Nhu cầu việc làm của người dân ở một số
vùng đô thị hóa tại Hải Phòng
Đào Thị Tư Duyên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Tâm lý học; Mã số: 60 31 80
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Hữu Thụ
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nhu cầu và nhu cầu việc làm. Khái quát sơ
bộ về địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu việc làm của người dân ở
một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng biểu hiện qua nhận thức, đối tượng hướng tới
và hành động cụ thể để thỏa mãn nhu cầu việc làm của bản thân và gia đình. Đánh
giá mức độ nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa trên địa bàn
tỉnh. Đưa ra một số kiến nghị về tâm lý – xã hội giúp chính quyền địa phương tạo ra
việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu việc làm của người dân.
Keywords. Tâm lý học công nghiệp; Tâm lý học việc làm; Đô thị hóa; Hải Phòng
Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
- Việc làm gắn liền với sự tồn tại, phát triển và hạnh phúc gia đình của người dân ở
vùng đô thị hóa.
- Việc chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ khiến không ít người
dân ở vùng đô thị hóa rơi vào cảnh thiếu hoặc chưa có việc làm đồng thời làm nảy sinh nhiều
tệ nạn xã hội.
- Hải Phòng là thành phố mà quá trình đô thị hóa diễn ra rất nhanh. Để người dân nơi
đây được hưởng thế mạnh của quá trình này một cách tốt nhất thì nghiên cứu về nhu cầu việc
làm của họ là điều hết sức quan trọng.
Những lý do trên là động lực thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Nhu
cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng” dưới góc nhìn của tâm
lý học xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nhu cầu, các mức độ của nhu cầu việc làm cũng
như một số yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại
Hải Phòng. Từ đó đề xuất một số giải pháp tâm lý - xã hội giúp nhà nước đưa ra các chính
sách phát triển việc làm góp phần thỏa mãn nhu cầu việc làm cho người dân ở vùng đô thị
hóa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu lý luận
- Đọc và phân tích các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về nhu cầu, nhu cầu
việc làm để làm rõ một số khái niệm cơ bản của đề tài như: Khái niệm nhu cầu, khái niệm
nhu cầu việc làm, khái niệm nhu cầu việc làm của người dân ở vùng đô thị hóa để hoàn thành
cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu các văn bản, tài liệu của Đảng, nhà nước về việc làm và tạo việc làm
cho người dân vùng đô thị hóa.
3.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Nghiên cứu thực trạng nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại
Hải Phòng biểu hiện qua nhận thức, đối tượng hướng tới và hành động cụ thể để thỏa mãn
nhu cầu việc làm của bản thân và gia đình.
- Đưa ra một số giải pháp tâm lý - xã hội giúp chính quyền địa phương đưa ra giải
pháp tạo việc làm và cơ hội việc làm cho người dân.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng được biểu
hiện qua: Nhận thức, đối tượng hướng tới và hành động cụ thể để có việc làm nhằm thỏa mãn
nhu cầu việc làm.
5. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu là 162 người dân, trong đó 55 người dân ở huyện An Lão, 53
người dân ở huyện Tiên Lãng, 54 người dân ở huyện Vĩnh Bảo và 7 cán bộ địa phương.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu nhu cầu việc làm của người dân ở một
số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng biểu hiện ở nhận thức, đối tượng hướng tới và hành động cụ
thể để có việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu việc làm. Đồng thời nghiên cứu một số yếu tố ảnh
hưởng tới nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng.
6.2. Phạm vi địa bàn: Đề tài chỉ nghiên cứu ở 3 huyện: Huyện An Lão, huyện Tiên
Lãng, huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng.
6.3. Phạm vi khách thể: Đề tài chỉ nghiên cứu những người dân đang ở trong độ tuổi
lao động (từ 18 đến 45 tuổi).
7. Giả thuyết nghiên cứu
Phần lớn người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng có nhu cầu việc làm ở
mức độ trung bình, một số người nhu cầu việc làm đạt mức độ cao nhưng hầu hết trong số họ
nhu cầu việc làm chưa được thỏa mãn thực sự. Nhu cầu này phụ thuộc rất nhiều yếu tố, bao
gồm cả chủ quan (nhận thức, động cơ, hứng thú, tâm thế sẵn sàng…) và khách quan (điều
kiện thỏa mãn, mức độ quan tâm của chính quyền địa phương, chế độ đãi ngộ…), trong đó
yếu tố chủ quan giữ vai trò chủ đạo.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu.
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến đề tài để tìm hiểu sâu hơn những khái
niệm công cụ nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận của đề tài.
8.2. Phương pháp chuyên gia
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để nâng cao sự hiểu biết về lĩnh vực mà mình
nghiên cứu cũng như cách thức tiến hành nghiên cứu.
8.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để thu thập những thông tin mà phiếu bảng
hỏi chưa làm được.
8.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chúng tôi sử dụng các câu hỏi đóng, câu hỏi mở nhằm thu thập thông tin chính, liên
quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn.
8.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để có thêm thông tin chân thực, rõ ràng và chính xác phục vụ việc nghiên cứu, chúng
tôi đưa ra một số câu hỏi phỏng vấn sâu người dân và chính quyền địa phương.
8.6. Phương pháp nghiên cứu chân dung tâm lý.
Phương pháp này được thực hiện nhằm phản ánh rõ nét hơn về mức độ nhu cầu việc
làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng và nguyên nhân của mức độ đó.
8.7. Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng công thức tính trung bình, tính phần trăm và sử dụng phần mềm
SPSS để phân tích, xử lí kết quả thu được từ phiếu điều tra bằng bảng hỏi.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU VÀ NHU CẦU VIỆC LÀM
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu việc làm của các nhà tâm lý học ngoài
nƣớc.
Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lý hoc Mỹ J.Watson (1878 - 1895) sáng lập và được
Skinner phát triển triệt để. Tâm lý học hành vi cho rằng: Tâm lý học không mô tả, giảng giải
các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi cơ thể. Hành vi được hiểu là tổng số các cử
động bên ngoài, nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp ứng lại một kích thích nào đó, nó được thể hiện
bằng công thức hành vi nổi tiếng S - R.
Sau này, các đại biểu tâm lý hoc hành vi mới đưa vào công thức S - R một biến số O -
biến số trung gian đó là: Nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống… các tác giả này
giải thích rằng: O là biến số trung gian có tác dụng điều chỉnh đáp ứng phù hợp với các kích
thích vào cơ thể.
Freud (1856 - 1939) đã đề cập đến vấn đề nhu cầu của cơ thể trong “Lý thuyết bản
năng của con người”. Ông khẳng định, Phân tâm học coi trọng nhu cầu tự do cá nhân như các
nhu cầu tự nhiên, đặc biệt là nhu cầu tình dục. Việc thoả mãn nhu cầu tình dục sẽ giải phóng
năng lượng tự nhiên và như thế tự do cá nhân thực sự được tôn trọng, kìm hãm nhu cầu này
sẽ dẫn đến hành vi mất định hướng của con người. “Khát dục” trong Phân tâm học không có
ý nói đến việc thỏa mãn những khát khao thông thường mà là sự đòi hỏi thỏa mãn những khát
khao mãnh liệt. Những mong muốn này được thỏa mãn sẽ đem lại cho con người những
khoái cảm đặc biệt và sẽ tạo ra một trạng thái tâm lý sung sướng, khoan khoái, dễ chịu. Khi
một khát vọng nào đó chưa được thỏa mãn thì sự căng thẳng về mặt tâm lý lên đến tột đỉnh”.
Erich Fromm nhà Phân tâm học mới quan niệm: “Nhu cầu tạo ra cái tự nhiên của con
người, đó là những nhu cầu:
1. Nhu cầu quan hệ người - người.
2. Nhu cầu tồn tại “cái tâm” con người
3. Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, giai cấp, tôn giáo.
4. Nhu cầu về sự bền vững và hài hòa.
5. Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu.
A. Maslow (1908 - 1970) được xem là người sáng lập và dẫn đầu trào lưu chủ nghĩa
nhân văn trong tâm lý học Mỹ. Theo Maslow, con người có 5 nhu cầu gốc (những nhu cầu
khác đều phát sinh từ những nhu cầu này) được sắp xếp thành bậc thang theo thứ bậc từ thấp
lên cao, chúng hoạt hóa và điều khiển hành vi con người. Bậc thang đó bao gồm:
1. Physiological: Nhu cầu sinh học như: Ăn, uống, nghỉ ngơi…
2. Safety/security: Nhu cầu an toàn
3. Belonginess and Love: Nhu cầu được chấp nhận và yêu thương
4. Esteem: nhu cầu được tôn trọng
5. Actualization: Nhu cầu tự thể hiện
Theo ông muốn phát triển nhu cầu ở bậc cao hơn thì ít nhất nhu cầu ở bậc thấp hơn
(liền kề) phải được thỏa mãn đến mức độ nhất định.Việc thỏa mãn nhu cầu ở bậc thang thấp
hơn sẽ kích thích người ta nghĩ tới việc phải thỏa mãn nhu cầu ở bậc cao hơn. Vì vậy, về
nguyên tắc ở cùng một thời điểm chỉ có một nhu cầu chiếm vị trí nổi trội trong nhân cách của
mỗi người.
Herry Murray khẳng định: “Nhu cầu là một tổ chức cơ động, hướng dẫn và thúc đẩy
hành vi. Nhu cầu ở mỗi người khác nhau về cường độ, mức độ, đồng thời các loại nhu cầu
chiếm ưu thế cũng khác nhau ở mỗi người”. Do ảnh hưởng của phân tâm học nên ông cho
rằng nhu cầu quy định xu hướng nhân cách đều xuất phát từ nguồn năng lượng libido vô
thức.
Carl Rogers (1902 - 1987) là nhà trị liệu tâm lý nổi tiếng với liệu pháp “thân chủ
trọng tâm”. Trong nghiên cứu của mình ông đã đề cập đến vai trò của nhu cầu về sự quan tâm
tích cực tới việc phát triển “cái tôi” của đứa trẻ. Nhu cầu về sự quan tâm tích cực được hiểu là
nhu cầu được thừa nhận, được yêu thương, được ủng hộ từ những người khác, đặc biệt là từ
mẹ và những người thay thế mẹ khi trẻ ở tuổi sơ sinh. Hành vi của trẻ được điều khiển tùy
thuộc vào tính chất, nội dung và mức độ của sự thừa nhận, yêu thương và ủng hộ mà trẻ nhận
được từ những người khác. Ông cũng nhấn mạnh, nhu cầu về sự quan tâm tích cực có tính
chất tương hỗ. Khi một người tự đòi hỏi mình phải làm việc để đáp ứng nhu cầu của ai đó về
sự quan tâm tích cực cũng được người đó thoả mãn.
Philip Kotler khi nghiên cứu về nhu cầu trong hoạt động quản trị kinh doanh đã đưa
ra quan điểm để phân biệt nhu cầu, mong muốn và yêu cầu. Theo ông, nhu cầu là trạng thái
cảm giác thiếu hụt một sự thỏa mãn cơ bản nào đó của cơ thể, tồn tại như một bộ phận cấu
thành cơ thể và nhân thân của con người.
Ông cũng chia nhu cầu thành 5 kiểu khác nhau:
1. Nhu cầu được nói ra
2. Nhu cầu thực tế
3. Nhu cầu không được nói ra
4. Nhu cầu được thích thú
5. Nhu cầu thầm kín
D. N. Uznatze là người đầu tiên trong tâm lý học Xô Viết nghiên cứu về nhu cầu. Ông
cho rằng: “Không có gì đặc trưng cho một cơ thể sống hơn sự có mặt của nó ở nhu cầu. Nhu
cầu, đó là cội nguồn của tính tích cực”.
X.L Rubinstein khẳng định: Khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống là: thế giới
đối tượng và trạng thái tâm lý của chủ thể, tức là phải có mối quan hệ thống nhất giữa hai yếu
tố khách quan (của đối tượng) và yếu tố chủ quan (của chủ thể) trong hoạt động thỏa mãn nhu
cầu.
P.X. Ximonov thì cho rằng: Trong trường hợp nhu cầu cấp bách xuất hiện mà thiếu hụt
thông tin về khả năng thoả mãn sẽ nảy sinh những rung cảm âm tính làm tăng năng lượng
nhu cầu. Tuy nhiên, kết quả hành vi lại không thuận lợi, kết quả dương tính sẽ làm giảm tổng
thể các hành động thoả mãn nhu cầu. Theo ông, đặc điểm nhu cầu phụ thuộc vào việc được
trang bị thông tin, công cụ và cách thức nhằm thoả mãn nhu cầu.
A.N.Leonchiep cho rằng: Nhu cầu với tính chất là sức mạnh nội tại thì chỉ có thể được
thực thi trong hoạt động. Ông phê phán việc tách nhu cầu ra khỏi hoạt động vì như vậy sẽ coi
nhu cầu là điểm xuất phát của hoạt động theo sơ đồ: Nhu cầu - hoạt động - nhu cầu. Mối liên
hệ giữa hoạt động với nhu cầu được ông mô tả bằng sơ đồ: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động.
Khi xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu với động cơ, ông cho rằng: “Khi đối tượng của
nhu cầu xuất hiện, được nhận biết (được cảm nhận, được hình dung hoặc được tư duy) thì có
được chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động tức là trở thành động cơ. Hay nội dung đối
tượng của nhu cầu chính là động cơ của hoạt động. Một hoạt động diễn ra bao giờ cũng
hướng vào việc đạt mục đích, đạt kết quả ở một mức độ nhất định. Động cơ của hoạt động
chính là cái nhu cầu đã được đối tượng hóa và được hình dung trước dưới dạng các biểu
tượng của kết quả hoạt động”.
Như vậy, có rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu về nhu cầu và họ đều đưa ra
những quan điểm và dẫn chứng chứng minh cho tính đúng đắn của nó dựa trên cách tiếp cận
của riêng mình. Tuy nhiên, quan điểm về nhu cầu của các nhà Tâm lý học Xô Viết dường
như được nhiều nhà khoa học đồng thuận hơn cả. Ở Việt Nam hiện nay, khi nghiên cứu về
nhu cầu cũng lấy quan điểm của các nhà Tâm lý học Xô Viết làm nền tảng.
Trong nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Mỹ về nhu cầu việc làm công nghệ
thông tin chỉ ra rằng: Nhu cầu về các nhà chuyên nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) đang
dâng lên nhanh hơn mong đợi. Bùng nổ của công nghệ thông tin trong kinh doanh toàn cầu
nơi "dây chuyền giá trị" được kết nối từ khách hàng tới nhà chế tạo và nhà cung cấp và gần
đây với thị trường ứng dụng di động đã làm tăng thêm nhiều nhu cầu đối với việc thiếu hụt
công nhân.
1.2. Nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu việc làm của các nhà tâm lý học trong
nƣớc.
Đề cập đến quan niệm của các nhà Tâm lý học Việt Nam về nhu cầu, chúng ta có thể
tìm thấy qua một số tập sách như: Tâm lý học Liên Xô - Tuyển những bài báo, Nxb Tiến Bộ
năm 1978, Tâm lý học Vưgôtxki, Nxb Giáo Dục năm 1997 của tác giả Phạm Minh Hạc, Tâm
lý học, Nxb ĐHQGHN năm 2000 của tác giả Bùi Văn Huệ, Tâm lý học đại cương, Nxb
ĐHSPHN năm 2003 của tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang, Tâm
lý học đại cương, Nxb Giáo Dục năm 1989 của tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần
Trọng Thủy.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy
cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”.
Nhu cầu cũng có thể được định nghĩa là: “Trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ
nhận thấy các đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc
tính tích cực của cá nhân”.
Trong Tâm lý học quản trị kinh doanh, tác giả Nguyễn Hữu Thụ đưa ra quan niệm về
nhu cầu như sau: “Nhu cầu là trạng thái tâm lý, mong muốn của cá nhân đòi hỏi phải thỏa
mãn để tồn tại và phát triển”.
Các tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh và Trần Trọng Thủy lại viết rằng: “ Để tồn tại
và phát triển cá nhân phải đòi hỏi ở môi trường xung quanh những cái cần thiết (không thể
thiếu) cho mình. Sự đòi hỏi ấy là nhu cầu của cá nhân. Nói đến nhu cầu là nói đến sự đòi hỏi
của cá nhân về một cái gì đó ở ngoài nó, cái đó có thể là một sự vật, một hiện tượng hoặc
những cái khác. Khi nhu cầu không được thoả mãn, ở chủ thể sẽ xuất hiện trạng thái căng
thẳng, cảm xúc âm tính”.
Như vậy, các nhà Tâm lý học trong nước đã khẳng định nhu cầu là hình thức tồn tại
giữa cơ thể sống và thế giới xung quanh, là nguồn gốc của tính tích cực. Mọi hoạt động của
con người đều là quá trình tác động vào đối tượng nhằm thoả mãn nhu cầu. Với ý nghĩa đó,
nhu cầu được hiểu là trạng thái cảm nhận được sự cần thiết của đối tượng đối với sự tồn tại
và phát triển của mình và xuất hiện như là nguồn gốc tạo ra tính tích cực hoạt động. Nhu cầu
được thoả mãn sẽ tạo ra nhu cầu mới ở mức độ cao hơn, con người sau khi hoạt động để thoả
mãn nhu cầu này sẽ làm phát triển nó và nảy sinh ra nhu cầu khác cao hơn nữa.
Bên cạnh các tập sách viết về nhu cầu còn có nhiều công trình nghiên cứu về nhu cầu
trên khách thể là học sinh, sinh viên của các tác giả như Nguyễn Thạc, Hoàng Thị Thu Hà,
Hà Thị Hòa Bình… Ngoài ra, cũng có khóa luận, luận văn, luận án của các bạn sinh viên, học
viên, nghiên cứu sinh nghiên cứu về nhu cầu. Chúng ta có thể kể đến:
Luận án tiến sĩ của tác giả Lã Thị Thu Thủy, cán bộ Viện Tâm lý học được thực hiện
năm 2006 với đề tài: “Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của tri thức trẻ”. Tác giả Hà Thị Hòa
Bình, năm 2001 đã làm đề tài luận văn tiến sĩ tâm lý học mang tên “Nhu cầu thông tin của
khách thể tuyên truyền”.
Năm 2003, Hoàng Thị Thu Hòa với luận án tiến sĩ mang tên “Nhu cầu học tập của
sinh viên sư phạm”.
Nhu cầu việc làm là nhu cầu được làm việc, được hoạt động, nó là nhu cầu cấp cao,
được con người sáng tạo ra và có sự tham gia mạnh mẽ của ý thức, nó khác với nhu cầu sinh
học. Hoạt động là yếu tố hiện thực hóa nhu cầu, là bằng chứng thể hiện và khẳng định giá trị
tồn tại của con người, không ai sống mà không hoạt động, không làm việc. Bởi thế nhu cầu
việc làm có ở bất kỳ cá nhân nào trong xã hội và mức độ thiết thân, thường trực của nó ở mỗi
cá nhân khác nhau là khác nhau.
1.3. Một số khái niệm công cụ của đề tài
1.3.1. Khái niệm nhu cầu
1.3.2. Khái niệm việc làm
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm: “Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật”.
1.3.3. Khái niệm nhu cầu việc làm
1.3.3.1. Khái niệm
Nhu cầu việc làm là những mong muốn, đòi hỏi của con người về việc làm cần phải
được thỏa mãn để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của bản thân và gia đình. Nhu cầu việc
làm mang tính xã hội cao, được con người ý thức rõ ràng và thể hiện giá trị xã hội của cá
nhân.
1.2.3.2. Bản chất của nhu cầu việc làm
1.3.4. Khái niệm nhu cầu việc làm của ngƣời dân ở vùng đô thị hóa
1.3.4.1. Khái niệm đô thị hóa
1.3.4.2. Khái niệm người dân ở vùng đô thị hóa
1.3.4.3. Khái niệm nhu cầu việc làm của người dân ở vùng đô thị hóa
Nhu cầu việc làm của người dân ở vùng đô thị hóa là những mong muốn, đòi hỏi có
việc làm ổn định để tồn tại và phát triển của người dân vốn ở những vùng nông thôn nay
được chuyển thành vùng đô thị hóa.
1.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng tới nhu cầu việc làm
1.4.1. Yếu tố khách quan
- Gia tăng dân số vùng đô thị hóa
- Chính sách tạo việc làm cho người dân tại các vùng đô thị hóa.
- Văn hóa làng - xã
1.4.2. Yếu tố chủ quan
- Nhận thức của cá nhân
- Trình độ tay nghề
- Tâm thế sẵn sàng của cá nhân
- Tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cá nhân
TIỂU KẾT
Như vậy, ở chương 1 chúng tôi đã làm rõ về mặt lý luận của đề tài nghiên cứu bao
gồm các nội dung: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu với những nghiên cứu về nhu cầu và nhu
cầu việc làm của các nhà tâm lý học ngoài nước, nghiên cứu về nhu cầu và nhu cầu việc làm
của các nhà tâm lý học trong nước. Đồng thời làm rõ một số khái niệm công cụ của đề tài
gồm có: Khái niệm nhu cầu, khái niệm việc làm, khái niệm nhu cầu việc làm, khái niệm nhu
cầu việc làm của người dân ở vùng đô thị hóa và một số yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu việc
làm với yếu tố chủ quan và khách quan.
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Một vài nét về địa bàn nghiên cứu
2.2. Tổ chức nghiên cứu
2.2.1 Về mặt lý luận:
Đọc và phân tích quan điểm của các nhà tâm lý học trong và ngoài nước để xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài, đồng thời làm rõ các khái niệm công cụ của đề tài. Đọc các quyết
định, chính sách của Đảng và nhà nước về việc đô thị hóa để hiểu biết sâu sắc về vấn đề
nghiên cứu.
2.2.2. Về mặt thực tiễn
- Tiến hành nghiên cứu thực tiễn để thu thập thông tin một cách chính xác, khách
quan và khoa học nhằm chỉ ra thực trạng nhu cầu việc làm, các yếu tố ảnh hưởng và một số
biện pháp tâm lý nhằm thỏa mãn nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại
Hải Phòng.
- Kế hoạch thực hiện:
Từ tháng 1/2011 đến tháng 4/2011 đọc tài liệu, hoàn thành cơ sở lý luận của đề tài.
Từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2011 xây dựng bộ công cụ điều tra thực tế.
Từ tháng 8/2011 đi cơ sở điều tra thực tế
Tháng 9/2011 xử lý kết quả điều tra
Tháng 10/2011 đến 2/2012 viết kết quả nghiên cứu
Từ tháng 3 đến tháng 11/2012 bảo vệ đề tài nghiên cứu
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Mục đích: Thu thập dữ liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
- Cách thức tiến hành: Chọn lọc những tài liệu liên quan đến đề tài (công trình nghiên
cứu khoa học của các nhà Tâm lý học trong và ngoài nước), luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ,
các bài báo, tạp chí, các trang web liên quan đến đề tài nghiên cứu. Đọc, phân tích, khái
quát, tổng hợp các tài liệu đã chọn lọc và đưa ra kết luận.
2.3.2. Phương pháp chuyên gia
- Mục đích: Tham khảo ý kiến của người có chuyên môn, kiến thức về lĩnh vực mà
mình nghiên cứu để đưa ra hướng nghiên cứu đúng đắn.
- Cách tiến hành: Lựa chọn chuyên gia chuyên sâu về lĩnh vực mà mình nghiên cứu,
đề nghị được trợ giúp, được tham khảo ý kiến của họ về những kiến thức và kỹ năng cần thiết
để thực hiện đề tài một cách có hiệu quả.
2.3.3. Phương pháp quan sát
- Mục đích: Nhằm thu thập thêm thông tin mà phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và
phương pháp phỏng vấn sâu chưa làm được.
- Cách thức tiến hành: Quan sát không tham dự, quan sát ở nhà văn hóa xã, nhà văn
hóa thôn trong buổi họp tổ dân phố, họp thôn. Chủ yếu quan sát thái độ của người dân trong
buổi họp, nội dung trao đổi của buổi họp.
2.3.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
* Mục đích: Chỉ ra định lượng thực trạng nhu cầu việc làm của người dân ở một số
vùng đô thị hóa tại Hải Phòng.
* Nội dung nghiên cứu của bảng hỏi: Để khảo sát thực trạng nhu cầu việc làm của
người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng, đề tài thiết kế bảng hỏi gồm 11 câu, trong
đó:
Câu hỏi về nhận thức bao gồm: Câu 1, câu 2, câu 4, câu 5.
Câu hỏi về đối tượng hướng tới là câu 7.
Câu hỏi về hành động cụ thể là câu 8.
Câu hỏi về mức độ ảnh hưởng là câu 9.
Câu hỏi về thông tin cá nhân là câu 11.
Câu hỏi mở được đan xen vào các câu hỏi đóng để thu được thông tin phong phú hơn.
Các câu hỏi mở bao gồm: Câu 3, câu 6, câu 10 và câu 11.
