Tải bản đầy đủ (.docx) (265 trang)

“Tự nhiên” và “nữ giới” trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại nhìn từ nữ quyền luận sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.07 MB, 265 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỒNG LÊ ANH LY

“TỰ NHIÊN” VÀ “NỮ GIỚI”
TRONG VĂN XI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
NHÌN TỪ NỮ QUYỀN LUẬN SINH THÁI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2022



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỒNG LÊ ANH LY

“TỰ NHIÊN” VÀ “NỮ GIỚI”
TRONG VĂN XI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
NHÌN TỪ NỮ QUYỀN LUẬN SINH THÁI
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả

Hoàng Lê Anh Ly



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NỮ QUYỀN SINH THÁI VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NỮ
QUYỀN SINH THÁI TRONG VĂN HỌC NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI..........6
1.1. Nữ quyền sinh thái và tiềm năng của phê bình nữ quyền sinh thái trong
nghiên cứu văn học........................................................................................... 6
1.1.1. Thuật ngữ nữ quyền sinh thái và chủ nghĩa nữ quyền sinh thái...................6
1.1.2. Các trường phái của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái...................................... 8
1.1.3. Đặc trưng của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái.............................................. 10
1.1.4. Tiềm năng của phê bình nữ quyền sinh thái trong nghiên cứu văn học......22
1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu văn xi nữ Việt Nam đương đại từ

nữ quyền luận sinh thái................................................................................... 29
1.2.1. Về mặt du nhập lý thuyết........................................................................... 29
1.2.2. Về thực hành phê bình nữ quyền sinh thái................................................. 35
1.2.3. Ứng dụng phê bình nữ quyền sinh thái trong nghiên cứu văn học.............37
Tiểu kết.................................................................................................................... 39
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ “NỮ QUYỀN” VÀ VẤN ĐỀ “SINH THÁI” TRONG
SÁNG TÁC CỦA TÁC GIẢ NỮ VIỆT NAM: MỘT CÁI NHÌN LỊCH ĐẠI....41
2.1. Vấn đề “nữ quyền” trong sáng tác của tác giả nữ Việt Nam: một cái nhìn
lịch đại............................................................................................................... 41
2.1.1. Sự manh nha và xác lập ý thức “nữ quyền” trong văn học nữ Việt
Nam đầu thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX............................................... 41
2.1.2. Vấn đề “nữ quyền” trong văn học nữ Việt Nam hiện đại thế kỉ XX đến
năm 1975.................................................................................................. 46
2.1.3. Vấn đề “nữ quyền” trong văn học nữ Việt Nam từ năm 1975 đến nay.....54
2.2. Vấn đề “sinh thái” trong sáng tác của các tác giả nữ Việt Nam - một cái


nhìn lịch đại....................................................................................................... 62
2.2.1. Sự hình thành ý thức “sinh thái” trong văn học nữ Việt Nam trung đại...62
2.2.2. Vấn đề “sinh thái” trong văn học nữ Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
năm 1975.................................................................................................. 64
2.2.3. Vấn đề “sinh thái” trong văn học nữ Việt Nam sau năm 1975..................69
2.3. Xu hướng lồng kết vấn đề “sinh thái” với vấn đề “nữ quyền”..........................71
2.3.1. Xuất phát từ sự “khúc xạ” lý thuyết nữ quyền sinh thái ở phương Tây....71
2.3.2. Xuất phát từ bản chất nội tại của nữ giới.................................................. 77
2.4. Sự hình thành diễn ngơn nữ quyền sinh thái trong văn xuôi nữ Việt Nam
đương đại........................................................................................................... 80
2.4.1. Từ “vấn đề” trong văn học đến “diễn ngôn” trong văn học......................80
2.4.2. Điều kiện hình thành diễn ngơn nữ quyền sinh thái trong văn xuôi nữ
Việt Nam................................................................................................... 85

2.4.3. Thành tựu bước đầu và những hạn chế..................................................... 88
Tiểu kết.................................................................................................................... 90
CHƯƠNG 3. “TỰ NHIÊN” VÀ “NỮ GIỚI” QUA Ý THỨC NGHỆ THUẬT
VÀ GĨC NHÌN CỦA CHỦ THỂ NỮ TRONG VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI............................................................................................................ 91
3.1. Vấn đề “Ý thức nghệ thuật”, “góc nhìn”/“điểm nhìn” và “chủ thể nữ”............91
3.1.1. Sự trỗi dậy “ý thức nghệ thuật” của chủ thể nữ........................................91
3.1.2. Sự thay đổi “góc nhìn”/“điểm nhìn” của “chủ thể nữ” trong văn xuôi
nữ đương đại............................................................................................. 93
3.2. Nét tương đồng về vẻ đẹp của “tự nhiên” và “nữ giới” qua điểm nhìn của
chủ thể nữ.......................................................................................................... 96
3.2.1. Vẻ đẹp phồn thực....................................................................................... 96
3.2.2. Vẻ đẹp thiên tính mẫu.............................................................................. 101
3.3. Sự tương hợp giữa tự nhiên và “giới thứ hai” về vị thế “ngoại biên”..............105
3.3.1. Thuật ngữ “ngoại biên”............................................................................ 105
3.3.2. Hình tượng nam quyền “trung tâm”......................................................... 107
3.3.3. Nữ giới và tự nhiên – hiện thân cho sự nô lệ và vị trí “ngoại biên”.........115


3.3.4. Sự chia sẻ, thấu hiểu của “nữ giới” và “tự nhiên” từ vị thế ngoại biên....136
3.3.5. Bản lĩnh và sức đề kháng của “tự nhiên” và “nữ giới”............................. 143
Tiểu kết.................................................................................................................. 151
CHƯƠNG 4. “TỰ NHIÊN” VÀ “NỮ GIỚI” QUA PHƯƠNG THỨC TỔ
CHỨC TRẦN THUẬT TRONG VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI........................................................................................................ 153
4.1. Diễn ngôn trần thuật nữ – phương tiện thể hiện ý thức nữ quyền sinh thái trong
văn xuôi nữ Việt Nam đương đại..................................................................... 153
4.1.1. Diễn ngôn trần thuật nữ........................................................................... 153
4.1.2. Đặc trưng của diễn ngôn trần thuật nữ..................................................... 153
4.2. Tự thuật như một hình thức kỹ thuật tự sự phổ biến....................................... 155

4.2.1. Quan niệm về tự thuật.............................................................................. 156
4.2.2. Tự thuật “kiểu nữ giới” – một phương thức tự sự đặc trưng....................160
4.3. Phong cách hịa phối diễn ngơn của “giới thứ hai”......................................... 175
4.3.1. Hịa phối giữa diễn ngơn độc thoại và đối thoại....................................... 175
4.3.2. Hịa phối giữa diễn ngơn kể, tả của người kể chuyện và diễn ngôn của
nhân vật.................................................................................................. 179
4.4. Cách tạo sinh “ký hiệu quyển” và biểu tượng về tự nhiên và “giới thứ hai”...184
4.4.1. Ký hiệu quyển về “giới thứ hai” như là nạn nhân của ma không gian
đô thị....................................................................................................... 185
4.4.2. Thiên nhiên và những biểu tượng mang dấu vết cổ mẫu..........................189
Tiểu kết.................................................................................................................. 198
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 199
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 202
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ......................216
PHỤ LỤC............................................................................................................. PL1



11

1. Tính cấp thiết của đề tài

MỞ ĐẦU

Khi mơi trường sinh thái trên trái đất ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, sự nóng
lên tồn cầu tiếp tục ảnh hưởng đến khắp hành tinh thì quan điểm của chúng ta về mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên bắt đầu phát triển đa chiều và toàn diện hơn. Sự ra
đời của lý thuyết nữ quyền sinh thái là một sự bổ sung cho tư duy sinh thái và tổ chức xa
hội, bởi sự thống trị phụ nữ và thiên nhiên về cơ bản xuất phát từ một hệ tư tưởng. Để
giải phóng cả hai, việc cơ cấu và đánh giá lại các giá trị gia trưởng và cấu trúc văn hóa là

việc làm cần thiết nhằm thúc đẩy sự bình đẳng, khơng đối ngẫu và các hình thức tổ chức
khơng phân cấp để đưa ra các hình thức xa hội mới.
Phê bình nữ quyền sinh thái ra đời vào thập niên 90 của thế kỷ XX, khi mà nhân
loại đang phải đối mặt với những vấn nạn bức thiết: sự hủy hoại mơi sinh trên trái đất và
tình trạng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra âm ỉ, kéo dài. Là bước phát triển của chủ nghĩa
nữ quyền sinh thái, phê bình nữ quyền sinh thái trong văn học xuất hiện cùng với sự diễn
ra rầm rộ của làn sóng nữ quyền thứ ba, mở ra một hướng mới cho việc giải quyết nguy
cơ sinh thái và vấn đề bất bình đẳng giới. Ở Việt Nam, phê bình nữ quyền sinh thái, văn
học nữ quyền sinh thái là kết quả của chuỗi “phản ứng muộn màng” và chưa thực sự phát
triển sâu rộng, sôi nổi so với thế giới. Tuy nhiên, vì tính nhân văn và tiến bộ, phê bình nữ
quyền sinh thái có ảnh hưởng lớn đến quan điểm thẩm mỹ, hứng thú thẩm mỹ và ý thức
thẩm mỹ của tác giả văn học Việt Nam đương đại. Với số lượng tác phẩm đáng kể, các
nhà văn nữ Việt Nam đương đại như: Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Quế Hương, Võ Thị Xuân
Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Thuận, Phong Điệp... đa thể hiện được sự nhạy bén
của mình trong việc tri nhận những vấn đề thời sự mang tính nhân loại.
Nghiên cứu văn xi nữ Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết nữ quyền sinh thái
là một hướng triển khai thiết thực và quan trọng. Điều này cho thấy, các nhà văn, nhà phê
bình đa bắt đầu nắm bắt được xu hướng của thời đại trong bối cảnh tồn cầu hóa. Việc
nghiên cứu phê bình văn học nữ quyền sinh thái sẽ làm phát triển, phong phú thêm lý
luận phê bình văn học, từ đó giúp các nhà văn đúc kết được kinh nghiệm sáng tác, nâng
cao trình độ sáng tác, thúc đẩy sự phát triển của văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái.
Ở góc độ xa hội, việc nghiên cứu phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái sẽ
khiến nhân loại chú ý hơn đến mối quan hệ nội tại giữa hai vấn đề nguy cơ sinh thái và sự
phân biệt giới, có ý thức đối xử hài hịa, bình đẳng đối với tự nhiên và phụ nữ.


Điều này hứa hẹn mở ra một thế giới hòa hợp giữa con người – tự nhiên – nam giới – nữ
giới đồng thời mang đến sự giải phóng ý thức nghệ thuật của chủ thể nữ văn xuôi đương
đại.
Từ việc mong muốn khám phá đặc trưng, sự tương đồng giữa hình tượng “nữ

giới” và “tự nhiên” trong văn xi nữ Việt Nam đương đại, phản tư cách hành xử phiến
diện, định kiến với tự nhiên và thân phận người phụ nữ của tư tưởng nam quyền trung
tâm đang diễn ra âm thầm, dai dẳng và đầy yếu tố phi tự nhiên, chúng tôi chọn đề tài:
“Tự nhiên” và “nữ giới” trong văn xi nữ Việt Nam đương đại nhìn từ nữ quyền
luận sinh thái” để thực hiện luận án. Hướng nghiên cứu này sẽ góp phần thúc đẩy sự
chú ý tới những vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa thời đại, đồng thời lấp đầy thêm
mảng trống của phê bình nữ quyền sinh thái trong văn học Việt Nam đương đại.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, ứng dụng lý thuyết nữ quyền - sinh thái để soi chiếu, khảo sát trên sáng
tác của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, chỉ ra sự tồn tại song song và tương quan
giữa hình tượng “nữ giới” và “tự nhiên” về vẻ đẹp, sức sống, sức đề kháng, vị thế từ đó
khẳng định vai trị, vị trí của “tự nhiên” và “nữ giới” qua ý thức nghệ thuật, góc nhìn của
chủ thể nữ trong văn xi nữ Việt Nam đương đại. Đồng thời, thông qua diễn ngôn trần
thuật đậm thiên tính nữ của các nhà văn nữ đương đại, chúng tơi tìm hiểu phong cách
hịa phối cũng như kiến tạo diễn ngơn của các nhà văn nữ, từ đó góp phần nâng cao nhận
thức về giới cũng như cảnh tỉnh cách hành xử của con người với môi trường sinh thái và
nữ giới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, thuật ngữ văn xuôi nữ Việt Nam đương
đại được dùng với ý nghĩa là đời sống văn học của các tác giả nữ Việt Nam đang diễn ra
hiện nay và được bắt đầu từ khoảng những năm 80 của thế kỉ XX để khu biệt với văn
học Việt Nam hiện đại. Xác định nội hàm “đương đại” như vậy cũng chỉ có ý nghĩa
tương đối, không phải ở trạng thái “tĩnh” mà đang trong quá trình định hình và phát
triển, có những biến động sâu sắc, nhanh, mạnh, phức tạp của văn học Việt Nam trong
hơn 40 năm qua và kể cả những thử nghiệm mới chưa đi tới đích.
Từ việc xác định nội hàm của văn xuôi nữ Việt Nam đương đại như trên, đối
tượng nghiên cứu của luận án là “tự nhiên” và “nữ giới” trong văn xi nữ Việt Nam
đương đại nhìn từ hệ hình lý thuyết nữ quyền sinh thái. Cụ thể luận án tập trung nghiên
cứu những phương diện biểu hiện của nữ quyền sinh thái qua ý thức nghệ thuật, góc



