Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp phần mềm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.37 KB, 74 trang )

Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp phần mềm Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong 5 năm qua kể từ khi Bộ Chính Trị ra chỉ thị 58/CT-TW về đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (CNTT) phục vụ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, và Chính Phủ ra Nghị Quyết số
07/2000/NQ-CP về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm (CNPM)
trong đó xác định “CNPM là ngành công nghệ được khuyến khích đầu tư, Nhà
nước áp dụng mức ưu đãi cao nhất cho doanh nghiệp là CNPM” cho đến nay
có thể nói CNPM đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên,
ngành công nghiệp non trẻ này cũng đang đối mặt với không ít những khó
khăn.
Nhờ những cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước, cùng với sự
nỗ lực của các doanh nghiệp, hiệp hội, trong 5 năm qua ngành CNPM của
chúng ta đã có nhiều khởi sắc.
Đi sâu vào tình hình phát triển của các DNPM, có thể thấy vài năm gần
đây CNPM Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô
của nhiều DNPM, điển hình trong đó có các công ty lớn như FPT và TMA với
mức tăng trưởng nhân lực 75-100%/năm. Số lao động phần mềm của các công
ty này sắp đạt tới ngưỡng 1000 người. Cả nước cũng đã có khoảng 10 DNPM
có số lập trình viên từ 300-500 người, và khoảng hơn 10 DNPM có số lập
trình viên từ 100-300 người. Hiện nay, Việt Nam đã có 2 DNPM cao nhất về
quy trình quản lý chất lượng sản xuất phần mềm quốc tế CMMI-S, 5 DNPM
đạt CMM mức 3 hoặc 4, và trên 30 doanh nghiệp đạt ISO 9001. Ngoài ra có
rất nhiều doanh nghiệp khác cũng đang cố gắng phấn đấu để lấy chứng chỉ
CMM,CMMI hoặc ISO vào năm tới. Đây là những dấu hiệu rất đáng mừng về
năng lực phát triển của các DNPM Việt Nam.
Nhu cầu từ thị trường ngoài nước hiện đang tăng trưởng mạnh, và
1
DNPM quy mô lớn càng có cơ hội kiếm được nhiều khách hàng. Với các cơ
sở kinh doanh được 5 năm qua, cộng thêm sự hỗ trợ của Nhà nước, chắc chắn
giai đoạn tới sẽ có sự bùng nổ phát triển của các DNPM hàng đầu.


Nhìn trên bình diện thực tế của Việt Nam, Vụ công nghiệp công nghệ
thông tin (CNTT) cho rằng, mặc dù CNPM chưa thực sự trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn, song hiện tại lại xuất hiện một số nhân tố thuận lợi cho sự
hình thành và phát triển của ngành CNPM nói chung và các DNPM nói
riêng.Thứ nhất, Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức WTO, điều
này mở ra những thách thức lớn, đồng thời lại cũng là cơ hội lớn. Thêm vào
đó, Việt Nam lại nằm ở khu vực năng động nhất thế giới về CNTT, có vị trí
địa lý thuận lợi, điều kiện kinh tế, chính trị ổn định, hội tụ tất cả các yếu tố
cần thiết để hình thành và phát triển các DNPM trong bối cảnh bất ổn chính trị
và nạn khủng bố đang xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới.
2
CHƯƠNG I
NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm
Công nghiệp phần mềm là một lĩnh vực mới được hình thành trên thế
giới đầu những năm 80 của thế kỷ trước, được quan tâm nghiên cứu áp dụng
tại Việt Nam từ đầu năm 2000. Mặc dù mới có quá trình hình thành và phát
triển khá ngắn ngủi, CNPM vẫn nhanh chóng được khẳng định là một trong
các lĩnh vực kinh tế có tiềm năng phát triển rất nhanh, đóng vai trò rất quan
trọng trong Chiến lược phát triển Công nghệ Thông tin - Truyền thông
(CNTT-TT) của Việt Nam.
Khái niệm phần mềm (software) đã được sử dụng ở nước ta từ hơn 10
năm nay, để phân biệt với khái nhiệm phần cứng (hardware) là các thiết bị -
máy tính. Hiểu một cách nôm na thì phần mềm là những chương trình điều
khiển, được cài đặt bên trong máy tính, giúp người sử dụng ra lệnh cho máy
tính, bằng những tín hiệu tương thích để máy tính có thể hiểu được. Nhờ có
phần mềm, máy tính có thể thực hiện được các nhiệm vụ mà người sử dụng
yêu cầu. Không có phần mềm, máy tính sẽ mất giá trị sử dụng. Phần mềm do
con người viết ra để phát huy hiệu quả máy tính, nên làm phần mềm đòi hỏi
một hàm lượng chất xám cao, là một trong những lĩnh vực quan trọng của

công nghệ cao.
Nhận thức về phần mềm và giá trị của chúng ngày càng trở nên phổ biến
trong đời sống xã hội nước ta. Tuy nhiên chỉ từ đầu năm 2000, khái niệm
phần mềm mới được Luật hoá trong Nghị định 76/CP về hướng dẫn thi hành
Bộ luật Dân sự và Quyết định 128/QĐ-TTg về phát triển CNPM.
Theo Khoản 1, Điều 2 c Quyết định 128, khái niệm phần mềm được
hiểu là:
Chương trình, tài liệu mô tả chương trình, tài liệu hỗ trợ, nội dung thông
3
tin số hoá:
a) Chương trình là một tập hợp của các lệnh, câu lệnh được mô tả bằng
bất kỳ ngôn ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ
trong các vật mang tin (có hoặc không kèm theo các thông tin liên quan), được
dùng trực tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc cả hai khâu sau:
- Chuyển đổi sang một ngôn ngữ, mã, hệ thống ký hiệu khác;
- Tái tạo sang một vật mang tin khác; làm cho một dụng cụ có khả
năng xử lý thông tin thực hiện một số chức năng nào đó
b) Tài liệu mô tả chương trình và tài liệu hỗ trợ là tài liệu được thể hiện
dưới bất kỳ dạng nào có nội dung mô tả chương trình, giới thiệu, hướng dẫn
cách cài đặt, sử dụng, nâng cấp, sửa lỗi hoặc các hướng dẫn khác liên quan
đến sử dụng và khai thác chương trình.
c) Nội dung thông tin số hoá bao gồm:
- Cơ sở dữ liệu là tập hợp dữ liệu được sắp xếp và lưu trữ dưới
dạng điện tử số hoá;
-Sưu tập tác phẩm số hoá là sưu tập tác phẩm được lưu trữ dưới
dạng điện tử số hoá.
CNPM là một ngành kinh tế thuộc lĩnh vực dịch vụ công nghệ cao. Phát
triển CNPM là một bộ phận quan trọng trong phát triển Công nghiệp CNTT,
là một lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong xây dựng chính sách, quy hoạch,
kế hoạch phát triển CNTT-TT ở quy mô quốc gia cũng tại nhiều địa phương,

trong đó có Thành Phố Hồ Chí Minh. Theo Chiến lược Phát triển CNTT-TT
của Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 vừa được Thủ tướng
phê duyệt đầu tháng 10/2005, CNTT-TT dựa trên 4 trụ cột chính là Ứng dụng
CNTT, Nhân lực CNTT, Hạ tầng Viễn thông-Internet và Công nghiệp CNTT.
Phát triển CNPM, một bộ phận quan trọng của Công nghiệp CNTT, không thể
tách rời việc phát triển ba trụ cột khác của CNTT-TT là ứng dụng (có liên
quan đến thị trường), nguồn nhân lực (có liên quan đến con người), hạ tầng
viễn thông-Internet (có liên quan đến các cơ sở vật chất) và hệ thống các
4
chính sách, cơ sở pháp lý (có liên quan đến chức năng quản lý của Nhà nước).
2. Các yếu tố để phát triển CNPM
Tại một hội thảo tại Bắc Kinh năm 2002, Bill Gates, Chủ tịch Công ty
Microsoft, cho rằng để phát triển CNPM cần hội tụ 4 yếu tố :
- Thị trường : vai trò của thị trường không chỉ đơn giản là nơi tiêu thụ
sản phẩm phần mềm mà quan trọng hơn là nơi tạo ý tưởng cho các sản phẩm,
giải pháp phần mềm mới. Câu hỏi của các DNPM không chỉ đơn thuần là “có
thể tiêu thụ sản phẩm phần mềm ở đâu ?” mà phải là “sản phẩm phần mềm
nào có thể tiêu thụ được ?”.
- Nhân lực : với ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám đậm đặc,
vai trò của nguồn nhân lực với chất lượng cao và số lượng đủ lớn là rất quan
trọng. Nhân lực ở đây bao gồm cả nhân lực kỹ thuật lẫn nhân lực quản lý.
- Tài chính : giống như mọi ngành kinh tế khác, tài chính là nhiên liệu
cho cỗ máy của CNPM và các DNPM vận hành.
- Công nghệ : Phần mềm là ngành công nghệ cao, có tốc độ đổi mới rất
nhanh. Công nghệ ở đây cũng được hiểu là cả công nghệ kỹ thuật lẫn công
nghệ quản lý. Vai trò của công nghệ không chỉ là cho phép tạo ra các sản
phẩm-dịch vụ mới mà chủ yếu là cho phép tăng năng suất lao động. Tăng
năng suất lao động đồng nghĩa với tăng lợi nhuận và tạo ưu thế cạnh trạnh -
chủ yếu thực hiện thông qua nghiên cứu - triển khai và chuyển giao công
nghệ.

Mỗi một quốc gia, một địa phương hay một DNPM khi phát triển đều
phải dựa trên 4 yếu tố mang tính chất nội lực nêu trên, tuy nhiên để có thể
phát huy được, 4 yếu tố trên cần được đặt trong môi trường thuận lợi (về kinh
tế, văn hoá, xã hội, pháp lý, cơ sở hạ tầng) mang tính chất nền tảng.
Các chuyên gia trong lĩnh vực phát triển CNPM gọi đây Mô hình 4/1
5
3. Chính sách và các yếu tố liên quan đến chính sách phát triển
CNPM
Các chính sách quan trọng nhất của Việt Nam nhằm phát triển CNPM đã
được ban hành khá chi tiết và cụ thể từ đầu năm 2000, bắt đầu bằng Nghị
quyết 07/2000/NQ-CP ngày 05/06/2000 về xây dựng và phát triển CNPM giai
đoạn 2000-2005, và sau đó là hàng loạt các văn kiện quan trọng khác của
Đảng, Chính phủ, thông tư của các bộ ngành có liên quan: Chỉ Thị 58-CT/TW
ngày 17/10/2000 của Bộ Chính Trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT
trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá giai đoạn 2001-2005, Quyết
định 128/2000/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 về một số chính sách và biện pháp
khuyến khích đầu tư và phát triển CNPM, Quyết định 81/2001/QĐ-TTg ngày
24/05/2001 phê duyệt Chương trình hành động triển khai Chỉ Thị 58-CT/TW
của Bộ Chính Trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá giai đoạn 2001-2005, Quyết định
95/2002/QĐ-TTg ngày 17/07/2002 phê duyệt Kế hoạch tổng thể về ứng dụng
và phát triển CNTT ở Việt Nam đến năm 2005…
Trên góc độ Mô hình 4/1, nhiều công việc đã được thực hiện để mỗi một
trong 4 yếu tố và môi trường nền tảng đều có những cải thiện đáng kể-tuy
nhiên dường như ngành CNPM vẫn không tăng trưởng nhanh như mong

Thị trường

Nhân lực


Tài chính

Công nghệ
CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM
KINH TẾ , VĂN HOÁ,XÃ HỘI, PHÁP LÝ, CƠ SỞ HẠ TẦNG
6
muốn; các yếu tố khác trong Mô hình 4/1 vẫn chưa thực sự khởi sắc. Chúng ta
hãy phân tích sâu hơn các yếu tố có liên quan đến môi trường hoạt động của
các DNPM trong thời gian vừa qua.
3.1 Yếu tố hạ tầng
Hạ tầng Viễn thông-Internet
Điều 12 trong QĐ 128 (tháng 11/2000) nêu rõ: “cho phép các khu CNPM
tập trung được kết nối cổng ra Internet riêng với hệ thống Internet quốc tế để
tất cả các DNPM trong các khu vực này và các DNPM đăng ký dịch vụ
Internet qua các khu này có thể sự dụng đầy đủ và dễ dàng các dịch vụ Internet
theo giá cạnh tranh với các nước trong khu vực”
Đọc điều này, các khu CNPM tập trung rất phấn khởi, các DNPM nằm
trong và ngoài khu CNPM tập trung cũng phấn khởi. Tuy nhiên thực tế là quy
định trên đã không được thực hiện. Vụ việc liên quan đến Saigon Software
Park (SSP) kết nối trực tiếp Internet qua vệ tinh phải có sự can thiệp của chính
phủ là một minh chứng. Đến nay cũng mới chỉ có SSP và Softech Đà Nẵng
được quyền thử nghiệm kết nối Internet trực tiếp qua vệ tinh mà thôi, các
DNPM nằm ngoài các khu CNPM tập trung vẫn chưa được kết nối Internet
qua các khu này. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng điều 12 trong QĐ 128 đã bị
“bó hẹp” hơn trong QĐ 81 (tháng 5/2001), bằng việc “bảo đảm kỹ thuật kết
nối trực tiếp với Internet quốc tế cho các khu CNPM tập trung” được giao về
cho Tổng Công Ty Bưu Chính Viễn Thông.
Xuất bản, xuất nhập khẩu phần mềm
Điều 13 trong QĐ 128 nêu rõ : “Bộ Văn hoá-Thông tin chủ trì, phối hợp
với các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn, cải tiến thủ tục để việc xuất bản,

xuất nhập khẩu phần mềm đặc biệt là chương trình, tài liệu mô tả chương trình
và tài liệu hỗ trợ được thực hiện nhanh chóng không gây phiền hà, ách tắc,
thiệt hại cho tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích liên quan”.QĐ 81 nhấn mạnh
lại một lần nữa : “Bộ Văn Hoá – Thông tin hướng dẫn, cải tiến những quy định
7
có liên quan đến xuất bản, xuất, nhập khẩu phần mềm”.
Thực tế thì đến nay các DNPM vẫn không được tự phát hành các sản
phẩm phần mềm dưới dạng đĩa CD do chính mình sản xuất ra. Các đĩa CD
phần mềm Made in Vietnam đều phải xin giấy phép thông qua một nhà xuất
bản nào đó. Có lẽ có rất ít ngành kinh tế mà sản phẩm của doanh nghiệp làm
ra khi đưa ra thị trường phải qua thủ tục nhiêu khê như vây. Phần nhập khẩu
cũng vậy, nhập một đĩa CD phần mềm trị giá 1000 USD từ nước ngoài (ở thời
điểm tháng 6/2003) vẫn có thề phải nộp thuế nhập khẩu 450 USD (45%) theo
mã thuế nhập khẩu số 85243190 liên quan đến “CD để tái tạo hình tượng
không phải âm thanh hoặc hình ảnh”.
Sở hữu trí tuệ
Nghị quyết 07 nêu rõ “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục trong toàn xã hội nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng và
bảo vệ quyền tác giả đối với sản phẩm phần mềm. Thực thi bảo vệ quyền tác
giả trong lĩnh vực này”.Việc bảo vệ quyền tác giả là một cuộc chiến lâu dài
nhằm từng bước giảm tỷ lệ vi phạm bản quyền của Việt Nam đang ở mức cao
nhất thế giới. Việc thực thi không nghiêm luật bản quyền đối với sản phẩm
phần mềm thực chất thể hiện việc không tôn trọng lao động chất xám đúng
mức và tạo tâm lý thiết lập một định mức tính giá làm phần mềm dưới ngưỡng
hoà vốn.
Chúng ta vẫn biết không thể để tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm ở
mức cao như vậy được, vẫn biết nếu tỷ lệ này cao thì không thể có ngành
CNPM đúng nghĩa, tuy nhiên các năm qua Nhà nước chưa có biện pháp mạnh
nào để cải thiện tình hình này.
8

3.2 Yếu tố thị trường
Có 2 thị trường cơ bản cho các DNPM: thị trường gia công xuất khẩu ra
nước ngoài và thị trường sản phẩm và dịch vụ phần mềm nội địa.
Thị trường nước ngoài
Các DNPM rất vui mừng với việc “Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao, Bộ
kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các Bộ, ngành
có liên quan tổ chức xúc tiến thương mại và tạo điều kiện cho các DNPM trong
nước mở chi nhánh và văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài, đầu tư
ra nước ngoài và xuất khẩu lao động phần mềm” (NQ 07). Tuy nhiên cạnh
tranh với các nước khác không đơn giản.
Thị trường nội địa
Có thể chia thành 3 mảng: nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng cá
nhân. Cần nghiên cứu tìm hiểu xem các chính sách ban hành trong thời gian
qua đã góp phần phát triển các mảng thị trường này như thế nào ? Điều này sẽ
được thực hiện chi tiết trong mục 5 của chương.
Đối với thị trường trong nước, khởi sắc nhất có lẽ là thị trường phần mềm
cho các cơ quan quản lý nhà nước, với QĐ 112/2001 về Dự án Tin học hoá
quản lý hành chính Nhà nước đầy tham vọng và việc đưa chi tiêu cho CNTT
nói chung và phần mềm nói riêng vào “mục lục ngân sách Nhà nước” (Chỉ
Thị 58), cùng với hàng loạt quy định, thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn
cách thức “tiêu tiền” cho các ứng dụng này. Tuy nhiên điều này gây ra thất
vọng lớn cho các DNPM là các năm vừa qua tốc độ giải ngân thực hiện đề án
này quá chậm chạp, thậm chí không giải ngân được. Những con số kế hoạch
vài chục, vài trăm tỷ đồng mà Nhà nước đưa ra dần đần mất đi tính kế hoạch
nghiêm túc.
Việc nhà nước chậm giải ngân, không giải ngân nhiều cho CNTT được
giải thích là nhằm hạn chế rủi ro, bảo vệ đồng tiền của Nhà nước, chưa hoặc
không chỉ khi chưa có đủ các thủ tục cần thiết. Nhưng cũng cần thấy ở đây
9
căn bệnh chậm hoặc không giải ngân đã trở thành kinh niên, đang thu hẹp lại

một mảng thị trường khá lớn cho các DNPM. Thực ra thì Chỉ thị 58 cũng đã
lường trước việc này và quy định “Hình thành quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư khắc
phục rủi ro cho ứng dụng và phát triển CNTT”. Tuy vậy điều này vẫn chưa
được thực hiện cho đến thời điểm cuối năm 2005.
Đối với hai mảng thị trường lớn khác cho CNPM là doanh nghiệp và
người tiêu dùng cá nhân, thì ngoài quy định khuyến khích chi tiêu cho phần
mềm bằng cơ chế “sản phẩm và dịch vụ phần mềm được sản xuất và cung cấp
trong nước không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng” (QĐ 128), nhà
nước vẫn chưa đưa ra quy định gì cụ thể hơn, và thị trường phần mềm cho
doanh nghiệp và người dùng cá nhân vẫn đang phát triển một cách “tự giác”
và “tự phát” thiếu các định hướng và đòn bẩy lớn từ phía nhà nước.
3.3 Yếu tố nhân lực
Ngoài việc tăng cường tập trung đầu tư cho các Khoa CNTT tại các
trường đại học, chính phủ cũng đã thầy rằng không thể chỉ dựa vào hệ thống
đại học là có thể yên tâm về nguồn nhân lực cho ngành CNTT nói chung và
ngành CNPM nói riêng. Trong các nghị quyết, chỉ thị ban hành hàng năm,
điều này thường xuyên được nhấn mạnh:
- “Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo
nguồn nhân lực cho CNTT nói chung và CNPM nói riêng” (NQ 07, năm 2000);
- “Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập các cơ
sở đào tạo về CNTT. Các cơ sở này được hưởng các ưu đãi đối với các hoạt
động đào tạo về CNTT như đối với DNPM” (QĐ 128, năm 2000);
- “Xã hội hoá mạnh mẽ việc đào tạo CNTT” (CT 58, năm 2000);
- “Xây dựng các biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế, các chuyên gia về CNTT nước ngoài tham gia
đào tạo nhân lực về CNTT” (QĐ 81, năm 2001);
- “Xã hội hoá công tác giáo dục đào tạo về CNTT, khuyến khích các tổ chức
10
xã hội, các thành phần kinh tế và các cá nhân tham gia đầu tư phát triển nguồn
nhân lực CNTT” (QĐ 95, năm 2000).

Việc xã hội hoá công tác đào tạo nhân lực CNTT nằm trong chiến lược
tổng thể “huy động mọi nguồn lực để tăng cường đầu tư cho ứng dụng và phát
triển CNTT” (QĐ 81). Thời gian qua, nhiệm vụ tổ chức công việc này được
chính phủ giao đích danh cho Bộ Giáo dục Đào Tạo (QĐ 81: Bộ Giáo dục
Đào tạo xây dựng các biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các tổ chức, cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các chuyên gia về CNTT nước ngoài tham
gia đào tạo nhân lực về CNTT), tiếc rằng Bộ Giáo dục Đào tạo đã không làm
gì cả và để hệ thống đào tạo phi chính quy hình thành và phát triển tự giác.
Ngay đến Chương trình phát triển nguồn nhân lực cho CNTT, được phê duyệt
theo Quyết định số 131/2004/QĐ của Thủ tướng Chính phủ vào tháng 4 năm
2004, đến nay cũng chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo cụ thể hoá bằng kế
hoạch và các biện pháp triển khai cụ thể nào.
Để tạo điều kiện truy nhập Internet cho các cơ sở đào tạo, QĐ 128 cũng
có chỉ đạo “Tổng cục Bưu điện chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục
và Đào tạo và các Bộ, ngành có liên quan ban hành chính sách để giảng viên,
giáo viên, sinh viên và học sinh các trường học trong hệ thống giáo dục quốc
dân được hưởng chế độ miễn,giảm phí truy nhập Internet tại các cơ sở đào
tạo”. Nhưng đến nay, dường như vẫn chưa có một chính sách cụ thể nào cho
việc miễn giảm này, và truy nhập Internet tại các quán Internet công cộng vẫn
là hình thức sử dụng rẻ tiền nhất cho học sinh, sinh viên. Chương trình kết nối
Internet cho 100% trường học cũng được báo cáo là đã hoàn thành, nhưng tác
dụng khá là hạn chế và tình trạng “mù” Internet trong trường phổ thông vẫn là
phổ biến. Mạng kết nối Internet phi lợi nhuận (Internet II) cho các trường đại
học, các cơ sở nghiên cứu khoa học là chuẩn mực của hầu hết các quốc gia coi
trọng phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách, vẫn
chưa trở thành hiện thực tại Việt Nam.
11
3.4 Yếu tố tài chính
Chính sách tài chính quan trọng nhất được ban hành và thực hiện trong
các năm qua là quyết định miễn thuế thu nhập 4 năm cho các DNPM và áp

dụng thuế thu nhập cá nhân ưu đãi cho người làm phần mềm. Đây chính là
chính sách mang tính khen thưởng “không thu cái đáng lẽ phải thu”, cho phép
các DNPM và nhân viên “giữ lại cái đáng lẽ phải nộp”. Chính sách này sẽ
phát huy tác dụng rất tốt nếu các DNPM ăn nên làm ra, tuy nhiên khi đa số
các DNPM đều lỗ hoặc lãi rất ít, thì chính sách trên không thể phát huy tác
dụng.
Chỉ dựa vào chính sách mang tính “khen thưởng” thì không thể giải
quyết được vấn đề tài chính cho ngành CNPM. Với tính chất là một ngành
công nghệ cao, nhiều rủi ro, đồng thời lại có tiềm năng sinh lợi lớn, việc tạo
cơ chế để huy động các nguồn vốn xã hội cho DNPM dưới dạng các quỹ đầu
tư mạo hiểm là rất cần thiết. Nghị quyết 07 năm 2000 cũng đã chỉ rõ điều này:
“Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và
các Bộ, ngành có liên quan thành lập và ban hành quy chế tổ chức, quản lý và
hoạt động của Quỹ đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao, đặc biệt là
CNPM”. Tiếc rằng điều này cho đến nay vẫn chưa được thực hiện.
3.5 Yếu tố công nghệ
Vai trò của công nghệ như biện pháp nâng cao năng suất lao động và tạo
ưu thế cạnh tranh của các DNPM chưa được quan tâm đúng mức trong các
văn bản, nghị quyết. Trong QĐ95 có nhắc đến các hoạt động khoa học - công
nghệ nhưng chưa đủ mạnh : “Nắm bắt được những tiến bộ công nghệ của thế
giới để thực hiện có hiệu quả việc thích nghi hoá và chuyển giao công nghệ
vào Việt Nam; từng bước giải quyết những vấn đề CNTT đặc thù của Việt Nam.
Khuyến khích thành lập các vườn ươm công nghệ có tiềm năng thương mại nảy
sinh từ các cơ sở nghiên cứu triển khai của các khu công viên phần mềm, các
viện, trường đại học và khu vực sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh
12
tế. Khuyến khích thành lập các cơ sở nghiên cứu - triển khai về CNTT trong
các doanh nghiệp CNTT thuộc mọi thành phần kinh tế. Tăng cường một số cơ
sở nghiên cứu chủ chốt về CNTT tại các viện và trường đại học thành lực
lượng nòng cốt về nghiên cứu và triển khai”.

Các công việc nêu trên chưa triển khai được bao nhiêu. Việc chuyển giao
công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam là việc không thể không làm trong
giai đoạn phát triển ban đầu của ngành CNPM. Tuy nhiên dù đã có gỡ bỏ các
quy định về giá trần, nhưng những quy định về hợp đồng (phải bằng tiếng
Việt), về thuế bản quyền (10%)…vẫn là yếu tố cản trở chuyển giao công nghệ
tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam.
4. Tình hình phát triển của CNPM trên thế giới và vị thế của
CNPM Việt Nam.
4.1 Khái niệm và quy mô
Gia công (outsourcing) là thoả thuận thương mại, qua đó một công ty giao
trách nhiệm thực hiện một khâu trong quá trình kinh doanh (có thể bao gồm
cả nguồn tài nguyên) cho một bên khác. Gia công gồm 2 loại: ITO (IT
outsourcing – gia công các sản phẩm CNTT) và ITES-BPO (IT Enabled –
Business Process Outsoursing – gia công các quy trình nghiệp vụ có sự hỗ trợ
của CNTT). Việc gia công có thể thực hiện theo mô hình on-site (tại địa điểm
nơi đặt hàng), off-site (tại địa điểm nơi nhận việc) hoặc near-shore (gần nơi
đặt hàng). Theo đánh giá chung, công việc gia công được thực hiện cho phép
giảm chi phí đến 30% - thậm chí đến 50%.
4.2 Công nghiệp Phần mềm Ấn độ
Bức tranh toàn cảnh
Từ cuối những năm 90, Ấn độ đã được đánh giá là siêu cường trong ngành
phần mềm, và thực tiễn những năm gần đây tiếp tục chứng tỏ điều đó.
Năm tài chính 2004-2005, doanh số ngành công nghiệp CNTT của Ấn độ là
28,2 tỷ USD, trong đó phần mềm và dịch vụ CNTT là 16,5 tỷ USD, xuất khẩu
13
phần mềm và dịch vụ CNTT 12,2 tỷ USD (trong đó 10 tỷ USD sang thị
trường Mỹ). Nếu tính cả các dịch vụ khác dùng đến CNTT (IT Enabled
Service – ITES và Business Process Outsourcing – BPO), giá trị xuất khẩu là
17,9 tỷ USD. Gía trị xuất khẩu phần mềm dịch vụ năm 2005-2006 của Ấn độ
dự kiến là 15,3 tỷ USD. NASSCOM dự đoán giá trị dịch vụ phần mềm xuất

khẩu của Ấn độ sẽ đạt con số 60 tỷ USD vào năm 2008.
CNTT Ấn độ chiếm 4,1%GDP, trong đó phần mềm dịch vụ chiếm 3,2%
GDP. Dự kiến đến năm 2008, CNTT Ấn độ sẽ chiếm 7% GDP. Trong ngành
công nghiệp CNTT của Ấn độ, phần cứng chỉ chiếm 21,3%, còn lại là phần
mềm/dịch vụ (58,6%) và ITES-BPO (20,1%).
7.1
9.2
12
15.2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
2002-03 2003-04 2004-05 2005-06
Phần mềm và dịch vụ xuất khẩu phần mềm của Ấn độ

Tốc độ tăng trưởng phần mềm-dịch vụ của Ấn độ từ năm 1999 đến nay đều
khoảng 35-40%/năm, đóng góp cho GDP ngày càng cao (năm 1997: 1.2%,
năm 2005: 4.1%).
Quá trình hình thành
Giai đoạn 1: 10 năm 1985-1995, dựa vào giá rẻ, với sự ra đời của hàng
loại các DNPM nhỏ, tập trung vào các nội dung phát triển sản phẩm/ bảo trì.
Doanh số giai đoạn này không đáng kể, ở mức dưới 100 triệu USD/năm, giá

14
trị hợp đồng không vượt quá 500 ngàn USD
Giai đoạn 2: 5 năm tiếp theo (1996-2000). Giai đoạn này phát triển dựa
vào chất lượng và hiệu quả, tập trung vào các ứng dụng doanh nghiệp. Trong
giai đoạn này 5 DNPM lớn tách tốp và chiếm thị phần lớn. Các DNPM nhỏ
vừa tiếp tục phát triển. Đã hình thành các hợp đồng trị giá 5 triệu USD. Tổng
giá trị xuất khẩu còn dưới con số 1 tỷ USD
Giai đoạn 3: 2001-2004. Các công việc mang tính phức tạp cao (tích hợp
hệ thống, BPO, quản trị mạng, phần mềm đóng gói, R&D…) đã có hợp đồng
trị giá vài chục triệu USD, với thế mạnh là quản lý quá trình, bảo mật thông
tin, dữ liệu. Các DNPM trong tốp đầu tăng trưởng mạnh. Tổng giá trị xuất
khẩu đạt khoảng 5-6 tỷ USD
Giai đoạn 4: 2005-2007, với doanh số trên 15 tỷ USD. Các công ty lớn
chiếm vị trí quan trọng trên thị trường quốc tế, các công việc quan trọng của
giai đoạn này là tư vấn, gia công, với giá trị gia tăng liên quan đến đổi mới
hoạt động doanh nghiệp. Mô hình xuất khẩu không chỉ giới hạn ở on-site, off-
shore mà triển khai toàn cầu. Các hợp đồng có giá trị lên tới 100 triệu USD.

15
Period
Phase I
1985-1995
Phase II
1995-2000
Phase III
2001-2004
Phase IV
2005-2007
Industry going through a transitionary phase
Size of Industry

Service Lines
Delivery Model
Industry Structure
Peak Contract Size
Customer Profile
Industry value to
customers
Negligible
App dev &
Maintenance
Staff Aug.,
Onsite
Large no. of
Startups
<US$ 5,00,000
Large Fortune 100
Lower costs
US$ 1 billion
+ E-biz, ERP,
Y2K
Staff Aug.,
Onsite
Big 5 increase
Share and SME
growth
=US$ 5 million
Large Fortune
500
+ quality,
Productivity

US$ 6 billion
+ SI, NM, Pack Soft,
BPO, Products, Tech
Onsite, offshore
Mid-size
expand, Big 5
grow and
niche firms
emerge
= US$ 40 million
Global 2000
+security, data
protection,
process mgt
US$ 14 billion
plus
+ IT consult, IT
Outsourcing

Global delivery
Big 5 in global
League
=US $ 100
million
Global 5000
+business
innovation
(Nguồn : NASSCOM)
Tình hình phát triển của các DNPM ở Ấn Độ
* Tập trung vào doanh nghiệp lớn.

Theo NASSCOM, hiện nay có khoảng 3000 công ty CNTT đang hoạt
động tại Ấn Độ. Năm 2005, Ấn Độ có 3 DNPM đạt doanh số xuất khẩu trên 1
tỷ USD/năm: TCS, Infosys và Wipro trong số đó TCS và Infosys đạt doanh
số xuất khẩu trên 1,5 tỷ USD/năm. Top 20 doanh nghiệp xuất khẩu phẩn mềm
chiếm 69.4% tổng giá trị xuất khẩu phần mềm cả nước. Tỷ lệ này tăng dần từ
62% năm 2003 lên 68.7% năm 2004 và 69.4% năm 2005. Top 5 công ty hàng
đầu chiếm 45% , 5 công ty tiếp theo chiếm 13%, 10 công ty tiếp theo chiếm
11%, và các công ty còn lại chiếm 31%. Trong top 20, doanh số của từng
DNPM đạt mức gần 100 triệu USD/năm trở lên.


16
Tỷ lệ doanh số xuất khẩu phần mềm của các DNPM Ấn Độ

* Càng lớn tăng trưởng càng mạnh
Các DNPM lớn khi vượt ngưỡng cũng tăng trưởng rất nhanh, với tốc độ
trung bình 30%/năm. Infosys chỉ cần 5 năm để nâng doanh số xuất khẩu phần
mềm của mình từ 100 triệu USD lên 1 tỷ USD
* Xu hướng phát triển của các DNPM Ấn Độ
Toàn cầu hoá : Thị trường xuất khẩu phần mềm chính của các DNPM Ấn
Độ là Mỹ (63%), sau đó là Châu Âu (24%). Hai thị trường này chiếm 87%.
Thị trường Nhật Bản đang ở con số khiêm tốn 3%. Trong các công việc gia
công, 45% khối lượng công việc được thực hiện tại Ấn Độ, 55% thực hiện tại
địa chỉ khách hàng. Các DNPM lớn của Ấn Độ có văn phòng đại diện hoặc
công ty chi nhánh ở nhiều nước trên thế giới.
* Nhân lực của DNPM Ấn Độ
Nhân lực trong các DNPM của Ấn Độ tăng trưởng khoảng 30%/năm,
242 ngàn năm 2001-2002 lên 697 ngàn năm 2003-2004, và 813 ngàn năm
2005-2006. Một điều dễ nhận thấy DNPM lớn nhân sự lớn, năng suất cao :
các công ty lớn có vài chục ngàn nhân viên và tuyển thêm hàng chục ngàn

nhân viên một năm. Chẳng hạn số nhân viên của TCS là 41 ngàn, Infosys là
32 ngàn, Wipro là 42 ngàn, với doanh số bình quân đầu người 20-40.000
USD/năm. Riêng trong một năm Infosys tuyển thêm 11,5 ngàn, Wipro tuyển
17
thêm 9,8 ngàn nhân viên mới.
4.3 Quá trình hình thành và phát triển của các DNPM ở Trung Quốc
Những năm gần đây, Trung quốc được biết đến như một quốc gia có sức
hút lớn về CNPM. Một phần là nhờ sự gần gũi giữa tiếng Hán và tiếng Nhật
nên Trung Quốc là nguồn thu hút công việc từ Nhật bản sang.
Đánh giá của NASSCOM và Evalueserve Analysis cho biết năm 2002,
doanh số của các DNPM của Trung Quốc là 4,7 tỷ USD, tăng lên 10,6 tỷ USD
năm 2006 với tốc độ tăng trưởng trung bình 22.6%/năm. Giá trị thị trường
ITES-BPO năm 2002 là 255 triệu USD, tăng lên 1,057 tỷ USD vào năm 2006
với tốc độ tăng trưởng 42,7%/năm.
Theo báo cáo China: Global IT and BPO Outsource Leader (7/2005,
Temasys International), số DNPM của Trung Quốc có chứng nhận CMM (từ
mức 2 đến mức 5) tăng rất nhanh và được thể hiện trong bảng sau
Năm Số công ty có CMM
2001 18
2002 37
2003 108
2004 153
4.4 Vị thế của DNPM Việt Nam
* Thu hút gia công xuất khẩu phần mềm - dịch vụ
Tháng 4/2004, tập đoàn tư vấn quốc tế AT Kearney trong báo cáo
Offshore Decision đã xếp Việt Nam vào danh sách 25 nước “most actractive
offshore location – nơi thu hút gia công dịch vụ tốt nhất”. Việt Nam với điểm
số 4.70/10 được xếp thứ hạng 20 trên 25 nước được chọn vào vòng chung kết.
Trong phần kết luận, báo cáo Keaney đã nêu rõ cách đánh giá này được xem
như một công cụ để các công ty nước ngoài lựa chọn nên gia công ở nước

nào, và với các quốc gia, dựa vào các đánh giá có thể hình dung được tiềm
năng, điểm mạnh yếu của mình trong việc thu hút nguồn việc từ các nước
18
khác.
Thứ
hạng Nước
Tài
chính
Môi trường
kinh doanh
Nhân
lực Tổng
1 Ấn Độ 3.72 1.31 2.09 7.12
2 Trung Quốc 3.32 0.93 1.36 5.61
3 Malaysia 3.09 1.77 0.73 5.59
4 Czech 2.69 2.02 0.92 5.58
5 Singapore 1.47 2.63 1.36 5.46
6 Philippines 3.59 0.92 0.94 5.45
7 Brazil 3.17 1.41 0.86 5.44
8 Canada 1 2.48 1.94 5.42
9 Chi lê 2.99 1.68 0.7 5.37
10 Ba lan 2.88 1.57 0.88 5.33
11 Hungary 2.71 1.68 0.9 5.29
12 New Zealand 1.59 2.24 1.38 5.21
13 Thái lan 3.44 1.19 0.57 5.2
14 Mexico 3.12 1.26 0.74 5.12
15 Argentina 3.25 1.08 0.74 5.07
16 Costa Rica 3.06 1.33 0.67 5.06
17 Nam Phi 2.83 1.21 0.94 4.98
18 Australia 1.11 2.13 1.58 4.82

19 Bồ đào nha 1.84 1.99 0.88 4.71
20 Việt Nam 3.65 0.7 0.35 4.7
21 Nga 3.25 0.51 0.89 1.65
22 Tây ban nha 1.12 2.05 1.38 4.55
23 Ireland 0.62 2.48 1.39 4.49
24 Israel 1.66 1.74 1.06 4.46
25 Thổ Nhĩ Kỳ 3.07 0.73 0.64 4.44

* Đánh giá sơ bộ về thị trường của các DNPM
- Dự báo xu thế:
+ Thị trường gia công phần mềm cho các DNPM phát triển mạnh
+ Hình thành thị trường ITES-BPO với tốc độ phát triển nhanh
+ Nguồn việc lớn nhất hiện nay là Bắc Mỹ, EU và Nhật
+ Các quốc gia gia công phần mềm mạnh nhất là Ấn Độ, Trung Quốc
- Đánh giá chung về Việt Nam
19
+ Bắt đầu có tên tuổi trên bản đồ gia công phần mềm quốc tế, nằm
trong Top 20 thế giới và Top 5 nếu nhìn từ của Nhật Bản
+ Nhiều yếu tố cơ hội để phát triển nhưng đang còn ở dạng tiềm năng
+ Đã hình thành một số DNPM quy mô trên 500 nhân viên, đạt tiêu
chuẩn chất lượng CMM/CMMI Level 5, doanh số gần đạt ngưỡng 10 triệu
USD/năm
- Các bài học kinh nghiệm
+ Ngành CNPM của một quốc gia hoặc một công ty khi phát triển đến
ngưỡng sẽ tăng trưởng rất nhanh
+ Các công ty lớn trong Top 5/10/20 đóng vai trò hết sức quan trọng
+ Trong phân bổ nguồn nhân lực, nhan lực có bằng Diploma (Cao
đẳng thực hành theo Luật giáo dục mới 2005) có vị trí quan trọng
+ Chiến lược toàn cầu hoá là quan trọng, không thể phát triển ngành
CNPM mạnh nếu chỉ dựa vào thị trường nội địa

5. Thị trường phần mềm trong nước
5.1 Đánh giá chung
* Dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong 5 năm tới
Việc Việt Nam sẽ tham gia vào WTO đầu năm 2006 tuy là thách thức,
song cũng là cơ hội để nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển. Nếu những gì
diễn ra đối với Trung Quốc sau khi gia nhập WTO được coi là dự đoán của
nền kinh tế Việt Nam, thì Việt Nam có thể vẫn đạt được tốc độ phát triển kinh
tế 7– 8%/năm. Ngoài ra, việc Việt Nam không ngừng mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế, trong đó có Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy cơ hội kinh doanh
của các ngành sản xuất, dịch vụ, trong đó có CNTT sẽ ngày một cải thiện.
Trong một nền kinh tế năng động như vậy, cơ hội dành cho CNTT nói chung
và CNPM nói riêng là đã rõ. Vấn đề ở chỗ ngành CNPM trong nước có tận
dụng và phát huy được các cơ hội đó hay không ?
20
* Tiền đề để xây dựng ngành CNPM trong nước
Theo lý thuyết phát triển của Michael Porter, để một ngành công nghiệp có
thể phát triển cần có 4 yếu tố (còn gọi là mô hình kin cương) – đó là nội lực
của ngành công nghiệp, xuất phát điểm, các ngành công nghiệp có liên quan
và nhu cầu của thị trường. Đối với CNPM, xuất phát điểm chính là con người
Việt Nam. Nội lực được thể hiện chính ở nguồn nhân lực dồi dào để sản xuất
và làm dịch vụ phần mềm. Nhu cầu thị trường được thể hiện ở các ngành công
nghiệp dịch vụ, tạo cơ hội phát triển mới cho CNPM.
21
CHƯƠNG II
HIỆN TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP
PHẦN MỀM VIỆT NAM
1. Tổng quan về doanh nghiệp phần mềm
1.1 Khái niệm
Doanh nghiệp CNTT là các doanh nghiệp được xem là chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực CNTT, nếu có trên một nửa số hạng mục đăng ký kinh

doanh (từ 50% trở lên) thuộc lĩnh vực CNTT
DNPM là doanh nghiệp có từ 50% doanh số CNTT là doanh số phần
mềm
1.2 Phân loại DNPM Việt Nam
Theo sự phân loại của Hội Tin Học Thành Phố Hồ Chí Minh, DNPM
trong nước được tạm xếp vào 4 nhóm: rất nhỏ (micro), nhỏ (small), vừa
(middle), một số ít có quy mô lớn (large) và hàng đầu (top).
 Doanh nghiệp rất nhỏ (micro) : dưới 10 nhân lực và /hoặc doanh số
tối đa đến 30.000 USD/ năm; tương đương khoảng 2.500 USD/ tháng.
(năng suất tối đa 3.000 USD/ năm/ người).
 Doanh nghiệp nhỏ (small): từ 10 đến dưới 30 nhân lực và /hoặc doanh
số từ 100.000 USD/ năm đến tối đa là 150.000 USD/ năm; tương
đương từ 8.500 USD/ tháng đến tối đa là 12.500 USD/ tháng. (năng
suất tối đa 5.000 USD/ năm/ người).
 Doanh nghiệp vừa (middle): từ 30 đến dưới 100 nhân lực và /hoặc
doanh số từ 250.000 USD/ năm đến tối đa là 800.000 USD/ năm;
tương đương từ 20.000 USD/ tháng đến tối đa 60.000 USD/ tháng
(năng suất tối đa 8.000 USD/ năm/ người).
 Doanh nghiệp lớn (large): từ 100 đến dưới 300 nhân lực và /hoặc
doanh số từ 2.000.000 USD/ năm đến tối đa là 3.000.000 USD/ năm;
22
tương đương 170.000 USD/ tháng đến tối đa là 250.000 USD/ tháng
(năng suất tối đa 10.000 USD/ năm/ người).
 Doanh nghiệp hàng đầu (top): trên 300 nhân lực. Năng suất từ 10.000
USD/ tháng/ người.
1.3 Tỷ lệ DNPM trong số các DN đăng ký hoạt động PM
Năm 2002, cả nước có khoảng 350 đơn vị đăng ký hoạt động sản xuất
kinh doanh CNTT, trong đó có khoảng 200 đơn vị đăng ký hoạt động phần
mềm. HCA ước lượng trong số này có khoảng 40% số đơn vị đăng ký (80 đơn
vị) nhưng không hoạt động, 25% (50 đơn vị) hoạt động rồi ngưng, khoảng

35% (70 đơn vị) sẽ bổ xung vào số đơn vị phần mềm “sống được” (Nguồn:
Báo Cáo Toàn Cảnh CNTT 2003 – HCA).
Tỷ lệ này không thực sự phán ánh tình trạng khó khăn của DNPM. Con
số 40% đơn vị đăng ký nhưng không hoạt động trong lĩnh vực phần mềm là số
doanh nghiệp không chủ yếu làm phần mềm.
Tỷ lệ tình trạng “sống được” là 35% này trong trường hợp các địa
phương chưa có số liệu thống kê đầy đủ hoặc chưa tổ chức khảo sát hoặc chưa
tổ chức khảo sát số doanh nghiệp thực sự hoạt động trong lĩnh vực phần mềm.
Như vậy, trong 200 doanh nghiệp đăng ký hoạt động phần mềm trên đây,
số doanh nghiệp thực sự hoạt động phần mềm là 120 đơn vị, trong số này có
50 đơn vị (40%) hoạt động sau một thời gian rồi ngưng và có 70 đơn vị (60%)
tồn tại được. Dù sao, số doanh nghiệp tồn tại được cũng không phải là khả
quan đối với một ngành có triển vọng như ngành CNPM. Cần phải nâng tỷ lệ
sống được từ 60% như hiện nay lên 70% - 80%.
1.4 Môi trường hoạt động của DNPM.
Trong kinh doanh, DNPM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố chủ quan và
khách quan. Tuy nhiên, có thể nói rằng DNPM chịu tác động mạnh mẽ của
môi trương kinh doanh và môi trường xã hội. Các chính sách ưu đãi trong
CNPM và việc hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước là 2 yếu tố tích cực đến
23
sự phát triển CNTT tác động khá tiêu cực đến DNPM. Có thể nói các doanh
nghiệp CNTT nói chung và DNPM nói riêng đã chịu tác động mạnh mẽ của
môi trường kinh doanh và môi trường xã hội, trong đó có yếu tố quan trọng là
chính sách của Nhà nước và hoạt động của bộ máy quản lý từ cấp trung ương
đến các địa phương.
Trong các năm từ 2000 đến 2004, các chính sách của Đảng và Chính phủ
liên quan đến ứng dụng và phát triển CNTT Việt Nam đã được triển khai từng
bước, bắt đầu từ việc ban hành chiến lược, xây dựng kế hoạch tổng thể ứng
dụng và phát triển CNTT đến năm 2005, xây dựng các bộ máy cấp vĩ mô là
Bộ Bưu chính, Viễn thông; đổi mới Ban chỉ đạo Quốc gia về CNTT, kiện toàn

bộ máy Nhà nước về CNTT tại địa phương, thành lập các Sở Bưu chính, Viễn
thông tại TP. HCM, Hà Nội và các tỉnh thành.
Năm 2004, Chính phủ cũng thể hiện việc đặc biệt khuyến khích đầu tư
vào ngành CNPM bằng các chính sách thuế ưu đãi ở mức cao nhất. Ngày 22
tháng 12 năm 2004, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 123/2004/TT-BTC
hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
và làm dịch vụ phần mềm. Những ưu đãi này tập trung vào thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu và thuế thu nhập cá nhân.
Trong 2 năm 2004 và 2005, Quốc Hội và các bộ ngành cũng đã soạn
thảo các dự thảo Luật Giao dịch điện tử, Luật Sở hữu trí tuệ và Luật CNTT.
Năm 2004 là năm đầu tiên Chính phủ duyệt chương trình xúc tiến thương mại
cho các doanh nghiệp CNTT, thông qua các hiệp hội. Năm 2005 cũng là năm
đầu tiên Bộ Bưu chính, Viễn Thông xây dựng các kế hoạch phát triển CNPM,
phát triển bưu chính-viễn thông và Internet và gần đây nhất là chiến lược phát
triển CNTT-TT của Việt Nam đến năm 2010.
Nhìn chung, các ý kiến của DNPM đều cho rằng môi trường chính sách
có tác động tích cực đối với hoạt động doanh nghiệp. Các cầu nối giữa doanh
nghiệp với chính quyền thông qua tổ chức hiệp hội, các kênh truyền thông đã
có nhiều thuận lợi. Cộng đồng CNTT và doanh nghiệp đã được tiếp cận từ
24
cộng đồng hoặc từ chính quyền địa phương đã đến được với lãnh đạo cấp cao
của đất nước, nhiều thành tích hoạt động đã được ghi nhận kịp thời.
Mặc dù vậy, việc không xây dựng được các kế hoạch cụ thể trong các
năm vừa qua do bộ máy chuyên trách quản lý ngành CNTT từ trung ương đến
các địa phương mới thành lập, đang trong quá trình kiện toàn tổ chức đã hạn
chế phần nào sự tăng trưởng của DNPM. Mặt khác, các cơ chế chính sách cụ
thể chậm được ban hành cũng khiến cho việc mở rộng thị trường ở khu vực
nhà nước gặp trở ngại. Sự thiếu nhất quán trong việc thực thi các chủ trương
chính sách ưu đãi cho phát triển CNPM đã đem lại những quan ngại cho các
nhà đầu tư vào lĩnh vực CNPM.

1.5 Đánh giá nhu cầu của các DNPM để hình thành và phát triển
Vốn
Vấn đề thiếu vốn để có thể thành lập, sản xuất và phát triển của DNPM
hiện nay chưa có giải pháp hỗ trợ nào được thực thi. Quy đầu tư mạo hiểm
hay còn được gọi là đầu tư triển vọng là một hoạt động kinh doanh không
nhằm mục đích hỗ trợ doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng tìm nguồn vốn là vấn
đề của doanh nghiệp và của ngân hàng. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
thì phải vay vốn ở ngân hàng theo quy định cần thiết như thế chấp tài sản.
Điều này đúng trong trường hợp bình thường, phát triển ngành CNPM thì cần
tìm ra giải pháp có tính đột phá. Nhà nước cần chấp nhận một tỷ lệ tổn thất
trong việc hỗ trợ DNPM vay vốn. Đây cũng là yêu cầu để nâng cao tỷ lệ
“sống được” của DNPM. Sự tổn thất từ 60% đến 70% doanh nghiệp hoặc nếu
chỉ là 50% cũng là một tổn thất rất lớn không những về chi phí xã hội mà còn
làm chậm việc đạt được mục tiêu phát triển CNPM.

Nhân sự
DNPM không nêu vấn đề thiếu nhân sự, không nêu vấn đề nhân sự thiếu
trình độ mà nêu khó khăn vì nhân sự không ổn định. Như vậy, nhu cầu về
25

×