảo chi tiêu khi hết
tuổi lao động cũng như tác động đến sự cân bằng của tài chính quỹ. Thêm vào đó, sự
xuất hiện của những vấn đề tiềm ẩn xung quanh nguồn tài trợ an sinh xã hội, và sự suy
giảm lợi ích hưu trí của các hệ thống hưu trí với mức hưởng xác định (DB), khiến nhiều
cá nhân đang có xu hướng tự lập kế hoạch tiết kiệm cho riêng mình thay vì tham gia vào
hệ thống hưu trí. Tuy nhiên, Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rút bảo hiểm xã hội sớm
104



KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

giống như một con dao hai lưỡi, có thể ảnh hưởng đến an tồn thu nhập cho NLĐ trong
dài hạn (Argento và cộng sự, 2015; Ghilarducci và cộng sự, 2019).
Xét từ góc độ tiêu chuẩn quốc tế, các Công ước về An sinh xã hội (các tiêu chuẩn
tối thiểu), năm 1952 (C102) và Công ước về các chế độ Mất sức lao động, Hưu trí và Tử
tuất, năm 1967 (C128) của Tổ chức Lao động Quốc tế chỉ tập trung yêu cầu các quốc
gia thành viên “đảm bảo cho những người được bảo vệ” được hưởng chế độ hưu trí định
kỳ (hàng tháng hoặc hàng năm) tùy theo số năm đóng góp hay làm việc hoặc thường trú
của họ, mà không đề cập đến việc hưởng BHXH một lần - một hình thức hồn tồn
khơng phù hợp trong nỗ lực đảm bảo sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của
mình để đương đầu với những khó khăn, cú sốc về kinh tế và xã hội dẫn đến mất hoặc
làm giảm nghiêm trọng thu nhập do tuổi già. Đối với hệ thống BHXH, khi hưởng chế độ
BHXH một lần nghĩa là NLĐ rời bỏ hệ thống. Mức độ bao phủ của hệ thống BHXH
cũng vì thế sẽ bị thu hẹp ở cả khía cạnh số người tham gia và số người thụ hưởng các
chế độ BHXH. Từ đó, các nỗ lực mở rộng diện bao phủ và phát triển đối tượng tham gia
BHXH của các bên liên quan sẽ bị hạn chế và gặp rất nhiều khó khăn.
3.2. Tác động đến sự an tồn quỹ hưu trí
Với hệ thống lương hưu được cân đối theo cơ chế PAYGO - DB như Việt Nam
hiện nay, xu hướng rút bảo hiểm xã hội một lần sẽ ảnh hưởng đến sự an tồn của quỹ
hưu trí dưới các khía cạnh sau:
Giảm tính bền vững của hệ thống
Thiết kế ban đầu của các chương trình hưu trí hoặc các cải cách đều nhằm mục
đích đạt được hai mục tiêu chính: đầy đủ và bền vững (OECD, 2015, 2016b). Mục
đích của sự đầy đủ là để ngăn chặn đói nghèo giữa những người cao tuổi và đảm bảo
một mức sống khá sau khi nghỉ hưu. Điều này có nghĩa là những người đang tham gia
vào thị trường lao động nên có cơ hội tích lũy đủ các khoản lương hưu trong quá trình
làm việc của họ bằng cách đóng góp vào các chương trình lương hưu. Hệ thống lương
hưu nên được thiết lập theo thứ tự để cho phép các cá nhân duy trì mức sống của họ

sau khi nghỉ hưu. Một điều tối quan trọng trong mục tiêu của hệ thống lương hưu là
đạt được tính bền vững, có nghĩa là các khoản đóng góp có thể đủ khả năng chi trả
trong dài hạn. Việc rút BHXH một lần trước khi đến tuổi quy định sẽ làm cho hệ thống
đối mặt với nguy cơ tăng lương hưu hoặc nhu cầu cao hơn đối với các lợi ích khác
trong tương lai, điều này sẽ dẫn đến tính khơng bền vững. Tương tự, nếu hệ thống
lương hưu không bền vững, thì nó sẽ phải bất cập trong dài hạn. Một hệ thống lương
105


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

hưu bị phá sản về mặt tài chính khơng thể đủ khả năng trả tiền trợ cấp hưu trí, thậm chí
khơng đề cập đến việc đảm bảo mức sống tốt của những người tham gia. Do đó, các
cải cách lương hưu gần đây đang cố gắng mang lại thu nhập hưu trí đầy đủ cho người
cao tuổi, đồng thời vẫn giữ được tính bền vững tài chính của hệ thống thời gian
(OECD, 2015).
Sự đầy đủ có hai khía cạnh: mức độ đầy đủ giữa các nguồn và mức độ đầy đủ
giữa các quá trình phát triển (Sullivan, 2004). Sự đầy đủ giữa các thế hệ yêu cầu sự
phân phối các nguồn lực một cách công bằng giữa các cá nhân trong cùng một thế hệ,
trong khi sự tương xứng giữa các thế hệ liên quan đến đến sự phân bố đầy đủ giữa các
thế hệ khác nhau. Số người hưởng BHXH một lần ngày càng tăng sẽ làm giảm đi sự
phân bổ hợp lý giữa các thế hệ này.
Tác động đến mức độ đầy đủ về lương hưu
Mức độ đầy đủ về lương hưu được xem xét hai khía cạnh theo chiều ngang và
đầy đủ theo chiều dọc (Nugent và Rhinard, 2015). Theo chiều ngang, mức độ đầy đủ
địi hỏi những cá nhân đã đóng cùng một tổng số tiền trong thời gian làm việc của họ
sẽ được nhận trợ cấp hưu trí như nhau sau khi nghỉ hưu. Nói cách khác, những người ở
cùng hồn cảnh cần được đối xử tương tự. Sự thỏa đáng theo chiều dọc yêu cầu phân
phối lại thu nhập từ những khoản đóng góp phù hợp với nhu cầu của mỗi cá nhân. Nó

có nghĩa là việc phân phối lại thu nhập được vận hành dựa trên sự chia sẻ cộng
đồng. Vì nhu cầu của từng cá nhân rất khó đo lường nên nguyên tắc của mức độ thỏa
đáng theo chiều dọc chủ yếu nhằm mục đích ngăn ngừa đói nghèo. Tuy nhiên, việc rời
khỏi hệ thống sớm của những người hưởng BHXH một lần sẽ làm giảm đi sự thỏa
đáng và đầy đủ về lương hưu cho chính bản thân mỗi người trong q trình đóng góp
của mình cũng như giữa các thế hệ.
Giảm tỷ lệ thay thế cho hệ thống
Trong kế hoạch PAYG, các khoản đóng góp do những NLĐ hiện tại thực hiện sẽ
được thanh toán ngay lập tức dưới dạng trợ cấp lương hưu cho những người nghỉ hưu.
Do đó, trong hệ thống tồn tại tỷ lệ thay thế được tính bằng số người đóng trên số người
hưởng trung bình trong mỗi thời kỳ (Breyer, 1989; Breyer và Kolmar, 1994). Về mặt
kỹ thuật, hệ thống PAYG khơng mang tính dự trữ. Bởi vì PAYG có kế hoạch tài trợ
cho các khoản trợ cấp hưu trí từ đóng góp của những NLĐ hiện tại, họ có thể bắt đầu
trả lương hưu ngay khi hệ thống bắt đầu. Tuy nhiên, việc các thành viên rời bỏ hệ
thống theo cách rút bảo hiểm xã hội một lần sẽ làm giảm đi tỷ lệ thay thế và tạo ra áp
106


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

lực cho việc đảm bảo lương hưu cho những người đang hưởng dưới góc độ thanh
khoản. Đại đa số các quốc gia chọn gói PAYG vào giai đoạn đầu của hệ thống hưu trí
và duy trì hình thức hệ thống lương hưu này cho đến nay. Tuy nhiên, theo thời gian đã
xuất hiện những rủi ro tồn tại trong quá trình vận hành kế hoạch PAYG (Mylonas và
Maisonneuve, 1999). Vì trong chương trình PAYG, lợi ích mà những người hưu trí
hiện tại nhận được phụ thuộc vào lời hứa của các thế hệ sau để trả lương hưu cho họ
cho đến khi chết. Do đó, rủi ro chính tồn tại trong kế hoạch lương hưu PAYG phát
sinh do sự thay đổi tỷ lệ giữa các khoản đóng góp và lương hưu, được xác định bởi
quy mơ tương đối của hai thế hệ.

4. GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Các cải cách lương hưu trên toàn thế giới nhằm mục đích đạt được sự bền vững
về tài chính nhiều hơn cho hệ thống lương hưu PAYG, cũng có thể cung cấp đầy đủ
thu nhập của cá nhân khi về già. Các biện pháp có thể được thực hiện để cải thiện tỷ lệ
hưởng BHXH một lần cũng như gia tăng mức độ bền vững cho hệ thống BHXH có thể
bao gồm:
- Sửa đổi các quy định về mặt pháp lý nhằm giảm bớt quy định về số năm đóng
góp để người tham gia có thể được hưởng mức hưu trí hàng tháng thấp hơn hiện nay.
Điều này sẽ khiến NLĐ nhận thấy cơ hội được hưởng hưu trí khi đến tuổi về hưu và có
niềm tin vào hệ thống từ đó nỗ lực theo đuổi q trình đóng góp đảm bảo tự an sinh xã
hội của mình.
- Cần có chính sách cho phép những NLĐ đã và đang tham gia BHXH, cả bắt
buộc và tự nguyện được vay từ khoản đã đóng góp BHXH của mình để phục vụ nhu
cầu về đầu tư kinh doanh, nhà ở hoặc khám chữa bệnh dài ngày. Khi những nhu cầu
này được giải quyết, NLĐ có thể sẽ có việc làm và thu nhập ổn định, từ đó quay trở lại
đóng góp và trả nợ cho hệ thống. Điều này sẽ tạo được mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau
giữa các thành viên và hệ thống.
- Kết hợp với chính sách được vay từ khoản đã đóng góp BHXH nêu trên cần
quy định điều kiện để hưởng chính sách BHXH một lần theo hướng khuyến khích
NLĐ ở lại hệ thống lâu hơn với việc kéo dài hơn thời gian nghỉ việc có đơn hưởng
chính sách BHXH một lần.
- Nghiên cứu thay thế chế độ ốm đau bằng chế độ trợ cấp gia đình đối với các gia
đình có con trong độ tuổi từ 0-6 tuổi hoặc từ 0-15 tuổi nhằm chia sẻ một phần gánh
107


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

nặng tài chính đối với các cặp vợ chồng trẻ giúp họ yên tâm lao động, hạn chế nhận

BHXH một lần.
Ngoài ra, bản thân mỗi điều khoản của pháp luật hoặc một chính sách khơng thể
thành cơng nếu khơng có sự đồng thuận của nhóm đối tượng chịu sự điều chỉnh. Vì
vậy, cơng tác tun truyền và phổ biến pháp luật cần được đặt vào vị trí trung tâm của
q trình xây dựng và hồn thiện chính sách, pháp luật. Người dân cần được biết và
được tham vấn một cách hiệu quả (thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội, xã hội - nghề nghiệp) về ý nghĩa và mục đích của những điều chỉnh và thay đổi
chính sách, pháp luật sẽ được thông qua. Điều này sẽ giúp tạo được sự đồng thuận
trong xã hội ngay từ khi chính sách, pháp luật được thiết kế và được ban hành, cũng
như giúp NLĐ có kế hoạch chuẩn bị tốt cho các giai đoạn sau khi chính sách và pháp
luật được điều chỉnh, thay đổi.
- Trước khi giải quyết chế độ BHXH một lần cho NLĐ, cán bộ BHXH có trách
nhiệm tuyên truyền, vận động, giải thích thấu đáo cho NLĐ về lợi ích của việc tiếp tục
tham gia để hưởng hưu trí thay vì nhận BHXH một lần.
- Một chiến lược truyền thông tổng thể về mở rộng đối tượng của hệ thống
BHXH, trong đó có việc hạn chế tình trạng hưởng BHXH một lần cần được cơ quan
quản lý nhà nước về BHXH cũng như cơ quan BHXH các cấp phối hợp thực hiện
nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đóng góp tích lũy cho
chế độ hưu trí khi về già, từ đó tạo sự đồng thuận của người dân nói chung và người
tham gia BHXH nói riêng với những điều chỉnh và thay đổi của pháp luật về BHXH
trong thời gian tới, trong đó có những điều chỉnh và thay đổi trong chính sách về
hưởng BHXH một lần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alda, M. (2017), The relationship between pension funds and the stock market:
Does the aging population of Europe affect it?, Tạp chí International Review of
Financial Analysis, 49, 83-97.
2. Amaglobeli, D., Chai, H., Dable-Norris, E., Dybczak, K., Soto, M., Tieman, A.F.
(2019), The future of saving: The role of pension system design in an aging world,
Nhà xuất bản International Monetary Fund.
3. Amisi, S. (2012), The effect of financial literacy on investment decision making by

pension fund managers in Kenya, Master Thesis, University of Nairobi.
108


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 

4. Argento, R., Bryant, V.L., Sabelhaus, J. (2015), Early withdrawals from retirement
accounts during the Great Recession, Tạp chí Contemporary Economic Policy,
33(1), 1-16.
5. Bielawska, K., Chłoń-Domińczak, A., Stanko, D. (2017), Retreat from mandatory
pension funds in countries of the Eastern and Central Europe in result of financial
and fiscal crisis: Causes, effects and recommendations for fiscal rules.
6. Bodie, Z., Marcus, A.J., Merton, R.C. (1988), 'Defined benefit versus defined
contribution pension plans: What are the real trade-offs?', University of Chicago
Press, 139-162.
7. Bongaarts, J. (2004), Population aging and the rising cost of public pensions, Tạp
chí Population and Development Review, 30(1), 1-23.
8. Breyer, F. (1989), On the intergenerational Pareto efficiency of pay-as-you-go
financed pension systems, Journal of Institutional and Theoretical Economics,
643-658.
9. Breyer, F., Kolmar, M. (1994), Does the common labor market imply the need for
a European public pension system?, Diskussionsbeiträge-Serie II.
10. Butrica, B.A., Issa, P. (2010), Understanding early withdrawals from retirement
accounts, Urban Institute Washington, DC.
11. Chirchir, C.K. (2017), 'Effect of risk on return of pension schemes in Nairobi
Kenya', Master Thesis, KCA University.
12. Choi, J., Laibson, D., Madrian, B.C., Metrick, A. (2002), Defined contribution
pensions: Plan rules, participant choices, and the path of least resistance, Tax
policy and the economy, 16, 67-113.

13. Chybalski, F. (2014), 'Financial stability of pension systems: A cross country
analysis', Kỷ yếu hội thảo: Proceedings of the 14th international conference on
finance and banking, 150-158.
14. Cipriani, G.P. (2014), Population aging and PAYG pensions in the OLG model,
Journal of population economics, 27(1), 251-256.
15. Exley, C.J., Mehta, S.J.B., Smith, A.D. (1997), The financial theory of defined
benefit pension schemes, British Actuarial Journal, 3(4), 835-966.
109


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN Ở VIỆT NAM - THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

16. Ghilarducci, T., Radpour, S., Webb, A. (2019), New Evidence on the Effect of
Economic Shocks on Retirement Plan Withdrawals, Institutional Investor Journals
Umbrella.
17. Harrison, J.M., Sharpe, W.F. (1983), 'Optimal funding and asset allocation rules
for defined-benefit pension plans', In Financial aspects of the United States
pension system, University of Chicago Press, 91-106.
18. Kruse, D.L. (1995), Pension substitution in the 1980s: Why the shift toward
defined contribution?, A Journal of Economy and Society, 34(2), 218-241.
19. Mylonas, P., Maisonneuve, C.D. (1999), The problems and prospects faced by
pay-as-you-go pension systems: A case study of Greece.
20. Nugent, N., Rhinard, M. (2015), The european commission, Macmillan
International Higher Education.
21. Sullivan, M. (2004), Understanding pensions, Routledge Press.
22. Vogel, E., Ludwig, A., Börsch-Supan, A. (2017), Aging and pension reform:
extending the retirement age and human capital formation, Journal of Pension
Economics & Finance, 16(1), 81-107.


110



×