nhìn của chủ thể nữ (các nhà văn nữ) và phương thức tổ chức trần thuật trong văn xuôi nữ
Việt Nam đương đại. Đối tượng khảo sát trong luận án bao gồm các tác giả và tác phẩm
được thống kê ở phụ lục 1.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là các sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt
nam đương đại, trong đó đối tượng khảo sát chủ yếu là truyện ngắn và tiểu thuyết. Về cơ
bản, những vấn đề nữ quyền sinh thái trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại được thể
hiện đậm nét hơn vào những năm đầu thế kỉ XXI cho đến tận bây giờ, vì thế, chúng tơi
cũng tập trung khảo sát nhiều hơn những tác phẩm được xuất bản trong khoảng thời gian
này (xem phụ lục 1).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dưới ánh sáng của lý thuyết nữ quyền sinh thái với các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu dưới đây:
- Phương pháp xa hội – lịch sử : Nhằm tìm hiểu nguồn gốc xuất hiện, quá trình
phát triển và biểu hiện của ý thức nữ quyền sinh thái trong văn xuôi nữ Việt Nam đương
đại.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Nhằm định hình những đặc trưng cơ bản của
lý thuyết nữ quyền sinh thái và phê bình nữ quyền sinh thái trong hệ thống những quan
điểm đa dạng thậm chí đối nghịch nhau.
- Phương pháp so sánh – loại hình: Nhằm so sánh, đối chiếu văn học giữa các giai
đoạn, văn học giữa các dân tộc và giữa các tác phẩm của nhà văn nam với nhà văn nữ…
từ đó tìm hiểu hồn cảnh xa hội, nền tảng văn hố, giai đoạn lịch sử đa tác động như thế
nào đến văn học trong phạm vi biểu hiện của ý thức nữ quyền luận sinh thái trong sáng
tác của một số tác giả nữ tiêu biểu. Bên cạnh đó vận dụng phương pháp loại hình nhằm
tìm ra những phạm trù chung, có tính tương đồng hàm chứa trong các hiện tượng văn
học nữ quyền sinh thái từ đó khái quát những tiêu chí, đặc trưng riêng cũng như hiệu
quả thẩm mỹ của dịng văn học này.
- Phương pháp phê bình cổ mẫu: Vận dụng phương pháp này để đi tìm và phân
tích các biểu tượng tự nhiên mang tính cổ mẫu có hàm lượng ý nghĩa biểu đạt bền vững,

phổ quát bắt nguồn từ văn hóa, tơn giáo, lịch sử của dân tộc.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng hướng tiếp cận liên ngành nhằm xác định những
lý thuyết tương quan đồng đẳng với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, nhằm minh giải
cho các phương diện của nữ quyền sinh thái và một số thao tác sau để bổ trợ cho


các phương pháp nghiên cứu trên:
- Thao tác phân tích, tổng hợp: Nhằm phân tích những đặc điểm tương hợp về
thân phận nữ giới và tự nhiên trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại từ đó khái quát
thành những đặc trưng làm nên diện mạo chung diễn ngôn nữ quyền sinh thái.
- Thao tác thống kê: Sẽ dùng để thống kê một số biểu tượng, hình ảnh, chi tiết
nghệ thuật quan trọng xuất hiện trong các tác phẩm nhằm làm rõ những biểu hiện của
diễn ngôn nữ quyền sinh thái trong sáng tác của từng tác giả cụ thể.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: Từ sau năm 1986 đến nay, văn học Việt Nam đa hịa mình trong xu
thế tồn cầu hóa, khơng ngừng giao lưu, tiếp nhận những lý thuyết phê bình mới mẻ,
nhân văn và ứng dụng tinh chọn có hiệu quả như: thi pháp học, tự sự học, hậu hiện đại,
hậu thực dân, nữ quyền luận, sinh thái học... Tuy nhiên, phê bình nữ quyền sinh thái vẫn
cịn là mảng đề tài cịn khuyết thiếu. Đề tài sẽ góp phần hệ thống hố những vấn đề lý
luận và phê bình nữ quyền sinh thái như nguồn gốc, đặc trưng và sự ảnh hưởng của nó
đến diễn ngơn văn học ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Vận dụng lý thuyết phê bình nữ quyền sinh thái chúng tơi
kiến giải những đặc trưng tiêu biểu trong văn xuôi nữ đương đại Việt Nam qua những
biểu hiện:
+ Sự tương đồng giữa “nữ giới” và “tự nhiên” về vẻ đẹp, sức sống, sức đề kháng,
vị thế của “tự nhiên” và “nữ giới” trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại.
+ Tái thiết quan niệm mới về tự nhiên, mối quan hệ giữa “tự nhiên” và “nữ giới”
thông qua giải cấu trúc “nhân loại trung tâm” từ đó xác lập chuẩn tắc đạo đức mới của
con người đối với tự nhiên và của nam giới đối với nữ giới.
+ Khẳng định vai trò quan trọng của văn bản nghệ thuật đối với sự thức tỉnh của

con người trong việc tàn phá, xâm lấn môi sinh, tình trạng bất bình đẳng giới cũng như
sự sinh tồn và phát triển của nhân loại.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận
án gồm 4 chương chính:
Chương 1. Nữ quyền sinh thái và tiềm năng nghiên cứu nữ quyền sinh thái
trong văn học nữ Việt Nam đương đại: Chương này nhằm giới thiệu quá trình hình
thành cũng như những đặc trưng của nữ quyền sinh thái. Qua đó, dẫn nhập phê bình nữ
quyền sinh thái như là một cách tiếp cận mới, có tính hậu hiện đại đối với văn học bởi


khả năng tham dự vào câu chuyện mang tính tồn cầu của nó qua việc nó khơi gợi cảm
giác tổn thương của nữ giới và tự nhiên, từ đó đánh thức khát vọng tái lập một thế giới
sinh tồn hài hòa và phát triển bền vững.
Chương 2. Vấn đề “nữ quyền” và vấn đề “sinh thái” trong sáng tác của tác
giả nữ Việt Nam: một cái nhìn lịch đại: Chương này nhằm nghiên cứu vấn đề “nữ
quyền” và vấn đề “sinh thái” trong sáng tác của tác giả nữ Việt Nam được từ góc nhìn
lịch đại nhằm làm cơ sở để chúng tơi đánh giá, nhìn nhận ý thức nữ quyền sinh thái
trong văn học Việt Nam đương đại được triển khai ở các chương sau.
Chương 3. “Tự nhiên” và “nữ giới” qua ý thức nghệ thuật và góc nhìn của
chủ thể nữ trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại: Chương này nhằm khảo cứu
những tác phẩm văn xuôi nữ Việt Nam thời kỳ đương đại, từ đó tiến hành định giá các
phương diện biểu hiện của nữ quyền sinh thái qua mối quan hệ của “nữ giới” và “tự
nhiên”.
Chương 4. “Tự nhiên” và “nữ giới” qua phương thức tổ chức trần thuật
mang thiên tính nữ trong văn xi Việt Nam đương đại: Chương này nhằm tìm hiểu
cách biểu đạt thế giới của các nhà văn nữ đương đại, hay cách tổ chức ngôn ngữ, giọng
điệu của họ để tạo lập cho mình một phương thức chuyển tải cảm quan nữ quyền sinh
thái riêng biệt.



CHƯƠNG 1
NỮ QUYỀN SINH THÁI VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
NỮ QUYỀN SINH THÁI TRONG VĂN HỌC NỮ
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Nữ quyền sinh thái và tiềm năng của phê bình nữ quyền sinh thái trong nghiên
cứu văn học
1.1.1. Thuật ngữ nữ quyền sinh thái và chủ nghĩa nữ quyền sinh thái
Sự ra đời của nữ quyền sinh thái được xem là bước ngoặt lớn của chủ nghĩa nữ
quyền. Phong trào chính trị – xa hội này ra đời ở phương Tây cuối thập niên 70, nở rộ
mạnh mẽ từ khoảng những năm 80 và phát triển thành cao trào vào thập niên 90 của thế kỷ
XX. Nội dung trào lưu đề cập đến sự liên kết nữ quyền với những vấn đề sinh thái tự
nhiên, đặc biệt là cặp quan hệ thống trị và bị trị song song: nam giới – nữ giới, văn hoá –
tự nhiên.
Thuật ngữ nữ quyền sinh thái (ecofeminism) là một thuật ngữ được kết hợp giữa
nữ quyền luận (feminism) và sinh thái học (ecology) được viết một cách đầy đủ là
"ecological feminism”. Sinh thái học nghiên cứu về sự phụ thuộc lẫn nhau và kết nối của
tất cả các chuỗi sự sống trên trái đất. Nữ quyền là một phong trào đấu tranh chính trị –
xa hội và bình đẳng giáo dục của phụ nữ với nam giới. Sinh thái lo sợ về những hoạt
động của con người đang phá hủy khả năng tồn tại của hệ sinh thái toàn cầu. Nữ quyền
lo lắng với cách mà phụ nữ đa và đang phụ thuộc vào đàn ông. Thuyết nữ quyền sinh
thái cho rằng hai vấn đề này về bản chất là tương đồng và kết nối với nhau. Nữ quyền
sinh thái như tên gọi của nó chỉ đơn giản là sản phẩm kết hợp của phong trào giải phóng
phụ nữ và phong trào bảo vệ sinh thái. Nữ quyền sinh thái có thể được định nghĩa là một
hệ thống giá trị, một phong trào xa hội, nhận thức và thực tiễn xem chủ nghĩa môi
trường và mối quan hệ giữa phụ nữ và tự nhiên là nền tảng cho sự phân tích và ý nghĩa
thực tiễn của nó.
Thuật ngữ này đa được Francoise d'Eaubonne giới thiệu trong cuốn sách của bà viết
vào năm 1974 – Chủ nghĩa nữ quyền hay là chết (Le Féminisme ou la Mort, Paris: P
Horay, 1974) nhằm mô tả các phong trào và triết lý liên kết nữ quyền với sinh thái. Sự liên

kết này nhằm xố bỏ mọi hình thức bất công xa hội đặc biệt là sự bất công đối với phụ nữ
và môi trường. Việc giới thiệu thuật ngữ nữ quyền sinh thái như là một cách để Francoise
d'Eaubonne gây chú ý đến tiềm năng của phụ nữ trong cuộc cách mạng sinh thái.
Không giống như các lý thuyết hậu hiện đại, thuyết nữ quyền sinh thái không bắt
nguồn từ một công thức lý thuyết đơn lẻ nào, thuật ngữ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái
được


các nhà nữ quyền sinh thái sử dụng như tên của một loạt các quan điểm khác nhau để
khám phá các kết nối phụ nữ và để phát triển các triết lý nữ quyền và môi trường dựa trên
những hiểu biết này. Các kết nối này thực sự cần thiết cho chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa
môi trường. Cheryll Glotfelty cho rằng chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là một diễn ngôn lý
thuyết “nối kết sự áp bức phụ nữ và sự thống trị thiên nhiên” (Glotfelty, C., 1996). “Nữ
quyền sinh thái là một nhánh của nữ quyền khảo sát các kết nối giữa phụ nữ và thiên
nhiên” (Miles, K., 2012).
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái có hai cách gọi: Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (The
feminism of ecology) hoặc sinh thái học chủ nghĩa nữ quyền (The ecology of feminism). Nó
vừa là một thuật ngữ chỉ một trào lưu chính trị – xa hội (Phong trào biểu tình của nữ giới ở
những thập niên 70, 80 chống lại thảm họa môi trường và sự hủy hoại sinh thái đang tái
diễn, xuất hiện đồng thời với làn sóng nữ quyền thứ hai) vừa để chỉ một học thuật, một triết
lý về những nguyên lý cơ bản của sự bình đẳng giới nên nó vừa mang tính chất lý thuyết
vừa mang tính thực hành: “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là một phong trào hoạt động và
học thuật nhìn thấy mối liên hệ quan trọng giữa sự thống trị tự nhiên và sự bóc lột phụ nữ”
(Eaton, H., and Lorentzen, A. L., 2003); “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là một phong trào
nhìn thấy mối liên hệ giữa sự bóc lột và suy thoái của thế giới tự nhiên và sự phụ thuộc và
áp bức của phụ nữ. Nó xuất hiện vào giữa những năm 1970 cùng với chủ nghĩa nữ quyền ở
làn sóng thứ hai và phong trào xanh” (Mellor, M., 1997). Như vậy, chủ nghĩa nữ quyền sinh
thái là sự kết nối của lý thuyết (các diễn ngôn về phụ nữ và diễn ngôn về môi trường) và kết
nối thực hành (phong trào đấu tranh bình đẳng giới và phịng trào đấu tranh bảo vệ mội
trường), đó điều là những hoạt động chống lại các dạng bất công trong xa hội.

Các nhà nữ quyền sinh thái đều cho rằng mối quan hệ về sự thống trị giữa con
người và thiên nhiên (được hình thành bởi khoa học hiện đại từ thế kỷ 16) và mối quan hệ
bóc lột giữa đàn ông và phụ nữ là những mối quan hệ chiếm ưu thế trong hầu hết các xa
hội gia trưởng, ngay cả những xa hội công nghiệp hiện đại và có mối liên quan chặt chẽ
với nhau. Nó là hệ quả của chủ nghĩa nhân loại trung tâm và tư tưởng nhị nguyên. Chủ
nghĩa nữ quyền sinh thái sử dụng các nguyên lý nữ quyền cơ bản của sự bình đẳng giữa
các giới, giải cấu trúc chủ nghĩa nhân loại trung tâm dựa trên quan điểm tôn trọng sự phát
triển tự nhiên, và kết nối toàn diện, hợp tác và bình đẳng: “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái
lập luận rằng cuộc chiến cho sự sống còn của sinh thái về bản chất hịa quyện với cuộc
chiến giải phóng phụ nữ và giành những hình thái cơng bằng xa hội khác” (Thornber, K.,
2011).


Qua một số luận điểm nêu trên ta thấy rằng chủ nghĩa nữ quyền sinh thái được hiểu
khái quát là hệ thống các quan điểm về mối liên hệ mật thiết và sự tương đồng giữa sự
thống trị phụ nữ với sự thống trị thiên nhiên – kết quả của nền văn hố phụ quyền hình
thành từ thời ngun thuỷ và phát triển đến đỉnh cao trong chủ nghĩa nhị nguyên, nỗ lực
xây dựng một cơ cấu xa hội công bằng, phản đối các hình thức phân biệt. Đang trong q
trình hồn thiện và chưa có sự thống nhất về hệ thống lý thuyết, nhưng nó đa làm dấy lên
những trào lưu chính trị – xa hội góp phần lật đổ những giá trị truyền thống của nhân loại
về sự chinh phục cũng như thống trị tự nhiên và nữ giới từ trước đến nay. Cân bằng tự
nhiên cũng đảm bảo cho cân bằng xa hội nên sự tích hợp giữa vấn đề môi trường sinh thái
và vấn đề nữ quyền là sự tất yếu xuất phát từ mối liên hệ nội tại giữa giới nữ và giới tự
nhiên. Tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là phê phán chủ nghĩa nhị
nguyên, chủ nghĩa nhân loại trung tâm, chủ nghĩa nam giới trung tâm, khẳng định vai trị
quan trọng của phụ nữ trong việc duy trì sự phát triển bền vững, cải thiện môi trường và
giảm áp lực khai thác lên môi trường tự nhiên. Từ đó lý thuyết này phản tỉnh về nguy cơ
sinh thái cũng như những áp lực của giới nữ trong bối cảnh đương đại, thúc đẩy sự công
bằng không chỉ với tự nhiên mà còn với cả những người đang nâng đỡ bảo vệ cho tự
nhiên. Đó là sự kết hợp tương tác không tách rời nhau giữa tự nhiên và nữ giới để nhân

loại bền vững và ổn định.
1.1.2. Các trường phái của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái văn hóa (Cultural Ecofeminism)
Đây là một nhánh của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái, với các đại diện tiêu biểu
như: Starhawk, Riane Eisler và Carol J. Adams. Trong lịch sử, chuỗi đầu tiên của chủ
nghĩa sinh thái là chủ nghĩa nữ quyền văn hóa (đơi khi được gọi là chủ nghĩa nữ quyền
triệt để hoặc tâm linh), được phát triển vào đầu những năm 1970. Một số nhà nữ quyền
sinh thái văn hóa cho rằng phụ nữ gần gũi với thiên nhiên hơn nam giới. Sự gắn kết giữa
phụ nữ và môi trường được lý giải từ vai trị giới (ví dụ: người ni dưỡng, chăm sóc gia
đình, người có vai trị cung cấp thực phẩm) và sinh học của họ (ví dụ: kinh nguyệt, mang
thai và cho con bú). Họ tin rằng vai trò giới cũng như sự đặc biệt trong cấu trúc sinh học,
cho phép phụ nữ nhạy cảm hơn với sự tôn nghiêm và suy thối của mơi trường và sự
mẫn cảm này cần được xa hội đánh giá cao khi nó thiết lập một kết nối trực tiếp với thế
giới tự nhiên mà con người phải cùng tồn tại.
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xã hội (social ecofeminism)
Guttman đa chỉ ra chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xa hội được coi là phiên bản
“chân thực nhất” của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái vì "sự bác bỏ tính phân đơi tự nhiên
– văn


hóa" (Guttman, N., 2002, tr.42). Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xa hội đi ngược lại với các
quan điểm của các nhà nữ quyền sinh thái văn hóa. Họ đặc biệt chỉ trích và phê phán
những gì được coi bản chất luận (essentialism) tức là thuộc tính có sẵn ở sự vật nào đó.
Việc quan niệm mọi thực thể đều có một tập hợp các thuộc tính cần thiết cho danh tính và
chức năng của nó của chủ nghĩa thiết yếu thực sự nguy hiểm vì nó tập hợp tất cả phụ nữ
vào một loại và thực thi các quy tắc xa hội mà nữ quyền đang cố gắng phá vỡ và quan
điểm này cũng đánh đồng phụ nữ với thiên nhiên. Chính vì thế, quan điểm thiết yếu của
một số nhà nữ quyền sinh thái như là sự củng cố và gia tăng sự thống trị và chuẩn mực
gia trưởng. Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xa hội cũng phê phán tính chất phổ quát
(universality) trong những tuyên bố trước đây về phụ nữ và tự nhiên. Các nhà nữ quyền

sinh thái xa hội cho rằng khơng có bản chất thiết yếu (sinh học, tự nhiên, bẩm sinh) của phụ
nữ, thay vào đó, bản sắc của phụ nữ được đánh giá theo cấu trúc lịch sử – xa hội thông qua
sự tương tác của đa dạng chủng tộc/sắc tộc, giai cấp, khuynh hướng tình dục, tuổi tác, khả
năng, tình trạng hôn nhân và các yếu tố địa lý (kiến tạo xa hội).
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái duy vật (Materialist Ecofeminism)
Các nhà nữ quyền sinh thái duy vật có quan điểm kết nối một số thể chế như lao
động, quyền lực và tài sản là nguồn gốc của sự thống trị đối với phụ nữ và thiên nhiên.
Có những kết nối được thực hiện giữa các chủ thể này vì các giá trị của sản xuất và tái sản
xuất. Quan điểm này của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái duy vật cũng có thể được xem như
là chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xa hội (social feminism); Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xa
hội chủ nghĩa (socialist ecofeminism); Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái mácxít (Marxist
ecofeminism). Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái duy vật tìm cách loại bỏ hệ thống phân cấp
xa hội có lợi cho việc sản xuất hàng hóa (do nam giới thống trị), Carolyn Merchant cho
rằng: "chủ nghĩa nữ quyền sinh thái xa hội chủ trương giải phóng phụ nữ thơng qua các
hệ thống phân cấp kinh tế và xa hội biến mọi khía cạnh của cuộc sống thành một xa hội
thị trường” (Merchant, C., 2005, tr.193). Một số nhà nữ quyền sinh thái xa hội duy vật
cũng cho rằng các mối quan hệ tự nhiên của phụ nữ vừa được xây dựng về mặt xa hội vừa
có khuynh hướng sinh học: “sinh học của phụ nữ (cơ thể, khả năng sinh sản) đa đóng một
vai trò quan trọng trong lịch sử áp bức phụ nữ nhưng nó khơng phải là định mệnh. Thay
vào đó, chúng ta nên thấy được tầm quan trọng của mối quan hệ xa hội và chính trị dẫn
đến sự áp bức phụ nữ và thiên nhiên” (Buckingham, S., 2015). Vì vậy, có thể nói chủ
nghĩa nữ quyền sinh thái duy vật là một nhánh trung gian giữa nữ quyền sinh thái văn hóa
và nữ quyền sinh thái xa hội.


Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái cấp tiến (Radical Ecofeminism)
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái cấp tiến có nguồn gốc từ chủ nghĩa nữ quyền cấp
tiến. Các nhà sinh thái nữ quyền cấp tiến cho rằng xa hội gia trưởng thống trị đánh đồng
thiên nhiên và phụ nữ để làm mất giá trị của cả hai. Họ cũng chủ trương mô tả sự vượt
trội của chức năng sinh sản, tập trung vào mối quan hệ, chăm sóc và yêu văn hóa của

phụ nữ. Họ sử dụng khái niệm gia trưởng để giải thích các vấn đề của phụ nữ và chế độ
phụ hệ đó cũng là cơng cụ phân tích lý thuyết quan trọng nhất của chủ nghĩa nữ quyền
sinh thái, mặt khác họ quan niệm xa hội loài người không phải là trung tâm, mà chỉ là
một yếu tố của một cộng đồng sống lớn hơn với các yếu tố tự nhiên, động vật, thực vật,
hệ sinh thái, cảnh quan, hành tinh nói chung, có các quyền tương tự để phát triển như
con người.
Ngồi ra, cịn nhiều phân nhánh khác của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái như: chủ
nghĩa nữ quyền sinh thái ăn chay, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái đồng tính, chủ nghĩa nữ
quyền sinh thái thổ dân, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái tinh thần... Dù có nhiều trường
phái tư tưởng và nhiều xu hướng khác nhau, cũng có sự tương phản và đụng độ ln
xuất hiện giữa những nhà nữ quyền sinh thái, nhưng chủ nghĩa nữ quyền sinh thái vẫn
không ngừng phát triển và nó ln mang một giá trị cốt lõi đó là sự cứu rỗi hiệu quả của
hệ sinh thái theo quan điểm của người phụ nữ. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa nữ quyền
sinh thái là sử dụng khái niệm gia trưởng (patriarchy) để giải thích các vấn đề của phụ
nữ và chế độ phụ hệ. Nó phê phán chế độ phụ quyền, ca ngợi bản chất nữ tính (nhưng
khơng theo chủ nghĩa bản chất), phản đối các quan niệm dẫn đến sự bóc lột, thống trị,
bất cơng. Đối với các nhà sinh thái học, sự thống trị phụ nữ và thiên nhiên về cơ bản
được gắn vào hệ tư tưởng. Để khắc phục điều này, người ta cần cơ cấu lại và đánh giá lại
các giá trị văn hóa gia trưởng chính, thúc đẩy sự bình đẳng, khơng đối ngẫu và các hình
thức tổ chức khơng phân cấp để đưa ra các hình thức xa hội mới.
1.1.3. Đặc trưng của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái
1.1.3.1. Đặc trưng kết nối giữa nữ giới và tự nhiên
Mặc dù có sự khác biệt, song sinh thái học và nữ quyền luận có sự kết nối với nhau.
Mối tương quan giữa tự nhiên và phụ nữ này được coi là xương sống của chủ nghĩa nữ
quyền sinh thái: “Có những mối liên hệ quan trọng giữa sự thống trị phụ nữ và sự thống trị
tự nhiên, một sự hiểu biết về vấn đề nữ quyền, chủ nghĩa môi trường và triết học mơi
trường” (Warren, K. J., 1987), trù hoạch chính của nó là vạch ra những yếu tố kết nối giữa
thiên nhiên và phụ nữ đồng thời phá hủy những yếu tố có hại cho cả hai. Dưới đây, chúng
tơi phân tích một số kết nối có tính chất kết hợp, bổ sung hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong quá



trình phân tích bản chất thống trị song hành phụ nữ và tự nhiên. Việc vạch rõ những kết nối
này giúp xác định phạm vi và sự đa dạng của các mối quan hệ sinh thái đối với nữ quyền.
Kết nối các hình thức thống trị (Experiential Connections)
Xa hội phương Tây được cấu trúc bởi một mối quan hệ thống trị, việc áp bức phụ
nữ cũng như cưỡng đoạt tự nhiên đều dựa trên logic chung của sự thống trị này. Nếu sự
thống trị tự nhiên đề cập đến sự phụ thuộc phi lý của thế giới phi nhân loại vào con người
thì sự thống trị phụ nữ đề cập đến sự phụ thuộc vô lý của nữ giới vào nam giới. Ở cấp độ
khái niệm, tư duy phân cấp giá trị và thuyết nhị nguyên đa tạo nên sự vượt trội của văn
hóa so với tự nhiên, của con người so với động vật cũng như sự vượt trội của đàn ông so
với phụ nữ. Các nhà nữ quyền sinh thái tin rằng sự thống trị tự nhiên đa dẫn đến một loạt
các vấn đề về khủng hoảng môi trường, tuyệt chủng lồi, sự biến mất của mơi trường
sống, phá rừng, sa mạc hóa, ơ nhiễm khơng khí, nước, cạn kiệt tài nguyên, khí hậu và
thay đổi khí quyển... họ cũng đồng ý rằng mối quan hệ thống trị của nam giới đối với nữ
giới là một đặc điểm xa hội thể hiện ở nhiều lĩnh vực và theo những đặc trưng văn hóa đa
dẫn đến các hệ quả như: bạo lực gia đình, hiếp dâm, bất bình đẳng pháp lý, bất bình đẳng
kinh tế... Từ đó khẳng định có mối liên kết giữa các hệ thống thống trị khác nhau này:
Có thể chứng minh rằng chủ nghĩa phân biệt giới tính (sexism), phân biệt chủng
tộc (racism), và chủ nghĩa tự nhiên hay sự áp bức của tự nhiên (naturism) có mối quan hệ
với nhau và chúng đều củng cố hệ thống áp bức. Thay vì là một phong trào, "một vấn đề",
chủ nghĩa nữ quyền sinh thái quan niệm rằng việc giải phóng tất cả các nhóm bị áp bức
phải được giải quyết đồng thời. (Gaard, G., 1993, tr.5).

Grate Gaard cũng mô tả chủ nghĩa nữ quyền sinh thái không chỉ dựa vào sự nhận
biết các mối liên hệ giữa việc lợi dụng tự nhiên và đè nén phụ nữ trong những xa hội nam
quyền mà cả trong nhận thức rằng hai hình thức thống trị này được gắn với bóc lột giai
cấp, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới. Trên
thực tế, tất cả các hệ thống thống trị bao gồm chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa phân biệt giới tính, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thực dân,... đều dựa
trên cùng một logic thống trị xuất phát từ tư tưởng nhị nguyên và chủ nghĩa nhân loại

trung tâm: “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái không chỉ dựa vào sự nhận biết các mối liên hệ
giữa việc lợi dụng tự nhiên và việc đè nén phụ nữ trong những xa hội nam quyền mà cả
trong nhận thức rằng hai hình thái thống trị này được gắn với bóc lột giai cấp, chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới” (Gaard, G., tr.1).
Daniel Pérez Marina trong Anthropocentrism and Androcentrism – An Ecofeminist


Connection đồng ý quan điểm về sự kết nối giữa hình thức thống trị nữ giới và tự nhiên
bằng các luận điểm dưới đây:
(1) Tồn tại một hệ thống áp bức áp đặt sự thống trị lên tự nhiên.
(2) Tồn tại một hệ thống áp bức áp đặt sự thống trị lên nữ giới
(3) Sự thống trị tự nhiên và sự thống trị nữ giới có mối liên hệ với nhau.

(4) Sự thống trị tự nhiên và sự thống trị nữ giới là khơng chính đáng và phải chấm dứt.
(Marina, D. P., 2009, tr.1)
Như vậy, trải nghiệm cá nhân về sự thống trị thúc đẩy nữ giới cảm nhận sâu sắc về
vị trí của kẻ bị áp bức từ đó đồng cảm hơn với tự nhiên và các thực thể phi nhân. Trong
khi đó, nam giới khơng thể dễ dàng kết nối với các đối tượng mà họ thống trị, khả năng
đồng cảm cũng như mối liên hệ với tự nhiên bị hạn chế. Nếu muốn thực hiện nữ quyền
nhằm mục đích chấm dứt chủ nghĩa phân biệt giới tính, các nhà nữ quyền phải tính đến tất
cả các yếu tố liên quan ảnh hưởng chứ không phải chỉ riêng vấn đề giới và ngược lại muốn
thực hiện sinh thái triệt để thì cần phải bác bỏ logic của sự thống trị này vì chủ nghĩa tự
nhiên cũng dựa vào logic của sự thống trị, nên nữ quyền cũng nhằm mục đích chấm dứt
chủ nghĩa tự nhiên.
Kết nối thực nghiệm (Experiential Connections)
Là sự kết nối giữa nữ giới và tự nhiên được thể hiện qua những bằng chứng thực
nghiệm. Đây là mối liên kết thiết thực và sống động nhất về quá trình ảnh hưởng lẫn
nhau trong việc cưỡng đoạt môi trường và áp bức phụ nữ. Các nhà nữ quyền sinh thái
tìm thấy những bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng sự thống trị tự nhiên, cụ thể là
hủy hoại môi trường, ảnh hưởng như thế nào đối với phụ nữ (và các nhóm trực thuộc

khác) nghiêm trọng hơn ảnh hưởng đến nam giới. Chẳng hạn, ở Thế giới Thứ ba, việc
thiếu nước vệ sinh là mối quan tâm đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em vì họ là người cung
cấp nước chính trong gia đình, họ cũng trực tiếp đối mặt với những tình trạng sức khỏe
cao hơn khi khơng có nước vệ sinh hoặc rủi ro về sức khỏe mà các nhóm khác nhau như
trẻ em, phụ nữ, dân tộc thiểu số và người nghèo phải hứng chịu từ việc nhiễm phóng xạ
ở mức độ thấp, thuốc trừ sâu, chất độc và các chất gây ơ nhiễm được gây ra bởi chính
sách phát triển của Thế giới Thứ nhất. Warren khẳng định rằng: “Trong những người
chịu thiệt hại do những phá hủy môi trường, như người da trắng, người da màu, người
nghèo, trẻ em, người già, người thuộc địa, dân Thế giới Thứ ba và các nhóm người Khác
thì phụ nữ thường gặp những hiểm nguy với mức độ cao một cách không cân xứng so
với đàn ông” (Warren, K. J., 2000). Việc phơi bày những bằng chứng thực nghiệm này
nhằm mục đích


ghi lại những mối liên hệ thực tế, những cảm nhận sống động giữa sự thống trị phụ nữ và
tự nhiên từ đó thúc đẩy nhu cầu kết hợp phân tích nữ quyền và các mối quan tâm về mơi
trường.
Kết nối tượng trưng (Symbolic Connections)
Kết nối tượng trưng giữa phụ nữ và thiên nhiên có thể nhìn thấy trong nghệ thuật,
thần học, tôn giáo và văn học. Chẳng hạn thần học sinh thái nữ quyền xem đất mẹ Gaia là
nữ thần, đưa ra quan niệm “Tâm linh Gaia”. Một số nhà nữ quyền sinh thái dựa vào văn
học, đặc biệt là văn bản tự nhiên (nature writing) của người Pháp, để giải ma bản chất của
các mối liên hệ biểu tượng tự nhiên của phụ nữ. Họ chú ý tới vai trị của ngơn ngữ trong
tổ chức và duy trì sự thống trị tự nhiên cũng như sự thống trị phụ nữ qua mối liên hệ
mang tính biểu tượng giới tính và tự nhiên. Trong một số ngữ cảnh, ngơn ngữ góp phần
làm mất giá trị của phụ nữ với các thuật ngữ mô tả họ gắn với động vật như (bị, cáo, gà,
rắn, chó cái...). Ngược lại, thiên nhiên thường được mơ tả với các thuật ngữ tính dục như:
thiên nhiên bị ham hiếp, làm chủ, chinh phục, kiểm soát, khai thác. Khám phá sự liên kết
tượng trưng và sự mất giá của phụ nữ và thiên nhiên xuất hiện trong tôn giáo, thần học,
nghệ thuật và văn học là một phần không thể thiếu trong dự án của chủ nghĩa nữ quyền

sinh thái để giải quyết vấn đề giải phóng, khẳng định cuộc sống và thuyết tâm linh trên
thế giới.
Kết nối lịch sử (Historical connections)
Trong lịch sử phương Tây đa có một số thời kỳ được coi là nguồn gốc và có các
yếu tố cơ bản mang lại mối liên hệ giữa sự thống trị của tự nhiên và phụ nữ. Các nhà nữ
quyền sinh thái đưa ra một số sự kiện được cho là quan trọng dẫn đến logic thống trị như:
Cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ XVI và thế kỷ XVII; Triết học cổ điển Hy Lạp, sự
ra đời của chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhị nguyên... Merchant cũng dựa vào cuộc cách
mạng khoa học của nhân loại để giải thích cho sự biến mất của một trật tự thế giới cũ với
đặc trưng là sự hợp tác giữa con người và thiên nhiên của thuyết hữu cơ và sự thay thế
bằng thuyết cơ giới của khoa học hiện đại đa dẫn đến việc khai thác tự nhiên khơng kiểm
sốt, nền thương mại công nghiệp được mở rộng và sự phụ thuộc của phụ nữ.
Kết nối chính trị (Political Connections)
Phong trào nữ quyền cũng như những phong trào bảo vệ môi trường đều là những
phong trào đấu tranh chính trị – xa hội và bình đẳng. Mục đích của Francoise d'Eaubonne
khi giới thiệu thuật ngữ ecofeminism vào năm 1974 là để khẳng định tiềm năng phụ nữ
trong cuộc cách mạng sinh thái, kêu gọi phụ nữ tham gia cuộc cách mạng này để giữ gìn


trái đất, xây dựng một mối quan hệ bình đẳng hài hòa giữa con người và tự nhiên, nam
giới và nữ giới. Từ khi hình thành đến nay, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái ln là một
phong trào chính trị được thúc đẩy từ mối quan tâm của nhân loại đến các vấn đề thiết
thực từ vấn đề sức khỏe phụ nữ, môi trường, sự phát triển của khoa học, cơng nghệ, đến
các vấn đề hịa bình, chống hạt nhân, hoạt động chống độc tài. Các quan điểm của các
nhà sinh nữ quyền thái về môi trường được coi là một nỗ lực để thực hiện nghiêm túc
các hoạt động chính trị và các mối quan tâm chính trị.
Kết nối nữ tính (Feminine Connections)
Mối liên hệ giữa tự nhiên và nữ giới trong nữ quyền sinh thái không đơn giản chỉ
dựa trên một nguyên nhân gốc rễ chung của sự thống trị cả hai, mặc dù thực tế có một
mối liên hệ giữa phụ nữ và thiên nhiên theo cách mà họ từng bị áp bức trong lịch sử.

Nếu các nhà nữ quyền sinh thái xa hội nhấn mạnh rằng bất kỳ mối liên hệ nào giữa nữ
giới và tự nhiên hồn tồn là kết quả của q trình xây dựng xa hội, thì một số nhà nữ
quyền sinh thái tinh thần cho rằng mối liên hệ này còn sâu sắc hơn mối tương đồng về áp
bức, nghĩa là không nhất thiết phải là nguồn gốc của sự áp bức, hoặc được xây dựng về
mặt xa hội mà sự kết nối giữa nữ giới và tự nhiên là vốn có và mang tính bản chất luận
hay cịn gọi đó là kết nối vơ thức (unconscious connection), đó chính là mối liên hệ và
sự tương đồng về thuộc tính giữa tự nhiên và nữ giới (naturalizing women and
feminization of nature). Họ cho rằng phụ nữ và tự nhiên là khởi điểm của nguồn sống:
"Tạo hóa đa truyền khả năng ban sự sống từ Mẹ Trái đất cho phụ nữ" (Wilson, K.,
2005). Cảm giác tơn kính đối với thiên nhiên bắt nguồn từ nữ tính, từ khả năng mang lại
sự sống, điều này giúp nữ giới kết nối sâu sắc hơn với thiên nhiên: “Các nhà sinh thái
học tinh thần nhấn mạnh rằng con người có liên hệ bản chất với thiên nhiên, và mối liên
hệ này mạnh mẽ nhất đối với phụ nữ” (Wilson, K., 2005). Cơ thể của phụ nữ cũng bị
ảnh hưởng bởi tự nhiên nhiều hơn nam giới (chẳng hạn sự liên quan của chù kì kinh
nguyệt với mặt trăng). Bản chất nữ tính này cịn thể hiện ở một mối quan hệ lý tưởng
mang đặc trưng mẫu tính khơng dựa trên tương tác xa hội. Đó là một mối quan hệ đặc
trưng bởi sự cho và nhận không cân bằng. Người mẹ thường được coi là người khơng
ngừng cho đi mà khơng mong nhận lại điều gì, trong khi đó người nhận lại là người
chiếm ưu thế trong mối quan hệ. Điều này có thể sẽ gây phản ứng ngược vì nếu coi thiên
nhiên là mẹ và giống như nữ tính sẽ khiến chúng ta thoải mái hơn trong việc tận dụng các
nguồn tài nguyên của trái đất mà khơng quan tâm nhiều đến những đều có hại cho cả phụ
nữ và phong trào môi trường. Thuật ngữ “mẹ thiên nhiên” dường như là một gợi ý cho sự
lợi dụng và coi thường. Khi so sánh trái đất với mẹ


của chúng ta, con người đang tạo ra một mối quan hệ mà trong đó chúng ta khơng cảm
thấy tội lỗi khi sử dụng quá mức các nguồn lực sẵn có. Xem tự nhiên như một thực thể u
thương vơ hạn và ban tặng không ngừng khiến chúng ta sẽ nhầm lẫn rằng hành tinh trái đất
tồn tại vì lợi ích của chúng ta, chúng ta có thể tận dụng những gì nó cung cấp và cũng
khiến ta tin rằng chúng ta có quyền nhận, lấy mà khơng có hậu quả. Thực tế, mẹ thiên nhiên

sẵn sàng kết thúc cuộc sống của những sinh vật mà bà tạo ra mà khơng hối hận. Mặt khác,
nếu coi nữ tính là gần với thiên nhiên thì lại hạ thấp giá trị của phụ nữ, khi cho rằng họ
thuộc về những gì hoang da, và thiếu kiểm soát. Nhiều nhà sinh thái học lo ngại rằng việc
ghi nhận trái đất với những đặc điểm của người mẹ sẽ tiếp tục duy trì tư duy thứ bậc có hại
(Wilson, K., 2005) bởi “Sự liên hệ giữa phụ nữ và tự nhiên là một công cụ chính được sử
dụng để áp bức họ”. (Plumwood, V., 1993, tr.19). (xem phụ lục 8).
1.1.3.2. Đặc trưng giải cấu trúc
Giải cấu trúc chủ nghĩa nhị nguyên (Dualism)
Khái niệm nhị nguyên được dùng cho bất cứ một lý thuyết nào xác định sự phân ly
không thể thu hẹp được giữa hai loại sự vật. Sự vận hành của những cặp nhị phân được
thiết lập theo nguyên tắc chính/phụ như: văn hóa/thiên nhiên, lý do/điên rồ (vơ lý), đơ thị
(thành phố)/nơng thơn, nam/nữ, văn minh/ngun thủy, nam tính/nữ tính, con người/động
vật, lý trí/cảm xúc, phổ quát/cụ thể, da trắng/da màu, thượng lưu/hạ lưu,... Từ sự phân chia
này Plumwood cho rằng các thuật ngữ bên trái được hình thành để tạo thành một thế trung
tâm, trong khi các thuật ngữ bên phải đóng góp cho sự hình thành này bị từ chối. Sự khác
biệt, phân cực giữa hai cõi này được thể hiện là một bên giá trị, bên mất giá trị trong đó bên
chính – giá trị thuộc về đàn ơng và bên phụ – mất giá trị thuộc về đàn bà. Helenne Cixous
đa dựa trên thuyết độc tôn dương vật để vạch trần nguyên nhân của việc phân chia thế giới
làm hai trục chính phụ là do các nhà triết học ln chứng minh đàn ơng đứng vào vị trí
trung tâm của tồn bộ hệ thống ngơn ngữ (đàn ơng là người sáng tạo ra ngơn ngữ), nên tồn
bộ hệ thống ngơn ngữ của lồi người dựa trên sự thiết lập của hệ thống ngôn ngữ/triết học
nam giới. Đàn ông bao giờ cũng là nhân tố tiên phong, có vai trò dẫn dắt, chỉ đạo và áp đặt
lên mọi hoạt động của nữ giới, hệ thống quan điểm có đặc điểm chính phụ cũng được thiết
lập từ đó. Trong đó trục chính thuộc về đàn ơng trục phụ thuộc về đàn bà. Trục chính thuộc
về sự quyền uy cao quý (Đàn ông –Trước – Văn minh – Trắng – Ánh sáng – Tốt – Thiện),
trục phụ thuộc về vị trí kém cỏi (Đàn bà – Sau – Hoang da – Đen – Bóng tối – Xấu – Ác).
Sự xuất hiện và trật tự trước sau của những cặp nhị phân này hàm chứa những
tương quan quyền lực giữa cái chiếm ưu thế quyền lực và cái yếu thế bị trấn áp. Trong vế



×