Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

BÀI TẬP MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC đề TÀI VẤN đề DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ độ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LIÊN HỆ VỚI VẤN đề DÂN TỘC ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
LIÊN HỆ VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP CC01 --- NHÓM 14 --- HK 211
NGÀY NỘP: 17/10/2021

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Như Hoa

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Chính Khơi
Nguyễn Hồng
Cao Bá Huy
Lê Đức Cầm
Nguyễn Quốc Thắng
Đỗ Đăng Khoa

Mã số sinh viên
1952793
1952255
1952713
1952588
1910551
1952295


Thành phố Hồ Chí Minh – 2021

Điểm số


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Mơn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: CC01

Tên nhóm: 14

HK: 211

Năm học: 2021-2022

Đề tài:

VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
LIÊN HỆ VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
……………………………………................................................................................................................................

STT

Mã số SV

1
2
3
4
5

6

1952793
1952255
1952713
1952588
1910551
1952295

Họ
Nguyễn Chính
Nguyễn
Cao Bá
Lê Đức
Nguyễn Quốc
Đỗ Đăng

Tên
Khơi
Hồng
Huy
Cầm
Thắng
Khoa

Nhiệm vụ được phân công
1.1, Phần kết luận
2.2.1, 2.2.2
2.1
Phần mở đầu

2.2.3, Tiểu kết chương 2
1.2, Tiểu kết chương 1

%
Điểm
BTL
100%
100%
100%
100%
100%
100%

Điểm
BTL

Ký tên

Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Chính Khơi
Số ĐT: 0919877216
Email:
Nhận xét của GV:
.........................................................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................................

GIẢNG VIÊN
(Ký và ghi rõ họ, tên)


NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Nhiệm vụ của đề tài ......................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỐC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..............4
1.1. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ......................4
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc ..............................................4
1.1.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc .............................................8
1.2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc ...........................................................................................11
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 13
Chương 2: VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................14
2.1. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam .........................................................................14
2.1.1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam ............................................................... 14
2.1.2. Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề
dân tộc ..............................................................................................................16
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách dân tộc Việt
Nam ......................................................................................................................20
2.2.1. Những thành tựu về việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta
hiện nay ............................................................................................................20
2.2.2. Một số hạn chế cần khắc phục ............................................................. 22
2.2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách dân tộc
Việt Nam ..........................................................................................................25

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 27
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................30


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước như hiện nay,
để ổn định tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội trong nước đồng thời thúc đẩy
sản xuất công nghiệp, khoa học kĩ thuật, quốc phòng an ninh và giao lưu với bạn bè
quốc tế thì việc có được những chính sách, bước tiến, hành động nhằm gắn kết các dân
tộc, các tổ chức, các tỉnh thành và các vùng miền lại với nhau là nhiệm vụ tuyệt đối quan
trọng bởi nó quyết định vấn đề thành hay bại của một quốc gia. Khơng những thế, chính
sách dân tộc đúng đắn sẽ góp phần duy trì, cải thiện và khẳng định chủ trương của Đảng
và nhà nước về thực hiện bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
Các chính sách giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện tại tập trung vào việc
cụ thể hóa những quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, tác động trực tiếp
đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc, xây dựng và thực hiện những chính sách trên
phải dựa vào những nguyên tắc cơ bản như: bình đẳng, đồn kết, giải quyết hài hòa quan
hệ giữa các dân tộc và cùng nhau phát triển. Về mục tiêu, chính sách dân tộc khai thác
mọi tiềm năng, thế mạnh của các dân tộc và của cả đất nước, từng bước khắc phục và
làm giảm đi khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, xóa đói giảm nghèo, thực hiện
sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều chính sách về
vấn đề dân tộc để xử lí các vấn đề thực tiễn, quan trọng và đã đạt được rất nhiều thành
tựu quan trọng. Tuy nhiên để có sự chuẩn bị kĩ lưỡng cho tương lai, chúng ta phải liên
tục phân tích, đánh giá, nhìn nhận khách quan và đưa ra các giải pháp tối ưu hơn để tháo
gỡ các bất cập, hạn chế trong công tác dân tộc. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ln tích
cực thực hiện một cách đồng bộ, tồn diện và có khoa học các giải pháp để giải quyết,

hoàn thiện các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, về vấn đề kinh tế: cần tập trung phát triển kinh tế hàng hóa, phát huy
các nguồn lực, tiềm năng kinh tế của mọi vùng miền, từ miền núi sang tới đồng bằng và
hải đảo, không để cá nhân hay bộ phận dân tộc thiểu số nào bị bỏ lại phía sau. Xây dựng

1


kết cấu hạ tầng và mạng lưới giao thông đến mọi vùng kinh tế, thực hiện chính sách về
định cư và bảo vệ mơi trường.
Thứ hai, về chính trị - xã hội: phát huy quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc
trên mọi lĩnh vực trong đời sống, thực hiện cơng bằng xã hội giúp người dân thuộc bất
kì dân tộc nào đều có cơ hội và động lực mạnh mẽ nhất để biến tiềm năng thành thành
tựu.
Thứ ba, về văn hóa - xã hội: chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, tập
trung xóa đói giảm nghèo, đấu tranh chống lại tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, văn hóa
phẩm độc hại, thiếu đạo đức. Ngồi ra cịn phải dùy trì, lưu giữ các nét đẹp văn hóa đặc
trưng của các dân tộc ở mỗi vùng miền.
Thứ tư, về quốc phòng - an ninh: bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội,
ngăn chặn mọi hành động gây chia rẽ, kích động làm mâu thuẫn mối quan hệ giữa các
dân tộc. Tiến tới xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Từ các lý do, đã đề cập ở trên, chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu đề tài
“Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với vấn đề dân tộc ở
việt nam hiện nay” với các mục tiêu cụ thể sau:
Một là, tìm hiểu về khái niệm và các đặc trưng cơ bản của vấn đề dân tộc, chỉ rõ
sự thống nhất biện chứng của các mối quan hệ cộng đồng từ đó hiểu sâu hơn về sự hình
thành các dân tộc, cộng đồng dân tộc xuyên suốt lịch sử và các yếu tố nào ảnh hưởng
đến q trình trên.
Hai là, phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Chủ

nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng
Cộng sản Việt Nam, có vai trị đặc biệt quan trọng việc xây dựng và thực hiện các chính
sách nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc.
Ba là, khái quát tình hình về việc ban hành và triển khai các chính sách dân tộc
ở Việt Nam và làm rõ các đặc điểm cơ bản của chúng. Chính sách về vấn đề dân tộc sẽ
góp phần quyết định khá lớn trong các lĩnh vực đời sống - kinh tế - xã hội, vậy nên để

2


có được một chính sách mang tính cách mạng, thực tiễn, tiến bộ, nhân đạo và cân bằng
lợi ích một cách hài hòa là điều phải cố gắng thực hiện.
Bốn là, đánh giá thực trạng và tính thực tiễn của các chính sách dân tộc ở Việt
Nam hiện nay trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc từ cơ bản đến phức tạp nhằm có
một cái nhìn chun sâu, kĩ lưỡng về các chính sách đấy từ đó làm nền móng cho các
giải pháp về vấn đề dân tộc của một quốc gia.
Năm là, đề xuất các giải pháp để tháo gỡ hạn chế và cải thiện các quyết sách
nhằm củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, gia tăng
nguồn lực phát triển các lĩnh vực kinh tế, khoa học - cơng nghệ, văn hóa, quốc phịng
an ninh… làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

3


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỐC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác — Lênin, dân tộc là q trình phát triển lâu
dài của xã hội lồi người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm:
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên
nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
xác lập thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Ở phương Đông, dân tộc được hình
thành trên cơ sở một nền văn hoá, một tâm lý dân tộc đã phát triển tương đối chín muỗi
và một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất định song nhìn chung còn kém
phát triển và ở trạng thái phân tán.
Cho đến nay, dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, dân tộc (nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người
ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có
ngơn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhân bởi quyền lợi
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống điểu tranh chung trong suốt quá
trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, khái niệm dân tộc dùng để
chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước. Ví dụ, dân tộc Ấn Độ, dân
tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam v.v...
Theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Lãnh thổ là dấu hiệu xác định không gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc,
biểu thị vùng đất, vùng trời, vùng biển mà mỗi dân tộc được quyền sở hữu. Lãnh thổ là
yếu tố thể hiện chủ quyền của một dân tộc trong tương quan với các quốc gia dân tộc

4


khác. Trên khơng gian đó, các cộng đồng tộc người có mối quan hệ gắn bó với nhau, cư
trú đan xen với nhau. Vận mệnh của cộng đồng tộc người gắn bó với việc xác lập và bảo
vệ lãnh thổ quốc gia.
Đối với quốc gia và từng thành viên dân tộc, yếu tố lãnh thổ là thiêng liêng nhất.

Khơng có lãnh thổ thì khơng có khái niệm Tổ quốc, quốc gia. Bảo vệ chủ quyền quốc
gia là nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành viên dân tộc. Chủ quyền quốc gia
dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định thường được thể chế hóa thành luật pháp
quốc gia và luật pháp quốc tế.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. q trình di cư khiến khơng ít cư dân của
một quốc gia lại cư trú ở nhiều quốc gia. châu lục khác. Vậy nên, khái niệm dân tộc,
lãnh thổ, hay đường biên giới không chỉ bó hẹp trong biên giới hữu hình, mà đã được
mở rộng thành đường biên giới “mềm”, ở đó đầu ấn văn hóa lại chính là yếu tố mạnh
nhất để phân định ranh giới giữa các quốc gia dân tộc.
Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.
Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận,
các thành viên trong dân tộc, tạo nên tính thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc.
Mối quan hệ kinh tế là nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Nếu thiếu tính
cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa thể trở thành dân tộc.
Thứ ba, có chung một ngơn ngữ làm cơng cụ giao tiếp.
Mỗi một dân tộc có ngơn ngữ riêng, bao gồm cả ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết,
làm cơng cụ giao tiếp giữa các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và
tình cảm... Trong một quốc gia có nhiều cộng đồng tộc người, với các ngơn ngữ khác
nhau, nhưng bao giờ cũng sẽ có một ngơn ngữ chung, thống nhất, Tính thống nhất trong
ngơn ngữ dân tộc được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho
từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ dân tộc là một ngôn ngữ đã phát triển và sự thống nhất về
ngôn ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.
Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
Văn hóa dân tộc được biểu hiện thơng qua tâm lý. tính cách, phong tục, tập quán,
lối sống dân tộc, tạo nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt

5


chẽ với văn hóa của các cộng đồng tộc người trong một quốc gia. Văn hóa là một yếu

tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc
đáo của dân tộc mình. Trong sinh hoạt cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc
những thành phần xã hội khác nhau tham gia vào sự sáng tạo giá trị văn hóa chung của
dân tộc, đồng thời hấp thụ các giá trị văn hóa chung đó.
Cá nhân hoặc nhóm người nào từ chối những giá trị văn hóa dân tộc thì họ đã tự
mình tách khỏi cộng đồng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc không thể phát triển nếu
không giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác. Tuy nhiên. trong giao lưu văn hóa,
các dân tộc ln có ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh nguy cơ đồng
hóa về văn hóa.
Thứ năm, có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc).
Các thành viên cũng như các cộng đồng tộc người trong một dân tộc đều chịu sự
quản lý, điều khiển của một nhà nước độc lập. Đây là yếu tố phân biệt dân tộc - quốc
gia và dân tộc - tộc người. Dân tộc - tộc người trong một quốc gia khơng có nhà nước
với thể chế chính trị riêng. Hình thức tổ chức, tính chất của nhà nước do chế độ chính
trị của dân tộc quyết định. Nhà nước là đặc trưng cho thể chế chính trị của dân tộc, là
đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các quốc 1a dân tộc khác trên thể giới.
Các đặc trưng cơ bản nói trên gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể, đồng
thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Các đặc trưng ấy có quan hệ nhân quả, tác
động qua lại, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và độc đáo trong lịch sử hình thành và
phát triển của dân tộc, tạo nên tính ổn định, bền vững của cộng đồng dân tộc.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnie) là khái niệm dùng để chỉ một công động tộc
người được hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý
thức tự giác tộc người, ngơn ngữ và văn hóa. Cơng đồng này xuất hiện sau bộ lạc, bộ
tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng đồng đó. Với
nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của quốc gia. Chẳng hạn, Việt Nam
là quốc gia có 54 dân tộc tức 54 cộng đồng tộc người. Sự khác nhau giữa các cộng đồng
tộc người ấy biểu hiện chủ yếu ở đặc trưng văn hóa, lối sống, tâm lý, ý thức tộc người.
Dân tộc — tộc người có một số đặc trưng cơ bản sau:

6



- Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngơn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngơn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn đề
luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tộc người
vì nhiều ngun nhân khác nhau, có những tộc người khơng cịn ngơn ngữ mẹ đẻ mà sử
dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi
tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tơn giáo của
tộc người đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền thống văn hóa của
họ. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song song tồn tại xu thế bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
- Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc
người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc trưng
nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc mình: đó cịn
là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù cho có những tác
động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh hưởng của giao lưu kinh tế,
văn hóa... Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên quan trực tiếp
đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người.
Ba tiêu chí này tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát triển.
Đồng thời căn cứ vào ba tiêu chí này để xem xét và phân định các tộc người ở Việt Nam
hiện nay.
Thực chất, hai cách hiểu trên về khái niệm dân tộc, tuy không đồng nhất nhưng
lại gắn bó mật thiết với nhau, khơng tách rời nhau. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc
tộc người. Dân tộc tộc người là bộ phận hình thành dân tộc quốc gia. Dân tộc tộc người
ra đời trong những quốc gia nhất định và thông thường những nhân tố hình thành dân
tộc tộc người khơng tách rời với những nhân tố hình thành quốc gia. Đấy là lý do, khi
nói đến dân tộc Việt Nam thì khơng thể bỏ qua 54 cộng đồng tộc người, trái lại, khi nói
đến 54 cộng đồng tộc người ở Việt Nam phải gắn liền với sự hình thành và phát triển
của dân tộc Việt Nam.


7


1.1.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
1.1.2.1. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Nghiên cứu vấn đề dân tộc, V.I.Lênin phát hiện ra hai xu hướng khách quan trong
sự phát triển quan hệ dân tộc.
Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân
tộc độc lập. Nguyên nhân là do sự thức tỉnh, sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức
về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra để thành lập các dân
tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện rõ nét trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc
của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước
thực dân, đế quốc.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc đi bóc lột thuộc địa; do sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá trong
xã hội tư bản chủ nghĩa đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các
dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Trong thời đại ngày nay, hai xu hướng này diễn ra với những biểu hiện rất đa
đảng và phong phú.
Trong phạm vi một quốc gia
Xu hướng thứ nhất thể hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc (tộc người) để đi tới
sự tự do, bình đẳng và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai thể hiện ở sự xuất
hiện những động lực thúc đẩy các dân tộc trong một cộng đồng quốc gia xích lại gần
nhau hơn, hịa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong phạm vi quốc tế
Trong thời đại ngày nay, xu hướng thứ nhất của sự phát triển dân tộc thể hiện

trong phong trào giải phóng dân tộc nhằm chống lại chủ nghĩa để quốc và chống chính
sách thực dân đơ hộ dưới mọi hình thức, phá bỏ mọi áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế

8


quốc. Độc lập dân tộc chính là mục tiêu chính trị chủ yếu của mọi quốc gia trong thời
đại ngày nay. Độc lập tự chủ của mỗi dân tộc là xu hướng khách quan, là chân lý của
thời đại, là sức mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển của mỗi dân tộc. Xu hướng
thứ hai thể hiện ở xu thể các dân tộc muốn xích lại gần nhau, hợp tác với nhau để hình
thành liên minh dân tộc ở phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Xu hướng này tạo điều kiện
để các dân tộc tận dụng tối đa những cơ hội, thuận lợi từ bên ngoài để phát triển phồn
vinh dân tộc minh.
Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc có sự thống nhất biện chứng
với nhau trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia và của toàn nhân loại. Trong mọi
trường hợp, hai xu hướng đó ln có sự tác động qua lại với nhau, hề trợ cho nhau, mọi
sự vi phạm mối quan hệ biện chứng này đều dẫn tới những hậu quả tiêu cực, khó lường.
Hiện nay, hai xu hướng nêu trên diễn ra khá phức tạp trên phạm vi quốc tế và trong từng
quốc gia, thậm chí nó bị lợi dụng vào mục đích chính trị nhằm thực hiện chiến lược
“diễn biến hịa bình”.
1.1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ dân tộc - giai cấp
C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp cận vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc với tư cách là
một bộ phận chung của cách mạng vô sản, tức là vấn đề lợi ích của giai cấp cơng nhân
gắn với lợi ích của dân tộc và của cách mạng thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc bị
áp bức, xét đến cùng là việc giải quyết mâu thuẫn của các giai cấp bị áp bức với các giai
cấp đi áp bức, bóc lột. Vì vậy, chỉ khi lựa chọn được một giai cấp tiến bộ, cách mạng,
có đủ sức để tập hợp lực lượng, lôi kéo đông đảo quần chúng của cả dân tộc vào cuộc
đấu tranh giải phóng áp bức thì dân tộc đó mới được giải phóng, qua đó giải phóng giai
cấp. Khi đó giai cấp cách mạng sẽ trở thành giai cấp mang tính dân tộc, đại diện cho lợi
ích của dân tộc. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng “giai cấp vô sản mỗi nước trước

hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc” 1 , và “giai cấp công nhân không thể mạnh lên được, khơng thể trưởng
thành và hình thành được nếu khơng “tự tổ chức trong khuôn khổ của dân tộc”, nếu
không “có tính chất dân tộc”. 2

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.623 - 624.
V.I.Lênin (2006), Tồn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.88.

9


Theo V.I.Lênin, có áp bức dân tộc thì có đấu tranh dân tộc. Sự áp bức của chủ
nghĩa đế quốc tất yếu sản sinh ra phong trào giải phóng dân tộc chống đế quốc trên quy
mơ tồn thế giới. Thời đại C.Mác và Ph.Ăngghen, phong trào giải phóng dân tộc chưa
phát triển, các phong trào giành quyền tự quyết của dân tộc bị áp bức chủ yếu diễn ra
trong nội bộ quốc gia đa dân tộc và hầu hết do giai cấp tư sản lãnh đạo. Thời đại của
V.I.Lênin đã có nhiều thay đổi, phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có tính
chất chủ động lịch sử lớn hơn nhiều so với phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XIX.
V.I.Lênin dự báo: “ngày mai đây của lịch sử tồn thế giới sẽ chính là ngày mà các dân
tộc bị bọn đế quốc áp bức được thức tỉnh, sẽ dứt khoát vùng dậy, và bắt đầu một cuộc
đấu tranh quyết liệt, lâu dài và gian khổ để tự giải phóng mình” 3. Vì vậy, muốn làm cho
lực lượng cách mạng vô sản tăng lên gấp bội, nhất thiết phải thực hiện được sự kết hợp
chặt chẽ, sự thống nhất cao độ giữa phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát
triển với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Theo
V.I.Lênin, nhiệm vụ của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc là vì sự nghiệp giải phóng
của chính bản thân, phải ủng hộ hết sức mình phong trào giải phóng dân tộc, phải đấu
tranh chống chủ nghĩa nước lớn, chống chủ nghĩa sô vanh, “chủ nghĩa vệ quốc” của bọn

đế quốc phản động. Cách mạng giải phóng dân tộc là đồng minh tự nhiên của phong
trào vơ sản.

3

V.I.Lênin (2006), Tồn tập, tập 45, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.414.

10


Trong điều kiện cụ thể của cách mạng Nga và cách mạng thế giới đầu thế kỷ XX,
đối với vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc, do yêu cầu phải đấu tranh chống chủ nghĩa
dân tộc, một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất của chủ nghĩa cộng sản, V.I.Lênin đã
tập trung làm nổi bật nhân tố giai cấp, nhân tố quốc tế. Điều này hoàn toàn đúng. Song,
điều kiện ấy, khơng tránh khỏi có những trường hợp vấn đề dân tộc chưa được đề cập
đúng mức. Chính V.I.Lênin sau đó đã nâng vấn đề dân tộc lên, làm sâu sắc thêm quan
điểm giai cấp, điều chỉnh một số nhận định cho phù hợp với điều kiện phong trào giải
phóng dân tộc đã phát triển thành cao trào rộng lớn.


1.2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc
Hiện nay, những cuộc chạy đua vũ trang, tranh chấp tài nguyên thiên nhiên, mâu
thuẫn về dân tộc, tôn giáo và can thiệp quân sự đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Cụ thể, chỉ tính trong riêng năm 2021 đã có những sự kiện nổi bật như việc xâm chiếm
tịa nhà Quốc Hội mở Mỹ, cuộc nội chiến ở Myanmar, cuộc xung đột vũ trang giữa Israel
và Palestine và gần đây nhất là việc tiến lên chiếm quyền kiểm soát của lực lượng
Taliban. Những sự kiện trên diễn ra một phần là do vấn đề dân tộc ở các quốc gia được
nhắc đến. Ta dễ dàng nhận thấy, vấn đề quan hệ dân tộc có khả năng gây ra những hậu
quả nặng nề về kinh tế, xã hội cho nhiều quốc gia, đe doạ hồ bình, an ninh khu vực và

thế giới.
Việc xây dựng những biện pháp giải quyết vấn đề dân tộc ở trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng là vấn đề cấp bách và mang tính quan trọng cao cho sự
phát triển vương lên mạnh mẽ của đất nước trong sự nghiệp quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Tầm vóc chiến lược to lớn đòi hỏi ở chúng ta sự suy nghĩ, chuẩn bị chu đáo nhằm
giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả và thông minh nhất.
Để giải quyết được bất kỳ một vấn đề, trước tiên ta cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng
về chính vấn đề đó. Xét theo quan điểu của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề về dân tộc
thực chất là một bộ phận của những vấn đề chung về cách mạng vơ sản và chun chính
vơ sản. Vì lý do đó, khi giải quyết vấn đề dân tộc, ta phải gắn liền nó với cách mạng vô
sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một điểm đáng xét đến được nhắc tới
bởi chủ nghĩa Mác – Lênin là, khi xem xét và giải quyết vấn để dân tộc, ta phải dựa trên
lập trường phải đáp ứng được nhu cầu của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Hay nói cách khác, điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc
phải đặt trên cơ sở giải quyết vì quyền lợi của dân tộc, bám sát và bảo đảm lợi ích chung
của cả dân tộc được đưa lên làm ưu tiên hàng đầu.
Bản chất của vấn đề dân tộc là về sự mâu thuẫn, va chạm lợi ích giữa các dân tộc
trong các quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc
tế trên mọi lĩnh vực. Theo lẽ đó, bản chất của giải quyết vấn đề dân tộc trên thực tế là
hình thành một quan hệ cơng bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong cùng một quốc gia,
giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới về mọi lĩnh vực.

11


Qua xem xét, nghiên cứu mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc của Mác và
Ăngghen, Lênin đã đề ra “Cương lĩnh dân tộc” khái quát một số nội dung cơ bản về vấn
đề dân tộc. Cương lĩnh là cơ sở lý luận quan trọng để vận dụng vào trong việc thực hiên
các chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.

Cương lĩnh nêu ra 3 nội dung cơ bản trong việc giải quyết vấn đề dân tộc như
sau:
Nội dung thứ nhất: Các dân tộc hồn tồn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ,
ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc
lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, khơng một dân tộc nào có
quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình
đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan trọng hơn nó phải được
thực hiện trên thực tế.
Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp
bức giai cấp, trên cơ sở đó xố bỏ tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Nội dung thứ hai: Các dân tộc được quyền tự quyết
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền
tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc
độc lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực tiễn - cụ
thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất

12


giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân. Lênin đặc biệt chú trọng quyền tự
quyết của các dân tộc bị áp bức, các dân tộc phụ thuộc.
Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động,

thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào cơng việc nội bộ của các
nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
Nội dung thứ ba: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa u
nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Đồn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu
vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một
chỉnh thể.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã trình bày những nội dung cơ bản về vấn đề dân tộc dưới góc nhìn
của chủ nghĩa Mác Lênin. Dân tộc là một cộng đồng dân cư dùng để chỉ một quốc gia
hay chỉ một bộ phận dân cư của một quốc gia. Trong quá trình phát triển, xây dựng cuộc
sống mà xảy ra mâu thuẫn do khơng có cùng lợi ích, mục đích chung. Những mâu thuẫn
này đã dẫn đến xảy ra nhiều vấn đề được biết đến là vấn đề dân tộc với nhiều hậu quả
nghiêm trọng vẫn đang xảy ra hằng ngày. Để giải quyết vấn đề dân tộc, ta cần dựa trên
nội dung Cương lĩnh dân tộc nêu lên bởi Lênin và vận dụng cho phù hợp với công cuộc
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

13


Chương 2
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người

Dân tộc Việt Nam có tất cả 54 dân tộc anh em, dân số giữa các dân tộc rất khơng
đồng đều nhau. Theo tài liệu chính phủ mới nhất, dân tộc Kinh chiếm đa số tổng dân số
của nước Việt Nam xấp xỉ 82 triệu người và chiếm 85,3% tổng dân số. Trong khi đó,
các dân tộc khác chỉ chiếm 14,7% với tổng cộng 14 triệu người. Đồng bào các dân tộc
thiểu số chủ yếu sinh sống ở vùng núi, vùng sâu vùng xa và có dân số chỉ chiếm dưới
1% tổng dân số cả nước, ví dụ như dân tộc Ba Na, dân tộc Ê Đê, dân tộc Chăm…
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài và có sự chênh lệch đáng kể giữa nhiều
khía cạnh, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu
đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc
khó khăn.
Thứ hai, các dân tộc Việt Nam cư trú và sinh sống xen kẽ lẫn nhau.
Tuy một số dân tộc sinh sống tập trung chủ yếu ở một số vùng nhất định như dân
tộc Ba Na sinh sống chủ yếu ở vùng núi Tây Nguyên, dân tộc Lào sinh sống chủ yếu ở
vùng núi Tây Bắc, song nhìn chung đa số các dân tộc sống đan xen nhau, khơng có lãnh
thổ riêng biệt.
Việc sinh sống đan xen lẫn nhau của các dân tộc tạo điều kiện thuận lợi để tăng
cường quan hệ mọi mặt giữa các dân tộc, xây dựng cộng đồng các dân tộc ngày càng
gắn bó vững chắc để cùng nhau tiến bộ và phát triển và để từng bước thu hẹp chênh lệch
về trình độ văn hóa giữa các dân tộc với nhau.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yêu ở các địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng

14


Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cu trú
trên ¾ diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh,
quốc phòng, mơi trường sinh thái - đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của
đất nước. Một số dân tộc có quan hệ dịng tộc với các dân tộc ở các nước làng giềng như
các dân tộc Hoa, Thái, Hmong, Khơme... Do vậy, các thế lực thù địch thường sử dụng

vấn đề dân tộc làm ngòi nổ chống phá cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, các dân tộc đều có truyền thống đồn kết, đùm bọc lẫn nhau trong công
cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam, hình thành
do yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ và công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc trên đất nước Việt
Nam luôn thể hiện tinh thần “Lá lành đùm lá rách” luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương
yêu đùm bọc lẫn nhau mỗi khi đối mặt với các thiên tai, thảm họa tự nhiên như bão lũ,
hạn hán, dịch bệnh... Truyền thống ấy còn được thể hiện qua lịch sử chống giặc ngoại
xâm vô cùng oanh liệt. Tên tuổi và chiến công của Tôn Đản, N'Trang Lơng, Hồng Văn
Thụ, Hồng Đình Giong, Bế Văn Đàn, Đinh Núp... và hàng vạn anh hùng liệt sĩ người
dân tộc thiểu số khác mãi mãi là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam anh hùng. Có thể
thấy, cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn luôn sát cánh bên nhau, chinh phục thiên
nhiên, đoàn kết chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ quê hương,
đất nước, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Gia Lai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác
đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng
khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Chúng ta phải thương yêu nhau, kính trọng nhau,
phải giúp nhau để mưu cầu hạnh phúc. Sơng có thể cạn, núi có thể mịn nhưng lịng đồn
kết của chúng ta khơng bao giờ giảm bớt”.4
Thứ năm, dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa đa dạng giữa các dân tộc
Với sự đa dạng về dân tộc, có thể nhận thấy, Việt Nam có sự phong phú về truyền
thống, sắc thái văn hóa khác nhau. Mỗi dân tộc trong các dân tộc Việt Nam đều mang

4

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 249-250

15



trong mình một bản sắc văn hóa riêng về nếp sống, phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật,
ẩm thực, tri thức địa phương… Điều này góp phần tạo nên sự phong phú cho nền văn
hóa nước nhà.
Sự đa dạng, phong phú về văn hóa này là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại bền
vững, giàu tính bản sắc và nhân văn của các dân tộc. Ngoài ra, sự đa dạng về bản sắc
cũng góp phần tăng cường tính thống nhất, cộng đồng của 54 dân tộc anh em.
Thứ sáu, các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế và xã hội không đồng đều
nhau.
Với nhiều nguyên nhân như điều kiện tự nhiên, sự ảnh hưởng của thiên tai, vị trí
địa lý, trình độ dân trí… nên các dân tốc có trình độ phát triển khơng đều nhau. Có dân
tộc đã đạt trình độ phát triển cao, đời sống tương đối khá như các dân tộc Kinh, Hoa,
Tày, Mường, Thái... nhưng cũng có các dân tộc trình độ phát triển thấp, đời sống cịn
nhiều khó khăn như một dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên...
Thực trạng phát triển không đều dẫn đến khoảng cách ngày càng lớn về trình độ
phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng, miền, địi hỏi Ðảng và Nhà nước phải có sự
quan tâm đặc biệt.
2.1.2. Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc
2.1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc

16


Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
ln xác định vấn đề dân tộc, cơng tác dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến
lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương,
chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là: Bình đẳng, đồn kết, tương trợ giúp
đỡ nhau cùng phát triển. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu chính sách dân tộc
của Đảng và nhà nước ta.


Trong thời kỳ đổi mới, các vấn đề dân tộc ở nước ta cùng với các vấn đề về đoàn
kết các dân tộc và công tác dân tộc ngày càng được Ðảng ta xác định, bổ sung và khẳng
định toàn diện, đầy đủ hơn thể hiện qua từng văn kiện của Đảng, nhằm định hướng trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc.


Tại Đại hội lần thứ I của Đảng (tháng 3/1935), Đảng ta đã thông qua Nghị quyết
về công tác dân tộc thiểu số, trong đó ghi rõ: “Lực lượng tranh đấu của các dân tộc thiểu
số là một lực lượng rất lớn. Cuộc dân tộc giải phóng của họ là một bộ phận quan trọng
trong cuộc cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương, bộ phận của cách mạng thế
giới”. Nghị quyết cũng đề ra cho Trung ương và các Xứ ủy (trong những tỉnh có dân tộc
thiểu số) phải cử ra một số người chuyên môn nghiên cứu và chỉ đạo công tác vận động
các dân tộc thiểu số. Có thể thấy, ngay từ Đại hội đầu tiên, Đảng ta đã quan tâm đến vấn
đề dân tộc.
Đại hội II của Đảng (năm 1951) tiếp tục nêu rõ: “Các dân tộc sống trên đất Việt
Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến
và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây thù, chia rẽ
giữa các dân tộc. Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa”. Quyền bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam được các Đại hội III, IV, V kế thừa và phát triển.
Đại hội VI đã bước đầu hình thành những nhận thức mới, quan trọng về chính
sách dân tộc và giải quyết các mối quan hệ giữa các dân tộc, phát triển từng dân tộc đi
liền với củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc trên đất nước ta. Các nguyên tắc đảm
bảo cho quan hệ giữa các dân tộc phát triển tốt đẹp được nhấn mạnh là: “Đồn kết, bình
đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, kết hợp phát triển kinh tế với phát triển xã hội, đẩy
mạnh sản xuất với chăm lo đời sống con người, kể cả con người từ nơi khác đến và dân
tại chỗ”. Đại hội lần thứ VI cũng đồng thời đề ra một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế - xã hội miền núi (Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989). Tư tưởng
đổi mới đó cịn được thể hiện sâu sắc, cụ thể hóa tại “Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông qua tại Đại hội VII. Cương lĩnh
nêu rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi
điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết
với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”5.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991, ngày truy cập 10/10/2021.
5

17


Những quan điểm, tư tưởng của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc trong
Cương lĩnh tiếp tục được triển khai ở Đại hội VIII, IX đồng thời được cụ thể hóa thành
những chủ trương, chính sách, dự án và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội tại các vùng
dân tộc thiểu số và miền núi nước ta. Đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa
IX) đã ra Nghị quyết riêng về Cơng tác dân tộc, trong đó nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc
và đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp
bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”6 . Đại hội X của Đảng bổ sung và hoàn chỉnh
hệ mục tiêu của đổi mới ở nước ta, trong đó khẳng định: “Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”. Quan điểm: các
dân tộc “tôn trọng” lẫn nhau, thể hiện một bước phát triển trong nhận thức của Đảng về
vấn đề này. Tôn trọng là sự trân trọng lẫn nhau, tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa,
ngơn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Đây cũng là giá trị làm rõ hơn nữa
quyền bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện trong các Văn kiện trước đó. Sau 20
năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng một lần nữa khẳng định:
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng nước ta”. 7
Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta kế thừa các quan điểm, đường lối của các Đại hội
trước đó, tiếp tục thể hiện tư tưởng kiên trì, nhất qn : “Đồn kết các dân tộc có vị trí

chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam bình đẳng, đồn kết, thương u, tơn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính
sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu
số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những
âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” 8

Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.34.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.121
8
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.244-245
6

18


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tiếp tục bổ sung,
phát triển chủ trương đường lối về dân tộc và chính sách dân tộc: “Đồn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hồn thiện các
cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài
hịa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất
lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng
cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu,
hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” 9. Như vậy, trải qua các giai
đoạn của cách mạng Việt Nam, tư tưởng nhất quán trong chính sách dân tộc của Đảng
ta đã được xác định: Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp nhau cùng phát
triển. Đây cũng là nguyên tắc chuẩn mực chỉ đạo việc xây dựng quan hệ giữa các dân
tộc - tộc người trong quá trình phát triển đất nước. Các dân tộc phải thật sự bình đẳng,
thương yêu, giúp đỡ nhau mới đồn kết, gắn bó với nhau thì mới có đủ sức mạnh để
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại.
2.1.2.2. Một số chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam để giải quyết các vấn đề dân
tộc
Với quan điểm : Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển,
Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo. Trong đó, nhiều chính sách đi vào cuộc sống, diện mạo kinh tế các địa phương
miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước xây dựng và phát triển.
Phần lớn các chương trình của Nhà nước tập trung vào hỗ trợ sinh kế và tạo cơ
hội xóa đói, giảm nghèo, như : Chương trình 143 (Chương trình xóa đói, giảm nghèo và
tạo việc làm giai đoạn 2001 - 2005, được phê duyệt theo Quyết định số 143/2001/QĐTTg, ngày 27-9-2001, của Thủ tướng Chính phủ); Chương trình 135 (Chương trình phát

9

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.123-124.

19


triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa, được
phê duyệt theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31-7-1998, của Thủ tướng Chính

phủ); Chương trình phân bổ đất rừng và trồng rừng; các chính sách về giáo dục, y tế,...
Trong giai đoạn 2011 - 2018, có 205 chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc thiểu số và miền núi được ban hành. Tính riêng giai đoạn 2016 - 2018, theo Báo
cáo số 426/BC-CP, ngày 4-10-2018, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 41
chương trình, chính sách, trong đó có 15 chính sách trực tiếp cho đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng dân tộc thiểu số và 36 chính sách chung có ưu tiên cho đồng bào các dân tộc
thiểu số. Nội dung các chính sách giai đoạn 2016 - 2018 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
giảm nghèo; phát triển sản xuất trong nông, lâm nghiệp, thủy sản; phát triển giáo dục đào tạo, văn hóa.
Tính đến tháng 10-2020, có 118 chính sách đang có hiệu lực triển khai thực hiện
ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có 54 chính sách trực tiếp cho
các đồng bào dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, 64 chính sách chung
có ưu tiên cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngồi những chính sách tác động trực tiếp
đến vùng dân tộc thiểu số và miền núi, hiện nay cịn 21 chương trình mục tiêu có nội
dung gián tiếp tác động đến vùng này. Có thể nói, cho đến nay, hệ thống chính sách dân
tộc được ban hành khá đầy đủ, bao phủ toàn diện các lĩnh vực, nhằm hỗ trợ đồng bào
các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; phát triển giáo dục - đào
tạo, y tế, văn hóa; phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh. Các chương trình đã đem lại những hiệu quả tích cực về đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta.
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách dân tộc Việt Nam
2.2.1. Những thành tựu về việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, qua giai đoạn 2010 – 2015, đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng bước.
Tại các địa phương vùng dân tộc và miền núi, tỷ lệ hộ nghèo giảm đều, tốc độ
giảm tỷ lệ hộ nghèo thường xuyên vượt chỉ tiêu, bình quân khoảng 3% – 4%, cụ thể là:
Các tỉnh vùng Đông Bắc giảm 3,62%; Tây Bắc giảm 4,47%; Tây Nguyên giảm 3,04%;
đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,25%. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cũng có sự biến

20



×