* Cách thức cho điểm như sau:
Các câu hỏi mức độ đều được cho điểm từ 3 xuống 1, cụ thể là:
Mức độ đồng tình: Rất đồng tình: 3 điểm
: Đồng tình: 2 điểm
: Không đồng tình: 1 điểm
Mức độ thuận lợi : Rất thuận lợi: 3 điểm
: Thuận lợi: 2 điểm
: Không thuận lợi: 1 điểm
Mức độ khó khăn: Rất khó khăn: 3 điểm
: Khó khăn: 2 điểm
: Không khó khăn: 1 điểm
Mức độ mong muốn: Rất mong muốn: 3 điểm
: Mong muốn: 2 điểm
: Không mong muốn: 1 điểm
Mức độ thường xuyên: Rất thường xuyên: 3 điểm
: Thường xuyên: 2 điểm
: Không thường xuyên: 1 điểm
Mức độ ảnh hưởng: Rất ảnh hưởng: 3 điểm
: Ảnh hưởng: 2 điểm
: Không ảnh hưởng: 1 điểm
Với cách cho điểm như trên thì điểm thấp nhất là 1 và cao nhất là 2, ĐTB của ba mức
độ là 0.7. Do đó, chúng tôi có thang đánh giá nhu cầu việc làm như sau:
Từ 1.0 đến dưới 1.7 điểm ứng với mức độ thấp
Từ 1.7 đến dưới 2.4 ứng với mức độ trung bình
Từ 2.4 đên 3.0 ứng vơi mức độ cao.
2.3.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
* Mục đích:
+ Lý giải những nguyên nhân bản chất của nhu cầu việc làm của người dân ở vùng đô
thị hóa tại Hải Phòng.
+ Khẳng định các kết quả nghiên cứu của phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
+ Khai thác sâu hơn nội dung cần nghiên cứu ở khách thể.
* Nội dung phỏng vấn sâu:
- Phiếu phỏng vấn sâu gồm 3 phiếu
+ Phiếu phỏng vấn sâu 1: Dành cho chính quyền địa phương
+ Phiếu phỏng vấn sâu 2: Dành cho người dân chưa có việc làm
+ Phiếu phỏng vấn sâu số 3: Dành cho người dân đã có việc làm (Xem phụ lục 2, 3,
4).
* Cách thực hiện
Phỏng vấn sâu 43 người, trong đó:
+ 12 người dân ở huyện An Lão, Hải Phòng
+ 12 người dân ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
+ 12 người dân ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng
+ 3 cán bộ huyện An Lão, Hải Phòng
+ 2 cán bộ huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
+ 2 cán bộ huyện Tiên Lãng, Hải Phòng
* Nguyên tắc phỏng vấn:
- Tạo không khí thân mật giữa người nghiên cứu và khách thể phỏng vấn
+ Đề cập đến vấn đề cần phỏng vấn một cách khéo léo, dễ hiểu.
+ Chủ động khai thác, thảo luận về những vấn đề mà câu hỏi đặt ra
+ Phỏng vấn theo câu hỏi đã chuẩn bị sẵn
2.3.6. Phương pháp nghiên cứu chân dung tâm lý
* Mục đích:
Nhằm làm rõ sự khác biệt về các mức độ nhu cầu việc làm của người dân ở một số
vùng đô thị hóa tại Hải Phòng và nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó.
* Cách thức thực hiện:
Chọn 2 khách thể nổi bật nhất thể hiện sự khác biệt về mức độ nhu cầu việc làm của
người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng bao gồm: Có nhu cầu việc làm ở mức độ
cao, có nhu cầu việc làm ở mức độ thấp.
2.3.7. Phương pháp xử lý kết quả bằng thống kê toán học.
- Mục đích: Tìm ra kết quả định lượng cho vấn đề mình nghiên cứu
- Cách tiến hành: Mã hóa thông tin, nhập dữ liệu, thực hiện các thao tác tính toán
phần trăm, điểm trung bình, mối tương quan trên phần mềm SPSS 16.0 để khẳng định và tăng
cường độ tin cậy của kết quả thu được.
TIỂU KẾT
Với những kiến thức được trình bày ở trên, chúng tôi đã giới thiệu vài nét về địa bàn
nghiên cứu, thực hiện tổ chức nghiên cứu bao gồm nghiên cứu về mặt lý luận và nghiên cứu
về mặt thực tiễn, phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp chuyên gia, phương pháp
quan sát, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp
nghiên cứu chân dung tâm lý, phương pháp chuyên gia, phương pháp xử lý kết quả nghiên
cứu bằng thống kê toán học sử dụng phần mềm SPSS 16.0.
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
3.1. Thực trạng nhu cầu việc làm của ngƣời dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải
Phòng
3.1.1. Nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng biểu
hiện qua nhận thức
3.1.1.1. Nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng biểu
hiện qua nhận thức về ý nghĩa của việc làm đối với người dân trong vùng.
Vị trí thứ nhất là “giúp cá nhân nuôi sống bản thân và gia đình”, đạt ĐTB là 2.87 với
87.6% khách thể “rất đồng tình”.
Đứng ở vị trí thứ hai là ý nghĩa “làm cho cuộc sống gia đình ổn định, hạnh phúc” với
ĐTB là 2.77, đây cũng là điểm số thể hiện sự đồng tình ở mức độ cao.
“Làm cho con người vui vẻ, năng động và sáng tạo” là ý nghĩa thứ ba của việc làm
với 76.6% “rất đồng tình”, 22.2% “đồng tình” và 1.2% khách thể “không đồng tình”. Ý nghĩa
này đạt ĐTB là 2.76 - tương ứng với sự nhận thức ở mức độ cao.
Như vậy, những khách thể mà chúng tôi nghiên cứu nhận thức về ý nghĩa của việc
làm ở mức độ cao. Khi so sánh mối tương quan giữa các nội dung phản ánh ý nghĩa của việc
làm với những người có việc làm và chưa có việc làm chúng tôi không thấy có sự khác biệt
đáng kể. Tuy nhiên, những ý nghĩa liên quan đến sự sống của từng cá nhân và gia đình nhận
được nhiều ý kiến “rất đồng tình” và “đồng tình” hơn những ý nghĩa khác.
3.1.1.2. Nhận thức của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng về giá trị
của việc làm đối với bản thân và gia đình
Giá trị của việc làm đối với bản thân và gia đình trong nhận thức của người dân vùng
đô thị hóa ở mức độ cao với ĐTB là 2.81. Điều này cho thấy những giá trị trên hết sức gần
gũi và gắn bó mật thiết với đời sống của họ.
Vị trí thứ nhất thuộc về giá trị “giúp cá nhân tồn tại và phát triển trong xã hội” nhận
được 100% số người được hỏi “rất đồng tình” và “đồng tình”, đạt ĐTB là 2.91 - số điểm thể
hiện nhận thức ở mức độ cao.
Thứ hai là vị trí của giá trị “mang lại niềm vui, tiếng cười trong gia đình” với ĐTB là
2.87, số điểm này phản ánh sự nhận thức của những người được hỏi ở mức độ cao, tương ứng
với mức độ “rất đồng tình” và “đồng tình” của 100% khách thể nghiên cứu.
“Giáo dục ý thức trách nhiệm” là giá trị đứng ở vị trí thứ ba trong nhận thức của
người dân vùng đô thị hóa về giá trị của việc làm khi nhận được 99.4% khách thể “rất đồng
tình” và “đồng tình”, tỷ lệ này tạo nên ĐTB là 2.82 - số điểm phản ánh nhận thức đạt mức độ
cao.
Vị trí thứ tư thuộc về giá trị “giúp cá nhân có kiến thức, kỹ năng chuyên môn của một
lĩnh vực cụ thể” với ĐTB là 2.77, ứng với các tỷ lệ lựa chọn cụ thể như sau: 98.1% khách thể
“rất đồng tình” và “đồng tình”, chỉ có 1.9% khách thể tham gia trả lời câu hỏi lựa chọn mức
độ “không đồng tình”.
Vị trí thứ năm thuộc về giá trị “làm phong phú đời sống tinh thần của con người” khi
nhận được 97.6% số người được hỏi “rất đồng tình” và “đồng tình”, đạt ĐTB là 2.70 - số
điểm tương ứng mức độ cao.
Nhìn chung, cũng giống như nhận thức về ý nghĩa của việc làm, giá trị của việc làm
cũng được các khách thể nghiên cứu nhận thức ở mức độ cao và không có sự khác biệt rõ rệt
trong nhận thức của những người có việc làm và những người chưa có việc làm.
3.1.1.3 Nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng biểu
hiện qua nhận thức về thuận lợi và khó khăn khi tìm kiếm việc làm để thỏa mãn nhu cầu việc
làm.
*. Nhận thức của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng về những thuận
lợi để có việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu việc làm của bản thân và gia đình.
Vị trí thứ nhất thuộc về yếu tố “thông tin về việc làm” với ĐTB là 2.03 - tương ứng
mức độ “trung bình”.
1.98 là số điểm tạo nên vị trí thứ hai cho ý kiến “được hỗ trợ vốn và kỹ thuật”. Vị trí
thứ hai là vị trí tiếp tục thể hiện sự thuận lợi ở mức độ “trung bình”.
“Được doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng” là nội dung đứng ở vị trí thứ ba trong bậc
thang thuận lợi của người dân vùng đô thị hóa với ĐTB là 1.86 tương ứng với mức độ trung
bình.
“Kinh nghiệm truyền thống” là nội dung đứng ở vị trí thứ tư với ĐTB là 1.85 - số
điểm tương ứng với mức độ “trung bình”.
Khi xem xét mối tương quan trong nhận thức của những khách thể đã có việc làm và
những khách thể chưa có việc làm với những nội dung thể hiện thuận lợi trong quá trình tìm
kiếm việc làm và cơ hội việc làm chúng tôi thấy mức độ thuận lợi mới chỉ ở mức trung bình.
Tuy nhiên, số người có việc làm đạt điểm số TBC là 1.87 và điểm TBC của những người
chưa có việc làm là 1.71. Mặc dù sự cách biệt giữa hai điểm số trên không nhiều nhưng nó
cũng phần nào phản ánh những người có việc làm nhận thức về những thuận lợi đối với quá
trình tìm kiếm việc làm để thỏa mãn nhu cầu việc làm của bản thân cao hơn một chút so với
những người chưa có việc làm.
*. Nhận thức của người dân về những khó khăn trong quá trình tìm kiếm việc làm để
thỏa mãn nhu cầu việc làm của bản thân và gia đình.
Khó khăn lớn nhất mà người dân vùng đô thị hóa gặp phải khi tìm kiếm việc làm và
cơ hội việc làm là “lương thấp” với ĐTB là 2.42 số điểm thể hiện khó khăn ở mức độ cao.
Khó khăn thứ hai mà người dân vùng đô thị hóa gặp phải là “phải làm việc xa nhà”
với ĐTB là 2.12 - số điểm tương ứng với khó khăn ở mức độ trung bình.
“Không có đầu ra cho sản phẩm” là khó khăn thứ ba mà người dân vùng đô thị hóa đã
và đang gặp phải với ĐTB là 2.0, số điểm ứng với mức độ trung bình. Để làm nên số điểm
như trên thì mức độ “rất đồng tình” và “đồng tình” được 59.2% khách thể lựa chọn.
Kết quả so sánh tương quan giữa những người có việc làm và những người chưa có
việc làm với những nội dung phản ánh khó khăn mà người dân ở một số vùng đô thị hóa tại
Hải Phòng gặp phải khi tìm kiếm việc làm để thỏa mãn nhu cầu việc làm có sự chênh lệch
đáng kể. Trong khi điểm TBC của những người có việc làm ở các nội dung trên đạt 1.73 điểm
thì điểm TBC của những người chưa có việc làm là 2.09. Sự chênh lệch này phần nào chứng
tỏ: Trong quá trình tìm kiếm việc làm để thỏa mãn nhu cầu việc làm của mình, những người
chưa có việc làm gặp khó khăn nhiều hơn những người hiện đã có việc làm.
Nói về khả năng vượt qua những khó khăn trên thì: Trong tổng số 162 khách thể
nghiên cứu chỉ có 43 khách thể “đã vượt qua khó khăn”, 31 khách thể “sắp vượt qua khó
khăn” và còn tới 88 khách thể “chưa vượt qua khó khăn”. Đồng thời những người chưa có
việc làm chủ yếu chưa vượt qua khó khăn khi điểm TBC dành cho khả năng vượt qua khó
khăn là 2.82, trong khi đó điểm TBC dành cho khả năng vượt qua khó khăn của những người
đã có việc làm là 2.19.
3.1.2. Nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa biểu hiện qua việc
làm mà họ hướng tới (đối tượng cụ thể).
Kết quả nghiên cứu thực tiễn cho thấy: Trong số 162 khách thể nghiên cứu thì 139
người (chiếm 85.8%) đã có việc làm nhưng vẫn còn tới 23 người (chiếm 14.2%) chưa tìm
được việc làm. Điều đáng lưu ý là phần lớn việc làm hiện tại của người dân vùng đô thị hóa
không trùng hợp với việc làm mong muốn của họ.
Việc làm được nhiều người dân mong muốn nhất là “làm việc ở doanh nghiệp” với
ĐTB là 2.66, số điểm tương ứng với mức độ “cao”.
Việc làm thứ hai mà người dân ở một số vùng đô thị hóa mong muốn chính là kinh
doanh với ĐTB đạt 2.34, số điểm này tương ứng với mức độ “trung bình”.
Nuôi trồng thủy sản đứng ở vị trí thứ ba trong số những việc làm mong muốn của
người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng khi ĐTB đạt 2.16, đây cũng là số điểm đạt
mức độ “trung bình”.
2.08 là ĐTB của việc làm “nông nghiệp”, số điểm tương ứng với mức độ trung bình
và giúp cho nông nghiệp đứng ở vị trí thứ tư trong những việc làm mong muốn của người dân
ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng.
“Xuất khẩu lao động” giữ vị trí thứ năm trong số những việc làm mà người dân ở một
số vùng đô thị hóa mong muốn khi đạt ĐTB là 2.07, số điểm này cũng tương ứng với mức độ
“trung bình”.
3.1.3 Nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng thể
hiện qua một số hành động cụ thể để thỏa mãn nhu cầu việc làm.
Hành động được nhiều người dân thực hiện nhất để tìm kiếm việc làm để thỏa mãn
nhu cầu việc làm là “tham gia các đợt tuyển dụng của doanh nghiệp” với ĐTB là 2.39.
Vị trí thứ hai là hành động “tham gia các khóa đào tạo nghề của địa phương và các
doanh nghiệp” với các mức độ: 82.7% khách thể thực hiện ở mức độ “rất thường xuyên” và
“thường xuyên”, 17.3% “không thường xuyên” thực hiện. Với các tỷ lệ trên, hành động này
đạt ĐTB là 2.35 - số điểm tương ứng mức độ trung bình.
2.27 là ĐTB của hành động “tìm kiếm thông tin về việc làm trên mạng internet”. Với
số điểm như vậy, hành động này được thực hiện ở mức độ trên trung bình và đứng ở vị trí thứ
ba.
Vị trí thứ tám thuộc về hành động “tham gia hội chợ việc làm” khi chỉ có 29% số
khách thể thực hiện ở mức độ “rất thường xuyên”, 32.1% số khách thể “thường xuyên” thực
hiện và 38.9% số khách thể “không thường xuyên” thực hiện. Với các tỷ lệ như trên, hành
động này chỉ đạt ĐTB là 1.90 - số điểm tương ứng với mức độ trung bình.
“Nạo vét ao hồ” chỉ đạt ĐTB là 2.26 - số điểm thấp nhất (đứng ở vị trí cuối cùng)
trong tất cả các hành động mà người dân vùng đô thị hóa thực hiện để có việc làm và cơ hội
việc làm.
Khi xét mối tương quan giữa mức độ thực hiện các hành động cụ thể để có việc làm
nhằm thỏa mãn nhu cầu việc làm của các khách thể nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: Dù cùng
thực hiện các hành động trên ở mức độ trung bình nhưng số điểm mà các nhóm khách thể đạt
được lại có sự chênh lệch đáng kể. Trong khi những người đã có việc làm đạt điểm TBC là
2.10 thì những người chưa có việc làm đạt điểm TBC là 1.78. Sự chênh lệch này chứng tỏ
những người có việc làm đã thực hiện những hành động trên thường xuyên hơn những người
chưa có việc làm.
3.2. Đánh giá mức độ nhu cầu việc làm của ngƣời dân ở một số vùng đô thị hóa
tại Hải Phòng.
Phần lớn người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng có nhu cầu việc làm ở
mức độ trung bình, một số người nhu cầu việc làm đạt mức độ cao nhưng hầu hết trong số họ
nhu cầu việc làm chưa được thỏa mãn thực sự.
3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến nhu cầu việc làm của ngƣời dân ở một số vùng
đô thị hóa tại Hải Phòng
Yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình tìm kiếm việc làm để thỏa mãn nhu cầu
việc làm của các khách thể nghiên cứu là “sự năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân” với ĐTB
là 2.19 - tương ứng với sự ảnh hưởng ở mức độ trung bình.
Nội dung có ĐTB đứng thứ hai (2.01) tương ứng với mức độ “trung bình” là “kiến
thức, kỹ năng chuyên môn”.
Nội dung thứ ba ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của người dân vùng đô thị hóa là
“vốn đầu tư” với 45.1% cho là “rất ảnh hưởng”, 45.1% cho là “ảnh hưởng” và 9.9% khách
thể cho là “không ảnh hưởng”. Tỷ lệ này khiến nội dung trên đạt ĐTB là 1.96 tương ứng với
mức độ “ảnh hưởng”.
Nội dung có ĐTB đạt 1.93 tương ứng với mức độ “trung bình” và đứng ở vị trí số 4 là
“thông tin chi tiết về việc làm”.
Vị trí thứ 5 thuộc về nội dung “địa điểm làm việc” với 93.8%% số người lựa chọn
mức độ “rất ảnh hưởng” và “ảnh hưởng”, tỷ lệ này khiến nội dung trên đạt ĐTB là 1.86 - số
điểm tương ứng với mức độ “trung bình”.
3.4. Một số kết quả nghiên cứu chân dung tâm lý về nhu cầu việc làm của ngƣời
dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng
3.5. Một số giải pháp tâm lý - xã hội giúp ngƣời dân ở một số vùng đô thị hóa tại
Hải Phòng có thể tìm đƣợc việc làm thỏa mãn nhu cầu việc làm của bản thân và gia
đình.
- Sử dụng sức mạnh của truyền thông.
- Mở làng nghề
- Tạo dựng mối quan hệ công - nông
- Thực hiện chủ trương của nhà nước
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nhu cầu việc làm là những mong muốn, đòi hỏi của con người về việc làm và cơ hội
việc làm cần phải được thỏa mãn để đảm bảo sự tồn tại của bản thân và gia đình. Nhu cầu
việc làm mang tính xã hội cao, được con người ý thức rõ ràng và thể hiện giá trị xã hội của cá
nhân.
+ Nhu cầu việc làm được thể hiện ở ba nội dung cụ thể là: Nhận thức, đối tượng
hướng tới và hành động cụ thể. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:
- Nhận thức của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng về giá trị, ý nghĩa
của việc làm cũng như những thuận lợi và khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình tìm kiếm
việc làm và cơ hội việc làm đạt mức độ trung bình. Kết quả này sẽ tác động đến nhu cầu việc
làm của họ.
- “Làm việc ở doanh nghiệp” và “kinh doanh” là hai việc làm được đại đa số khách
thể lựa chọn, đó chính là những việc làm mà họ đã, đang mong muốn được thực hiện trong
thời kỳ mới.
- Mức độ thường xuyên thực hiện những hành động cụ thể để có được việc làm để
thỏa mãn nhu cầu việc làm của người dân ở một số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng cũng đạt
mức độ trung bình. Tuy nhiên, những người có việc làm đã thực hiện những hành động cụ thể
để có được việc làm và cơ hội việc làm thường xuyên hơn những người chưa có việc làm.
- Tổng hợp cả ba nội dung trên chúng ta thấy nhu cầu việc làm của người dân ở một
số vùng đô thị hóa tại Hải Phòng đạt mức độ trung bình và họ đã từng bước hiện thực hóa
nhu cầu của mình nhưng nhu cầu đó chưa được thỏa mãn thực sự. Những người chưa có việc
làm hiện còn gặp khá nhiều khó khăn và mức độ thực hiện các hành động cụ thể để thỏa mãn
nhu cầu việc làm của bản thân và gia đình. Do đó nhu cầu việc làm của họ chưa được hiện
thực hóa và chưa được thỏa mãn.
+ Quá trình tìm kiếm việc làm để thỏa mãn nhu cầu việc làm của người dân ở một số
vùng đô thị hóa tại Hải Phòng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố chủ
quan và khách quan nhưng yếu tố chủ quan giữ vai trò chủ đạo. Một trong những yếu tố đó là
sự năng động, sáng tạo của bản thân, tiếp đến là kiến thức, kỹ năng chuyên môn của từng cá
nhân.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với nhà nước
Trước khi tiến hành đô thị hóa, nhà nước nên có chính sách rõ ràng về đào tạo việc
làm để người dân trong vùng có cơ hội được thỏa mãn nhu cầu việc làm, đồng thời phải giám
sát việc thi công các dự án lớn, nhỏ để tạo niềm tin cho dân.
2.2. Đối với chính quyền địa phương
- Chính quyền địa phương nên mở rộng công tác tuyên truyền trên tất cả các phương
tiện truyền thông đại chúng hiện có ở địa phương để người dân có cơ hội tiếp cận và nắm bắt
thông tin việc làm phong phú và chuẩn xác hơn. Nhờ đó mà họ có nhiều cơ hội việc làm,
nhanh chóng rút ngắn thời gian tìm việc làm cho bản thân và những người xung quanh.
- Chính quyền địa phương tạo sự kết nối giữa các doanh nghiệp với người dân trong
vùng để các doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng người dân và thu mua sản phẩm mà người dân
sản xuất để họ có việc làm ổn định.
- Chính quyền địa phương có chính sách hỗ trợ vốn để người dân phát triển kinh tế,
mở làng nghề và tạo cơ hội thuận lợi để phát triển các nghề truyền thống của địa phương.
- Chính quyền địa phương nên mời cán bộ có chuyên môn về tập huấn, đào tạo việc
làm cho người dân trong vùng, đưa các thiết bị mới vào hoạt động sản xuất và tạo điều kiện
tối đa để người dân thử nghiệm các mô hình sản xuất mới.
- Chính quyền địa phương nên tổ chức các lớp dạy nghề cho người dân trong vùng
trước khi tiến hành thu hồi diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
2.3. Đối với người dân
- Người dân phải tự tìm hiểu thêm thông tin việc làm từ những nguồn khác nhau, có
thể là nhờ sự trợ giúp của nguời thân, bạn bè, các phương tiện truyền thông đại chúng, thậm
chí là phải trực tiếp đi đến các khu vực khác để tìm hiểu thông tin việc làm.
- Người dân phải hiểu rõ mình muốn làm việc gì, yêu cầu của việc làm đó ra sao,
mình đã có những gì và còn thiếu những gì để bổ sung thêm. Có như vậy thì nhu cầu việc làm
của họ mới có thể được hiện thực và được thỏa mãn.
- Với những người bị thu hồi diện tích đất sản xuất nông nghiệp nên suy nghĩ, tính toán về
vấn đề việc làm trước khi sử dụng tiền đền bù mà gia đình nhận được. Đồng thời phải tích
cực học hỏi mô hình chuyển đổi sản xuất trong thời kỳ đô thị hóa để nhu cầu việc làm của họ
trong thời
References
1. Nguyễn Ngọc Bích, “Tâm lý học nhân cách”, Nxb ĐHQG - Hà Nội, 2000.
2. Hà Thị Hòa Bình, luận án tiến sĩ, “Tìm hiểu nhu cầu thông tin của khách thể tuyên truyền”,
trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2000.
3. Vũ Dũng, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006.
4. Vũ Dũng, Từ điển tâm lý, Nxb từ điển bách khoa, 2008.
5. Hoàng Trần Doãn, luận án tiến sĩ “Nghiên cứu nhu cầu điện ảnh của sinh viên”, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội, 2006.
6. Phạm Mạnh Hà, “Bài giảng Tâm lý học hướng nghiệp”, 2009.
7. Phạm Minh Hạc - Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện
đại hóa.
8. Mã Nghĩa Hiệp, Tâm lý học tiêu dùng, Nxb chính trị quốc gia, 1998
9. Trần Hiệp, Tâm lý học xã hội - những vấn đề lý luận, Nxb Khoa học xã hội, 2006.
10. Hoàng Thị Thu Hòa, luận án tiến sĩ, “Nhu cầu học tập của sinh viên sư phạm”, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội, 2003.
11. Phan Thị Mai Hương, “Những biến đổi tâm lý cơ bản của cư dân vùng ven đô trong quá
trình đô thị hoá, Nxb từ điển bách khoa, 2010.
12. Lê Khanh, “Bài giảng Tâm lý học nhân cách”, khoa Tâm lý học trường Đại học khoa học
Xã hội và Nhân Văn, 2007.
13. Nguyễn Văn Lũy, luận án tiến sĩ tâm lý học: “Nghiên cứu đặc điểm nhu cầu nhận thức
của học sinh học kém bậc tiểu học”, 2001.
14. Nguyễn Thị Tuyết Mai, luận án tiến sĩ tâm lý học: “Nhu cầu bồi dưỡng về nghiệp vụ quản
lý của cán bộ xã”, 2008.
15. Nguyễn Hà Thành, luận văn thạc sĩ tâm lý học “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản
của học sinh trung học phổ thông”, trường Đại hoc Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 2007.
16. Nguyễn Hữu Thụ, Tâm lý học quản trị kinh doanh, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
17. Lã Thị Thu Thủy, luận án tiến sĩ tâm lý học: “Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của tri thức
trẻ”, 2006.
18. Nguyễn Khắc Viện, Tâm lý học, Nxb văn hóa thông tin, 2001.
19. Nguyễn Đình Xuân “Tâm lí học Quản trị kinh doanh”, 2001.
20.