Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Văn học canh tân nửa cuối thế kỉ XIX qua nguyễn trường tộ và nguyễn lộ trạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.84 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC

VĂN HỌC CANH TÂN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX QUA NGUYỄN TRƯỜNG
TỘ VÀ NGUYỄN LỘ TRẠCH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 01/2022


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Trang 2


1. Giới thiệu chung
PGS. TS. Đoàn Lê Giang, viết trong Nguyễn Lộ Trạch – Điều trần và thơ văn, đã
nói về phong trào canh tân tại Việt Nam vào thế kỷ XIX: “Phong trào canh tân thế kỷ
XIX đã đưa ra một câu trả lời mới cho vấn đề chống Pháp, bảo vệ đất nước: chống
Pháp phải gắn liền với canh tân đất nước”. Phong trào đã tập hợp được nhiều trí thức
thơng minh, có tư tưởng mới mẻ. Thế nhưng muốn nói tới khuynh hướng văn học canh
tân thì phải nhắc đến tên cái tên Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch trước tiên
nhất. Theo đó, Nguyễn Trường Tộ là người khởi xướng phong trào canh tân trong bối
cảnh xã hội phong kiến điêu tàn. Sau khi ông mất, Nguyễn Lộ Trạch mới kế thừa con
đường cải cách này của ông. Nguyễn Lộ Trạch là một đại diện xuất sắc, một người có
tư duy chính trị sáng suốt, dẫn đường cho chí sĩ duy tân đầu thế kỷ XX. Vì vậy, nhóm
chúng tơi cho rằng, muốn hiểu về văn học canh tân thế kỷ XIX thì phải tìm hiểu thông
qua văn học của hai nhà cải cách này.



2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và tình hình văn học canh tân nửa cuối thế kỉ XIX
2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha dùng lý do nhà Nguyễn cấm đạo
Thiên Chúa và giết hại nhiều giáo sĩ để tiến hành chiến tranh xâm lược Đại Nam với
phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng. Lực lượng liên quân có khoảng 3.000 quân,
hơn 13 tàu chiến được trang bị tới 50 khẩu đại bác, có sức cơng phá lớn và sát thương
cao. Quân xâm lược lần này là quốc gia đến từ bên kia thế giới có chế độ chính trị,
hình thái kinh tế khác, trình độ phát triển cao, chiến lược và chiến thuật quân sự, vũ
khí hiện đại và khác hẳn kẻ địch đến từ phương Bắc. Do đó, tuy kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh của liên quân Pháp – Tây Ban Nha bất thành nhưng quân ta cũng không
thể đối đầu với chúng theo cách cũ được nữa.
Ngày 17/2/1859, liên quân Pháp – Tây Ban Nha thay đổi mục tiêu xuống phía
Nam, tiến hành đánh chiếm thành Gia Định chỉ trong một ngày, sau đó phá hủy thành
vào ngày 8/3/1859. Năm 1861, Léonard Charner đánh Đại đồn Chí Hịa do Nguyễn Tri
Phương trấn giữ. Đại đồn thất thủ, Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Tuy cuộc
tấn công của thực dân Pháp đã tác động lớn đến tinh thần của nho sĩ và nhân dân cả
Trang 3


nước, ai nấy đều chung tay đánh giặc kể cả những người đã về hưu như Nguyễn Công
Trứ cũng xin đi tòng quân, thế nhưng vẫn thất bại. Năm 1862, triều đình kí Hịa ước
Nhâm Tuất cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Sự phản bội và hèn nhát của
triều đình phong kiến đã đẩy cả đất nước vào thời kì đen tối, vị thế của chế độ phong
kiến bắt đầu bị lung lay khi đã quy phục Pháp, mất đi niềm tin và lòng trung thành của
nho sĩ, nhân dân. Nhân dân tự mình kháng chiến nhưng vẫn khơng cứu vãn được kết
cục Nam Kỳ hồn tồn rơi vào tay Pháp.
Sau khi chiếm Nam Kỳ, Pháp tiến hành đánh chiếm Bắc Kỳ. Năm 1873,
Francis Garnier tiến quân đánh Hà Nội, lan rộng chiến tranh bình định Đại Nam. Năm
1874, triều đình tiếp tục kí Hiệp ước Giáp Tuất có lợi hơn cho Pháp: Pháp trả Ninh

Bình, Bình Định và Hà Nội nhưng triều đình chính thức cơng nhận chủ quyền vĩnh
viễn của Pháp với Nam Kỳ. Năm 1882, Henri Rivière tấn cơng Hà Nội, Hồng Diệu cố
gắng cầm cự, trong khi đa số quân triều đình chạy trốn, nhưng quân Pháp đã tràn vào
thành nên Hoàng Diệu đã tự vẫn. Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, từ đây đã chia triều
đình thành hai phe: phe chủ chiến và phe chủ hòa.
Năm 1884, đứng đầu phe chủ chiến là Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết
chủ trương chống Pháp sau khi phế truất vua Kiến Phúc đã đưa Ưng Lịch hiệu Hàm
Nghi lúc này mới 14 tuổi lên ngôi vua. Năm 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa
vua Hàm Nghi để hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất, lần thứ hai chiếu được hạ bởi vua
Hàm Nghi. Tuy phong trào gây tác động mạnh về tâm lí, có tính nhân dân, u nước,
chuyển từ cách đánh triều đình sang tổ chức dân quân, nhưng kết cục vẫn hoàn toàn
thất bại với phong trào cuối cùng là phong trào Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh
đạo năm 1895.
Nửa cuối thế kỉ XIX, đất nước và dân tộc ta chìm trong chiến tranh, bị triều
đình phong kiến bán đứng, thù trong giặc ngồi. Tình hình này khơng chỉ dẫn đến
những sự thay đổi lớn về bối cảnh đất nước và xã hội mà còn về tư tưởng, đặc biệt là
đối với nho sĩ. Lúc này, họ đứng trước hai con đường: hoặc là tàn lụi cùng với chế độ
phong kiến, hoặc là thay đổi với tư tưởng canh tân. Văn học lúc này đã trở thành một
trong những vũ khí kháng chiến, vẫn với những tính thời sự, phê phán, trữ tình chính
trị, nhưng đã có những sự thay đổi để phù hợp với thời đại đấu tranh vì dân, vì nước,
chống Pháp, tính chất trung đại dần bị từ bỏ. Bên cạnh đó, văn học cuối thế kỉ XIX có
Trang 4


nhiều khuynh hướng văn học như khuynh hướng văn học phong kiến chính thống,
khuynh hướng văn học yêu nước chống Pháp, khuynh hướng văn học thân Pháp,…
Một trong số đó là khuynh hướng văn học canh tân.
2.2. Khuynh hướng văn học canh tân nửa cuối thế kỉ XIX
Khuynh hướng văn học canh tân (khuynh hướng văn học của các nhà canh tân)
xuất hiện sau năm 1862, phát triển rộng rãi sau năm 1874. Khuynh hướng này cũng

thuộc dòng văn học yêu nước. Tuy nhiên, tư tưởng triết học và phương pháp tư duy về
con đường cứu nước có những khác biệt nổi bật là xoáy mạnh vào sự đổi mới, tiếp thu
cái mới, chống Pháp phải gắn liền với canh tân, hiện đại hóa quân đội và mở rộng
quan hệ ngoại giao quốc tế.
Các nhà canh tân cuối thể kỉ XIX là những trí thức Thiên chúa giáo và Nho giáo
nên họ có kiến thức sâu rộng khơng chỉ trong mà ngồi nước, có trải nghiệm thực tế.
Họ nhận thức được sức mạnh của Pháp nhưng không khuất phục, chống Pháp nhưng
khơng bài Pháp, đánh Pháp khơng vì đạo nghĩa; thừa nhận sự yếu kém của quân đội
nước nhà và những tệ nạn đương thời. Do đó, mục đích của các nhà canh tân là tìm ra
những phương pháp chống giặc khả thi, phù hợp với thời đại, kẻ địch mới để có thể
chiến thắng.
Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng văn học này là Nguyễn Trường Tộ,
Đinh Văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh và một số quan
đại thần trong triều đình. Nhưng nổi bật trong các tác giả này chính là Nguyễn Trường
Tộ và Nguyễn Lộ Trạch bởi sự đồ sộ về số lượng tác phẩm và giá trị, ý nghĩa, sự độc
đáo. Hai ơng đã có những đóng góp to lớn cho khuynh hướng văn học canh tân nói
riêng và văn học nước nhà nói chung.

3. Văn học canh tân nửa cuối thế kỉ XIX qua Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ
Trạch
3.1. Nguyễn Trường Tộ
3.1.1. Tiểu sử
Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871), quê ở Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An.
Ông xuất thân trong một gia đình theo Gia Tơ giáo. Cha là Nguyễn Quốc Thứ, một
Trang 5


người hay chữ và cũng là thầy lang có tiếng. Nguyễn Trường Tộ theo học chữ của cha,
đến khi cha ông mất đi thì ông theo học các thầy đồ trong làng. Ơng thơng minh, học
giỏi nên được gọi là “Trạng Tộ”.

Năm 1858, Nguyễn Trường Tộ theo giám mục Gauthier sang Pháp để học tập,
nâng cao kiến thức. Sau hơn hai năm, kiến thức về các mặt khoa học, kĩ thuật, chính
trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật của ông được nâng cao. Năm 1861, ông trở
về nước trong tình thế Gia Định đã bị quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm
đóng. Từ 1863 đến cuối đời, ông viết hàng loạt các bản điều trần, luận văn, tờ bẩm với
tư tưởng canh tân đất nước ở tất cả các mặt như chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa,
giáo dục… với mong muốn dân tộc mình vươn lên giữ nền độc lập vừa vững chắc vừa
khôn khéo. Tiếc rằng triều đình đã khước từ những đề nghị ấy của ơng. Ơng qua đời
vào ngày 10/10/1871 trong niềm tiếc thương của dân chúng đối với một nhân tài có trí
tuệ lỗi lạc vượt xa thời đại thế kỷ XIX.
3.1.2. Tư tưởng
Trăn trở cho hiện thực đất nước lúc bấy giờ, cùng với cách tư duy sắc sảo vượt
lên thời đại và được thôi thúc bằng ngọn lửa u nước cháy bỏng, q trình tiếp xúc
với văn hóa phương Tây đã khiến Nguyễn Trường Tộ có nhiều tư tưởng táo bạo. Ơng
mạnh dạn trình bày tư tưởng canh tân đất nước của mình thơng qua 60 bản điều trần
gửi lên vua Tự Đức. Trong các bản điều trần của mình, ơng đã đề cập đến hầu hết các
lĩnh vực của đời sống:
Cải cách chính trị: Tinh giản bộ máy hành chính, tuyển chọn quan lại dựa vào
năng lực nghề nghiệp thực tế, thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa, thực hiện chính
sách tự do tơn giáo. Từ đó, củng cố lịng dân và khả năng quản lý đất nước, tranh thủ
sự ủng hộ của nước ngoài để củng cố chính quyền.
Cải cách quân sự: Sửa đổi lại phương pháp tuyển binh, huấn luyện chiến thuật,
kĩ thuật chiến đấu, trang bị vũ khí hiện đại, có chính sách đãi ngộ hợp lý với binh sĩ,...
nhằm nâng cao sức chiến đấu của binh sĩ và sức bảo vệ của quân đội.
Cải cách giáo dục: Thay đổi lối học khoa cử đơn thuần về chính trị, đạo đức xa
rời thực tế bằng các phương pháp gắn liền với thực tiễn, ứng dụn. Áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật theo mơ hình giáo dục của các nước phương Tây.
Trang 6



Trong tất cả những điều trên, Nguyễn Trường Tộ chú trọng nhất là canh tân
giáo dục vì ơng quan niệm: “Học tập và bồi dưỡng nhân tài là con đường rộng lớn để
đi đến giàu mạnh”.
Tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ thể hiện một tư duy mới, đáp ứng nhu cầu
lịch sử đang đặt ra cho dân tộc trong thời kỳ canh tân. Hệ thống đề nghị của ông được
dự tính thực hiện bằng việc khuyến khích thương mại, tiểu thủ công nghiệp phát triển,
chú trọng khai thác các nguồn lực tự nhiên và xã hội như khai mỏ, lâm nghiệp, các
nguồn nhân lực nhằm phú quốc, tự cường, phát triển đất nước.
Cơ sở dẫn tới tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ là cách nhìn đúng đắn
về nội dung bản chất và xu hướng của thời đại mới. Ông đã vượt qua được cái nhìn
của Nho giáo và hiện thực của Việt Nam lúc đó với nền tảng kinh tế nơng nghiệp thuần
túy và thiết chế chính trị chuyên chế, nền giáo dục còn lạc hậu để hướng tới một đất
nước Việt Nam hiện đại hơn, tiến bộ hơn, ngang tầm với các quốc gia đang phát triển.
3.1.3. Phong cách sáng tác
Về thơ: Nguyễn Trường Tộ làm thơ chữ Hán, không làm thơ tiếng Tây, dù ông
rất thạo Pháp ngữ. Ơng cũng khơng làm thơ chữ Nơm. Tuy đầu óc ơng thực tế nhưng
khơng khơ khan mà lại sở hữu một hồn thơ lai láng như các nhà Nho thời xưa. Đối với
Nguyễn Trường Tộ, văn chương là một thứ di dưỡng tinh thần, điểm chút phong lưu
cho cuộc đời của ông. Thơ của Nguyễn Trường Tộ làm theo thể thất ngôn bát cú
Đường luật như hầu hết thơ của các cụ xưa, lời cô đọng, chữ nghĩa đối nhau.
Có lẽ do trăn trở về những vấn đề thời cuộc mà thơ của Nguyễn Trường Tộ có
tâm sự buồn. Tâm sự của ông cũng là tâm sự của hàng triệu người Việt Nam khác:
buồn vì vận nước suy vong, có tài mà khơng dùng được, khơng thể khai sáng cho
người cai trị đang bị u mê, muốn cứu nước giúp dân nhưng lại bị gạt ra ngoài.
Về văn xuôi: Văn xuôi của Nguyễn Trường Tộ thể hiện ông là một người có đầu
óc thực tế, các sáng tác có tính ứng dụng cao, phù hợp với tình hình thực tế lúc bấy
giờ. Để làm được điều ấy, ngoài giá trị nội dung, văn phong của ơng cịn phải vơ cùng
sáng rõ, các lập luận được trình bày logic, chặt chẽ. Đơn cử ở các bản điều trần,
Nguyễn Trường Tộ đã bộc lộ được vốn kiến thức uyên bác, sâu sắc mà ơng tích lũy
được trong q trình học ở nước ngồi. Nhiều tờ trình canh tân đất nước, trên một

Trang 7


quyết sách chống ngoại xâm, Nguyễn Trường Tộ đã minh chứng được một đầu óc sáng
suốt, một tinh thần can đảm, quyết nói thẳng, nói hết những điều mình suy nghĩ mà
khơng sợ “khi qn” vì sự tồn vong và hưng thịnh của đất nước. Tinh thần yêu nước
nồng nàn đã thúc giục ơng phải dùng ngịi bút của mình làm nên điều gì đó góp phần
canh tân, xây dựng lại đất nước ổn định, lớn mạnh hơn.
3.1.4. Tác phẩm
Nguyễn Trường Tộ là một nho sĩ có kiến thức uyên bác, tầm nhìn rộng mở, nên
trong suốt cuộc đời của mình, ơng đã khơng ít lần trình lên vua và triều đình những
bản điều trần với mong muốn canh tân, cải tổ đất nước. Nội dung những bản điều trần
ấy xoay quanh các biện pháp cụ thể để giúp đất nước đổi mới, phát triển tồn diện hơn
để có tiềm lực chống lại giặc ngoại xâm. Chẳng hạn như trong bản điều trần số 27 Tế
cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đã bàn đến mức độ cần thiết của khoa luật đối với sự
nghiệp canh tân đất nước. Nội dung chủ yếu của bài điều trần này nói đến vai trò của
pháp luật đối với xã hội, với đạo đức. Nó cịn đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa
pháp luật và nhà nho.
Ngồi phương diện kinh tế, chính trị thì các bản điều trần của Nguyễn Trường
Tộ ít nhiều cũng đề cập đến các lĩnh vực khác như văn chương và lý luận vô cùng xuất
sắc như bài điều trần số 10 Thảo thư gởi Tây Soái, số 47 Về việc cải cách phong tục,
số 50 Về việc chỉnh đốn qn đội và quốc phịng. Có một khoảng thời gian, ơng bị
triều đình nghi ngờ, nên các bài điều trần được viết trong giai đoạn này có điểm nịnh
nọt, phân trần, có khi lại mang tính chất thăm dị tâm ý của triều đình như các bài số
40 Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định, bài số 51 Cần nắm vững tình hình chính trị
ở Pháp, bài số 52 Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao,…
Ngoài các bài điều trần tiêu biểu được kể đến ở trên thì cịn có:
- Năm 1861: Hồ từ
- Năm 1863: Tế cấp luận, Giáo môn luận, Điều Trần, Thiên hạ phân hợp đại thế luận
- Năm 1864: Lục lợi từ

- Năm 1866: Điều trần khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông, Kế hoạch vận động ở
Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây, Báo cáo về việc gặp viên Lãnh sự Tây Ban Nha, Kế ly
gián giữa Anh và Pháp, Điều trần về hội nước ngoài
Trang 8


- Năm 1867: Phúc trình về việc ký hợp đồng với các hội nước ngoài
- Tháng 8/1868: Về tám điều cần bàn gấp, Điều trần về việc tiểu trần giặc biển
- Năm 1869: Điều trần về việc tái tu võ bị
- Tháng 11/1870: Kế hoạch nội cơng ngoại kích thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ, Bổ sung kế
hoạch sai sứ đi Tây và đánh úp Gia Định
- Tháng 2/1871: Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Kế hoạch
thương nghị với Pháp và vận động sự giúp đỡ của các nước khác, Kế hoạch vay tiền
để dùng vào việc binh, Về việc gửi học sinh sang Singapore học sinh ngữ
- Năm 1871: Về việc nhờ Giám mục Hòa giúp lấy lại 6 tỉnh, Tu võ bị (bàn về việc
chỉnh đốn quân đội và quốc phòng), Về việc cần canh tân, quảng giao để giữ nước,....
3.1.5. Đóng góp
Nguyễn Trường Tộ là một nhà thơng thái, một chính trị gia có đầu óc thực tế.
Từ lâu, ơng đã ấp ủ trong đầu mình một khát vọng canh tân đất nước. Điều đó được
thể hiện rõ ràng qua số lần trình điều trần lên cho triều đình Huế. Trong suốt hơn 40
năm cuộc đời của mình, ơng đã trình lên khoảng 58 điều trần về cải cách đất nước. Nội
dung trong những đề nghị đổi mới đất nước của ông rất đầy đủ và bao quát. Tất cả các
vấn đề từ kinh tế, chính trị cho đến văn hố, xã hội đều được Nguyễn Trường Tộ đề
cập đến một cách tỉ mỉ và chi tiết. Tuy nhiên, cho đến khi qua đời thì khát vọng cải
cách, canh tân đất nước của ơng vẫn khơng được thực hiện, nhưng nó vẫn để lại bài
học đắt giá cho sự nghiệp đổi mới đất nước sau này.
3.2. Nguyễn Lộ Trạch
3.2.1. Tiểu sử
Nguyễn Lộ Trạch (1853 – 1898), tự Tổn Tu, Hã Nhân, hiệu Kỳ Am, Hồ Thiên
Cư Sĩ, Bàn Cơ Điếu Đồ, Tùng Linh. Quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Xuất

thân trong một gia đình khoa bảng, cha là Nguyễn Quốc Oai giữ chức Thượng Thư bộ
Hình.
Thuở nhỏ, ơng nổi tiếng thông minh, tài giỏi nhưng lại không ham lối từ
chương nên không đi thi. Là người ham đọc sách, đi nhiều. Năm 20 tuổi, ông kết hôn
với con gái của Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành.
Trang 9


Nguyễn Lộ Trạch thường giao du với những người có tư tưởng tiến bộ, chấp
nhận cái mới. Từ năm 25 tuổi, ông đã tiếp nối con đường canh tân chống Pháp của
Nguyễn Trường Tộ mà gửi lên triều đình các bản điều trần Thời vụ sách thượng
(1877), Thời vụ sách hạ (1882) gồm 5 điều cốt yếu để bảo vệ đất nước, Thiên hạ đại
thế luận (1892)… Thế nhưng tất cả đều khơng được triều đình nhà Nguyễn phê duyệt
thực hiện.
Về sau, Nguyễn Lộ Trạch rút về ở ẩn, nhưng ơng vẫn rất lưu tâm đến việc nước.
Ơng đau lịng, làm thơ nói lên tấm lịng ưu ái của mình. Ơng dùng chính văn từ của
mình để xem người, tìm cách kết giao với những người tài giỏi như Tiến sĩ Chu Mạnh
Trinh, Đệ nhị giáp Tiến sĩ Nguyễn Thượng Hiền,…
Năm 1859, ơng có dự định xuất dương nhưng khơng thành. Ơng đã trút hơi thở
cuối cùng của mình ở Bình Định với những mộng lớn giúp nước cịn dang dở. Nguyễn
Lộ Trạch mất vào ngày 27 tháng Giêng năm Mậu Tuất (17/2/1898).
3.2.2. Tư tưởng
Là người tiếp nối tư tưởng cải cách tiến bộ của Nguyễn Trường Tộ và còn là
người thông minh, am hiểu nên Nguyễn Lộ Trạch rất rõ tình thế của đất nước. Hịa hay
chiến trong hồn cảnh đó đều khó khăn và khơng thể ngăn cản được âm mưu xâm lược
của thực dân Pháp. Chỉ có canh tân đất nước, làm cho đất nước hùng cường thì mới
mong giành lại độc lập. Đó cũng là xu thế mới xuất hiện nửa sau thế kỷ XIX mà
Nguyễn Lộ Trạch là một nhân vật tiêu biểu của xu thế này.
Xuất thân trong gia đình quan lại phong kiến, nhưng ơng khơng màng thi cử
làm quan, thay vào đó là dành thì giờ “xơi kinh nấu sử” cho việc nghiên cứu, tìm hiểu

tình hình chính trị và những tri thức văn hóa mới trên thế giới. Ơng sớm tiếp thu các
điều trần của Nguyễn Trường Tộ và tân thư của Trung Quốc. Có lẽ, tư tưởng canh tân
của Nguyễn Lộ Trạch đã hình thành từ đây.
Ơng bắt đầu cơng khai tư tưởng tiến bộ của mình từ năm Đinh Sửu, 1877. Nối
gót Nguyễn Trường Tộ và một số trí thức tiến bộ khác, Nguyễn Lộ Trạch lúc mới 25
tuổi đã dâng lên triều đình đứng đầu là vua Tự Đức bản điều trần đầu tiên. Đặt tên cho
điều trần của mình là Thời vụ sách (thượng), ơng đã vạch rõ mưu kế giả vờ hòa nghị
của thực dân Pháp, đồng thời khuyên triều đình nên gấp lo “tự cường tự trị” để cứu
Trang 10


nước. Mặc dù khơng được triều đình quan tâm đến, nhưng Thời vụ sách thượng đã gây
được tiếng vang lớn trong giới sĩ phu.
Tháng 4/1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2. Nguyễn Lộ Trạch
dâng bản Thời vụ sách hạ, nêu lên sách lược cứu nước khẩn trương gồm 5 điều. Song
lần này, triều đình nhà Nguyễn cũng vẫn làm ngơ trước các đề nghị của ông.
Tháng Giêng năm Giáp Thân (1884), Phụ chính Nguyễn Văn Tường mời ông
và Phạm Phú Đường (con trai Phạm Phú Thứ) đến kinh đô Huế bàn việc nước. Để
nhắc lại lần nữa những luận điểm cơ bản trong kế sách chống ngoại xâm của mình, khi
trở về, Nguyễn Lộ Trạch đã thảo một bức thư có tên là Dữ Phạm Phú Đường thướng
Phụ chính đại thần (Thư đứng tên cùng Phạm Phú Đường gửi Phụ chính đại thần), rồi
dâng lên ơng Tường.
Năm 1892 dưới triều Thành Thái lại có kỳ thi Hội ở Huế. Tuy không đi thi,
nhưng nhân đầu đề hỏi về “đại thế hồn cầu”, ơng cũng viết một bài luận có tên là
Thiên hạ đại thế luận (Bàn về thế lớn trong thiên hạ) để bàn về tình thế các nước Á
Đơng trước nguy cơ thơn tính của một số nước ở Phương Tây. Ông viết bài luận này
cốt để khơi gợi cho vua Thành Thái và các quan đầu triều gấp lo phục hưng đất nước.
Khi được cơng bố, nó đã gây được tiếng vang rộng rãi, được đơng đảo sĩ phu và những
người có tư tưởng cách tân tìm đọc và tán thưởng, trong số đó có Phan Bội Châu,
Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Phạm Hàm, Trương

Gia Mô,...
Tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Lộ Trạch được thể hiện một cách sâu
sắc, chủ yếu thông qua ba bản điều trần: Thời vụ sách thượng, Thời vụ sách hạ và
Thiên hạ đại thế luận. Sự mới mẻ trong tư tưởng thể hiện qua các chủ kiến, trên cái
nền đất nước lâm nguy và có phần lạc hậu, đã chứng tỏ cho sự phá cách trong việc
cách tân đất nước ở thế kỉ XIX lúc bấy giờ của Nguyễn Lộ Trạch. Tư tưởng sáng suốt,
hợp thời của ông đã tác động không nhỏ đến thế hệ trí thức và một số tầng lớp yêu
nước lúc bấy giờ và cả thế hệ sau đó. Có thể nói, những tư tưởng chính trị sáng suốt
của Nguyễn Lộ Trạch là sự nối tiếp cho tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn
Trường Tộ. Không những vậy, tư tưởng của ơng có phần hợp thời, đáp ứng nhu cầu
thực tế của xã hội và đất nước lúc bấy giờ. Nói như vậy để thấy rằng tư tưởng của con
người yêu nước này thực sự có giá trị và tiến bộ bền lâu.
Trang 11


3.2.3. Tác phẩm
Điều trần:
Sáng tác nổi tiếng của Nguyễn Lộ Trạch có Quỳ ưu lục là một tập tổng hợp các
điều trần do tự tay ông sắp xếp, tự viết bài tựa đề ngày 16 tháng 9 năm Giáp Thân
(1884) và lời đề cuối. Tập sách này bao gồm các bài luận Thời vụ sách thượng, Thời
vụ sách hạ và Thiên hạ đại thế luận. Không xuất dương như Nguyễn Trường Tộ,
nhưng ông đã tự học hỏi và kế thừa từ thế giới, có cái nhìn khác biệt với những đổi
mới, kỹ thuật khoa học của phương Tây. Bằng một khối óc uyên bác, tư tưởng cách tân
mới mẻ và tiến bộ, Nguyễn Lộ Trạch đã thẳng thắn nêu lên những quan điểm mang
tính chính trị thiết thực đối với tình hình xã hội lúc bấy giờ: Trình bày tình hình “tiến
thối lưỡng nan” của dân tộc ta trước kẻ thù xâm lược hùng mạnh, đặt lực lượng quân
Pháp và quân ta lên bàn cân so sánh để rồi vạch ra những hạn chế, yếu kém trong việc
điều hành quốc gia của triểu đình nhà Nguyễn. Và nổi bật nhất là những phương sách
hành động tích cực để cứu vãn tình thế của ơng.


• Thời vụ sách thượng (1877)
Năm Đinh Sửu Tự Đức thứ 30 (1877), tức là sau Hòa ước Giáp Tuất có ba năm,
thời điểm đó vua Tự Đức đang tự mãn vì được Pháp trả lại 4 tỉnh Bắc Kỳ, trong khi
phải giao cho giặc cả 6 tỉnh Nam Kỳ và cúi đầu chịu sự kiểm soát chặt chẽ về ngoại
giao của Pháp. Chính thái độ này đã dấy lên khơng ít niềm căm phẫn của những bậc trí
thức u nước. