Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BÁO cáo THẢO LUẬN môn CÔNG PHÁP QUỐC tế năm 2000, quốc gia x trở thành thành viên chính thức của WTO với hàng loạt các cam kết đã được thoả thuận trước đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.53 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ-LUẬT
—^^Q^^—

BÁO CÁO THẢO LUẬN
MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC
TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Đỗ Hồng
Quyên
Lớp học phần:

2051BLAW2711

Nhóm thực hiện:

Nhóm 01


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 01

ST

Họ Và Tên

LHC

01

Phạm Gia Khánh An


K54P3

Tình huống 2

02

Đỗ Thị Lan Anh

K54P3

Tình huống 1

03

Đồn Mai Anh

K54P3

Tình huống 1

T

04

Dương Thị Vân Anh

K54P3

05


Hà Quỳnh Anh

K54P3

06

Nguyễn Thị Anh

K54P4

(Nhóm trưởng)

Cơng việc

Tình huống 2
Tổng hợp Word
Làm
powerpoint
Lên dàn ý
Thuyết trình

07

Nguyễn Thị Ngọc Anh

K54P4

Tình huống 1

08


Nguyễn Thị Vân Anh

K54P4

Tình huống 2

09

Trần Vân Anh

K54P1

MB + KL tình
huống 2

10

Đồn Thị Ngọc Ánh

K54P3

MB + KL tình
huống 1

2

Đánh giá



MỤC LỤC

3


BÀI TẬP 1:
Năm 2000, quốc gia X trở thành thành viên chính thức của WTO với hàng loạt các
cam kết đã được thoả thuận trước đó. Trong đó có thoả thuận về lộ trình giảm thuế
của quốc gia này đối với một số mặt hàng trong nhóm các nước WTO.
Hạn cuối thực hiện lộ trình của quốc gia X đối với việc giảm thuế là năm 2011.
Đến tháng 12/2011, Quốc hội của Quốc gia X vẫn chưa hề có động tĩnh gì trong
việc ban hành các văn bản pháp lý cần thiết để quy định việc giảm thuế suất. Vì vậy
WTO đã cáo buộc quốc gia này vi phạm pháp luật quốc tế.
Quốc gia X có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý hay khơng? Giải thích?
BÀI LÀM:
I. Giới thiệu chung vấn đề:
Việc gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới là một bước ngoặt, một dấu mốc đối
với đa số các quốc gia. Vì vậy, đi đôi với quyền lợi, các quốc gia phải đảm bảo
nguyên tắc tơn trọng, tận tâm, thiện chí đối với cam kết quốc tế; thể hiện thiện chí hợp
tác phát triển, đơi bên cùng có lợi.
II. Giải quyết tình huống:
1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý quốc tế:
-

Dưới góc độ là chế định của Luật Quốc tế:

Trách nhiệm pháp lý quốc tế là tổng thể những nguyên tắc và quy phạm pháp luật
quốc tế điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của Luật Quốc tế (mà chủ yếu
là các quốc gia) trong trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế hoặc thực hiện
những hành vi mà luật quốc tế không cấm, gây thiệt hại cho chủ thể khác.

-

Trong quan hệ pháp luật quốc tế:

Trách nhiệm pháp lý quốc tế là quan hệ phát sinh giữa một bên là chủ thể Luật
Quốc tế có hành vi gây thiệt hại với một bên là chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm hại
do những hành vi đó.
-

Dưới góc độ là một hiện tượng của đời sống quốc tế:


Trách nhiệm pháp lý quốc tế là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể của Luật quốc
tế phải gánh chịu do có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế hoặc do thực hiện các
hànhvi mà luật quốc tế không cấm nhưng gây thiệt hại cho các chủ thể khác hoặc cho
cộng
đồng quốc tê.
2. Giải quyết vấn đề:
Để xác định việc quốc gia X có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý hay không cần
dựa vào 3 yếu tố:
+ Có hành vi trái pháp luật quốc tế
+ Có thiệt hại
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
• Hành vi trái pháp luật quốc tế:

Hành vi trái pháp luật quốc tế là hành vi vi phạm các nguyên tắc và quy phạm luật
quốc tế, vi phạm các nghĩa vụ quốc tế, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
các cam kết quốc tế, kể cả việc không thực hiện những hành vi cần phải thực hiện
theo đúng quy định của luật quốc tế nhằm ngăn ngừa, trừng trị kẻ vi phạm. Gồm 2
dạng hành động và không hành động. Đây luôn được coi là điều kiện cơ bản để có cơ

sở xác định có hay khơng trách nhiệm pháp lý quốc tế. Thiếu điều kiện này thì khơng
đặt ra trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Căn cứ Điều 1 Nghị quyết 56/83 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về trách
nhiệm quốc tế của quốc gia đối với hành vi trái Luật quốc tế: “Chủ thể của Luật
quốc
tế có các hành vi trái luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế”
- Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 56/83 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về trách
nhiệm quốc tế của quốc gia đối với hành vi trái Luật quốc tế:
-

“Hành vi trái luật quốc tế của một quốc gia là hành vi bao gồm hành động và
không hành động:
a. được quy cho quốc gia đó theo luật pháp quốc tế; và
b. cấu thành một vi phạm nghĩa vụ của quốc gia đó”
- Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 56/83 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về Trách
nhiệm quốc tế của quốc gia đối với hành vi trái Luật quốc tế:
“Quốc gia vi phạm cam kết quốc tế khi có hành vi khơng phù hợp với các nghĩa vụ


mà quốc gia đó đã cam kết ”


Quốc gia X đã cam kết thực hiện lộ trình giảm thuế xuất đối với một số mặt hàng
trong nhóm các nước WTO với hạn cuối thực hiện lộ trình của quốc gia X đối với
việc giảm thuế là năm 2011 thì bắt buộc quốc gia X phải tuân thủ, thực hiện đúng
trong thời hạn cam kết. Tuy nhiên đến tháng 12/2011, Quốc hội của Quốc gia X vẫn
chưa hề có động tĩnh gì trong việc ban hành các văn bản pháp lý cần thiết để quy định
việc giảm thuế suất (khơng có lý do chính đáng - nếu trong trường hợp đặc biệt, vì có
lý do khách quan dẫn đến việc quốc gia X không thực hiện đúng thời hạn: do thiên
tai, do chiến tranh,.. thì quốc gia X phải có nghĩa vụ báo lại với các quốc gia có liên

quan và được sự đồng ý của các quốc gia đó. Nhưng ở đây, quốc gia X khơng có động
tình gì - nên khơng nằm trong các trường hợp ngoại lệ/ miễn trừ trách nhiệm).
Quốc gia X không tuân thủ việc thực hiện thoả thuận một cách thiện chí, triệt để.
Bởi việc ban hành các văn bản pháp lý cần thiết để quy định việc giảm thuế suất phải
cần khá nhiều thời gian, công sức và phải chuẩn bị trước khá lâu. Do đó có thể thấy
quốc gia X khơng có sự chuẩn bị, khơng có thiện chí thực hiện nghĩa vụ cam kết quốc
tế mà mình đã thỏa thuận. Theo đó, cáo buộc của WTO về việc quốc gia X vi phạm
pháp luật quốc tế là hoàn toàn có căn cứ.
=> Quốc gia X đã vi phạm nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết là hành vi
trái pháp luật quốc tế. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong Luật quốc
tế:
+ Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung thực và

đầy đủ các nghĩa vụ Điều ước quốc tế của mình. Điều này xuất phát từ việc các quốc
gia tiến hành thực hiện các cam kết do chính mình đưa ra (cam kết đơn phương).
+ Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế,
tuân thủ một cách triệt để, khơng do dự. Điều này có nghĩa là điều ước quốc tế phải
được thực hiện triệt để, không phụ thuộc vào các sự kiện trong và ngoài nước.
- Chủ thể trong quan hệ trách nhiệm pháp lý:
+ Quốc gia X là chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế.
+ Tổ chức WTO là chủ thể truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Hành vi trái pháp luật luôn được coi là điều kiện cơ bản để có cơ sở xác định có
hay khơng trách nhiệm pháp lý quốc tế, thiếu điều kiện này thì khơng đặt ra trách
nhiệm pháp lý quốc tế.


=> Như vậy, quốc gia X (chủ thể của luật quốc tế) phải chịu trách nhiệm pháp lý
quốc tế do có hành vi trái pháp luật quốc tế.



Thiệt hại:

Để buộc một chủ thể luật quốc tế phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường do hành
vi trái pháp luật của mình thì hành vi đó dù ở mức độ hay hình thức nào cũng phải đã
gây ra thiệt hại cho chủ thể khác. Yếu tố thiệt hại là cơ sở quan trong để để tính tốn
việc bồi thường. Thiệt hại có thể là thiệt hại vật chất và thiệt hại phi vật chất. So với
điều kiện về hành vi trái pháp luật, yếu tố thiệt hại khơng có ý nghĩa quyết định đối
với việc xác định có trách nhiệm pháp lý quốc tế hay khơng, nó là cơ sở để giải quyết
bồi thường thiệt hại khi xác định đã có trách nhiệm pháp lý.
=> Trong trường hợp này, hành vi của quốc gia X chưa gây ra thiệt hại thực tế (do
chưa đến hạn quốc gia X phải hoàn thành cam kết). Nhưng có thể thấy rõ, việc quốc
gia X khơng thực hiện cam kết một cách thiện chí (ban hành các văn bản pháp lý cần
thiết để quy định việc giảm thuế suất phải cần khá nhiều thời gian, công sức và phải
chuẩn bị trước khá lâu và quốc gia X khơng có động tĩnh gì) thì có thể sẽ trực tiếp gây
ra thiệt hại vật chất, ở đây là thiệt hại về lợi ích kinh tế, tài chính cho một số quốc gia
được hưởng ưu đãi về lãi suất như lộ trình đặt ra. Tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại xảy
ra đối với nhóm các quốc gia trong WTO để xác định được mức bồi thường quốc gia
X phải chịu.


Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:

Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại xảy
ra, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định.
=> Việc quốc gia X không thực hiện cam kết là nguyên nhân trực tiếp đến thiệt hại
đối với nhóm nước trong tổ chức WTO. Có nghĩa là nếu như quốc gia X thực hiện
đúng về thời hạn, nội dung việc giảm thuế suất thì sẽ khơng gây ra những thiệt hại
trên.
Kết luận: Quốc gia X đã có hành vi trái pháp luật quốc tế và dù chưa có thiệt hại
xảy ra nhưng quốc gia X vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trước mắt chưa

có thiệt hại gì xảy ra nhưng hành vi trái pháp luật của quốc gia X thực chất tiềm ẩn rất
nhiều nguy cơ gây ra thiệt hại. Chính vì vậy nên nếu hành vi trái pháp luật của quốc
gia X gây nên thiệt hại trực tiếp cho nhóm các quốc gia trong WTO thì tuỳ thuộc vào
mức độ thiệt hại sẽ xác định được mức bồi thường quốc gia X phải chịu.


III.

Kết thúc vấn đề:

Mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm đối với những mối quan hệ hợp tác song
phương, đa phương của mình, đảm bảo những nguyên tắc nhất định khi tham gia các
thỏa thuận quốc tế; thể hiện sự thiện chí, tận tâm đối với các thỏa thuận đó. Đây cũng
là một trong những biểu hiện rõ ràng nhất để các quốc gia khác chiếu vào, đánh giá và
xem xét phát triển mối quan hệ với quốc gia này.
BÀI TẬP 2:
Năm 2010 tại quốc gia A xảy ra cuộc biểu tình với quy mơ lớn. Tuy nhiên cuộc
biểu tình này lại nhằm vào đại sứ quán Hàn Quốc tại quốc gia A. Đại sứ quán Hàn
Quốc bị ném đá và gạch rất nhiều vào bên trong trụ sở. Tuy nhiên, dù biết được thơng
tin chính xác của vụ việc nói trên, nhưng quốc gia A đã khơng thực hiện hành vi ngăn
chặn để bảo vệ an ninh cho khu vực trụ sở ngoại giao của Hàn Quốc.
1. Quốc gia A có phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế hay khơng? Vì sao?
2. Giả sử rằng, quốc gia A thực hiện mọi hành động để ngăn ngừa hành vi nói trên

cơ quan tài phán của A cũng đã tiến hành xét xử 1 số đối tượng tổ chức cuộc
biểu
tình. Cơ quan tài phán của quốc gia A có quyền xét xử đối với các đối tượng tổ
chức
cuộc biểu tình đó hay khơng vì có quan điểm cho rằng cơ quan tài phán của
quốc

gia
khơng có thẩm quyền nói trên.
BÀI LÀM
I. Giới thiệu chung về vấn đề:


Hằng năm, các cuộc biểu tình của người dân nhắm vào đại sứ qn xảy ra khơng ít
trên thế giới với nhiều mục đích khác nhau ví dụ như ngày 26/10/2020, hàng nghìn
người biểu tình tiến vào Đại sứ quán Đức ở Bangkok (Thái Lan) để yêu cầu điều tra
các hoạt động của nhà vua Maha Vajiralongkorn trong thời gian ông ở Đức hay ngày
28/10/2020 hàng chục người Iran tập trung bên ngoài đại sứ quán Pháp tại Tehran để
phản đối Tổng thống Macron vì cho rằng ơng này có quan điểm "chống Hồi giáo",
ngày 13/12/2019 Người Hàn Quốc biểu tình bên ngồi Đại sứ qn Mỹ ở Seoul, nhằm
phản đối yêu cầu tăng "phí bảo vệ" của Tổng thống Trump. Vậy liệu các cuộc biểu
tình đó sẽ được giải quyết như thế nào? Ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm pháp lývà
hành vi đó sẽ chịu sự điều chỉnh của những văn bản pháp luật nào? Đó là câu hỏi
mà chúng ta cần phải tìm hiểu.
IV.Giải quyết vấn đề:
1. Quốc gia A có phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế hay khơng? Vì sao?
❖ Khái niệm trách nhiệm pháp lý quốc tế:
-

Góc độ là một hiện tượng của đời sống quốc tế:

Trách nhiệm pháp lý quốc tế là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể Luật Quốc tế
phải gánh chịu do có hành vi vi phạm luật quốc tế hoặc do thực hiện các hành vi mà
luật quốc tế không cấm nhưng gây thiệt hại cho các chủ thể khác hoặc cho cộng đồng
quốc tế.
-


Góc độ là chế định của Luật Quốc tế:

Trách nhiệm pháp lý quốc tế là tổng thể những nguyên tắc và quy phạm luật quốc
tế điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của Luật Quốc tế ( mà chủ yếu là các
quốc gia) trong trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế hoặc thực hiện
những hành vi mà luật quốc tế không cấm, gây thiệt hại cho chủ thể khác.
-

Quan hệ pháp luật quốc tế:

Trách nhiệm pháp lý quốc tế là quan hệ phát sinh giữa một bên là chủ thể Luật
Quốc tế có hành vi gây thiệt hại với một bên là chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm hại
do những hành vi đó.
❖ Cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý của quốc gia A:
Trong tình huống này quốc gia A phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế. Điều đó
được chứng minh qua các yếu tố sau:
• Có hành vi trái pháp luật quốc tế:


Hành vi trái pháp luật quốc tế là hành vi vi phạm các nguyên tắc và quy phạm luật
quốc tế, vi phạm các nghĩa vụ quốc tế, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
các cam kết quốc tế, kể cả việc không thực hiện những hành vi cần phải thực hiện
theo đúng quy định của luật quốc tế nhằm ngăn ngừa, trừng trị kẻ vi phạm.


-

Căn cứ Điều 1 Nghị quyết 56/83 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về trách
nhiệm quốc tế của quốc gia đối với hành vi trái Luật quốc tế: “ Chủ thể của
Luật

quốc tế có các hành vi trái luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế” =>
Quốcgia A là chủ thể của Luật Quốc tế vì vậy quốc gia A cũng phải chịu mọi
trách
nhiệm
pháp lý quốc tế đối với nhữn hành vi trái pháp luật.

-

Căn cứ Khoản 2 Điều 22 Công ước Viên 1961 về Quan hệ Ngoại giao quy
định : “Nước tiếp nhận có nghĩa vụ đặc biệt thi hành mọi biện pháp thích đáng
để
ngăn chặn việc xâm nhập hoặc làm hư hại trụ sở của cơ quan đại diện, việc phá
rối
sự yên tĩnh hoặc làm tổn hại đến phẩm cách của cơ quan đại diện.”

-

Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 56/83 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về Trách
nhiệm quốc tế của quốc gia đối với hành vi trái Luật quốc tế:

“Hành vi trái luật quốc tế của một quốc gia là hành vi bao gồm hành động và
không hành động:
a) Được quy cho quốc gia đó theo luật pháp quốc tế; và
b) Cấu thành một vi phạm nghĩa vụ của quốc gia đó”
-

Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 56/83 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về Trách
nhiệm quốc tế của quốc gia đối với hành vi trái Luật quốc tế: “Quốc gia vi
phạm
cam

kết quốc tế khi có hành vi khơng phù hợp với các nghĩa vụ mà quốc gia đó đã
cam
kết”

=> Việc Hàn Quốc đặt trụ sở ngoại giao của mình tại Quốc gia A, như vậy, giữa Quốc
gia A và Hàn Quốc có tồn tại việc ký kết điều ước quốc tế về quan hệ ngoại giao.
Quốc gia A đã có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế khi không thực hiện nghĩa vụ
đã cam kết trong Công ước Viên 1961, cụ thể: Mặc dù biết được thơng tin chính xác
của vụ việc nói trên, nhưng quốc gia A đã không thực hiện hành vi ngăn chặn để bảo
vệ an ninh cho khu vực trụ sở ngoại giao của Hàn Quốc - là mục tiêu của cuộc biểu
tình quy mơ lớn.


• Có thể có thiệt hại xảy ra:

Yếu tố thiệt hại là cơ sở quan trọng để tính tốn việc bồi thường, nó xác định trách
nhiệm pháp lý quốc tế, là cơ sở để giải quyết bồi thường thiệt hại khi xác định đã có
trách nhiệm pháp lý.
Đại sứ quán Hàn Quốc bị ném đá và gạch rất nhiều vào bên trong trụ sở nhưng lại
khơng có sự bảo vệ, ngăn chặn của quốc gia A => Điều này, có thể dẫn đến thiệt hại
về tài sản, gây thương tích đối với các thành viên làm việc bên trong Đại sứ quán Hàn
Quốc.


• Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại:

Tuy hành vi này không phải nhân danh quốc gia A nhưng quốc gia trên đã biết về
vụ việc lại khơng có bất kỳ hành vi nào nhằm ngăn chặn, bảo vệ Đại sứ quán Hàn
Quốc trước cuộc biểu tình quy mơ lớn có thể gây thiệt hại cho đại sứ quán của Hàn
Quốc => Gián tiếp làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia A khi

không thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Đại sứ quán Hàn Quốc .
=> Như vậy, quốc gia A có phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế.
2. Giả sử rằng, quốc gia A thực hiện mọi hành động để ngăn ngừa hành vi nói
trên và cơ quan tài phán của A cũng đã tiến hành xét xử 1 số đối tượng tổ
chức
cuộc biểu tình. Cơ quan tài phán của quốc gia A có quyền xét xử đối với các
đối
tượng tổ chức cuộc biểu tình đó hay khơng vì có quan điểm cho rằng cơ
quan
tài
phán của quốc gia khơng có thẩm quyền nói trên?
Cơ quan tài phán quốc gia là cơ quan do quốc gia đó thành lập nhằm thực hiện
chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh theo một trình tự, thủ tục nhất định do
quy phạm pháp luật quy định.
Trong pháp luật quốc tế, có hai loại quyền tài phán: theo lãnh thổ và theo quốc
tịch. Quyền tài phán theo lãnh thổ là quyền tài phán được thực hiện trong phạm vi
lãnh thổ nhất định. Trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của mình, nhà nước thực hiện
quyền tài phán đầy đủ trừ những trường hợp có quy định khác trong điều ước quốc tế.
Quyền tài phán của quốc gia thực hiện theo nguyên tắc: mọi hành vi vi phạm pháp
luật do công dân, tổ chức, của bất cứ quốc gia nào, trừ những người được miễn trừ
ngoại giao mà xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia - bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng
biển đều do các cơ quan xét xử của quốc gia nơi xảy ra vi phạm pháp luật hoặc xảy ra
tranh chấp xét xử và xét xử theo pháp luật của quốc gia đó.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 22 Công ước Viên 1961 về Quan hệ
Ngoại giao quy định :
“Nước tiếp nhận có nghĩa vụ đặc biệt thi hành mọi biện pháp thích đáng để ngăn
chặn việc xâm nhập hoặc làm hư hại trụ sở của cơ quan đại diện, việc phá rối sự yên



tĩnh hoặc làm tổn hại đến phẩm cách của cơ quan đại diện.”


=> Như vậy, việc quốc gia A thực hiện mọi hành động để ngăn ngừa hành vi biểu tình
và cơ quan tài phán của A cũng đã tiến hành xét xử 1 số đối tượng tổ chức cuộc biểu
tình là hồn tồn có căn cứ đúng với quy định của pháp luật quốc tế.
Bên cạnh đó, cuộc biểu tình diễn ra trên lãnh thổ của quốc gia vì thế các đối tượng
đó phải chịu trách nhiệm theo luật pháp của quốc gia A quy định. Cơ quan tài phán
của quốc gia A có quyền xét xử đối với các đối tượng tổ chức cuộc biểu tình đó theo
quy định của quốc gia mình.
Tuy nhiên, trong trường hợp người thực hiện cuộc biểu tình đó thuộc các đối
tượng được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật
quốc gia A và theo điều ước quốc tế mà A là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế,
thì vấn đề trách nhiệm pháp lý của họ được giải quyết theo quy định của điều ước
quốc tế hoặc tập qn quốc tế đó, trường hợp khơng có quy định thì có thể giải quyết
bằng con đường ngoại giao.
Theo đó, cơ quan tài phán của quốc gia A hồn tồn có thẩm quyền xét xử các đối
tượng tổ chức biểu tình trên theo quy định của quốc gia A và pháp luật quốc tế trừ
trường hợp đối tượng đó là đối tượng được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại
giao hoặc lãnh sự.
V. Kết thúc vấn đề:
Là chủ thể cơ bản và quan trọng nhất của Luật Quốc tế, mỗi quốc gia đều được
hưởng quyền và phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đúng như đã cam kết trong
các Điều ước Quốc tế. Khi có sự biến pháp lý xảy ra thì mọi hành động hoặc khơng
hành động của quốc gia đó đều có thể trở thành căn cứ để xác định trách nhiệm pháp
lý trên trường quốc tế.




×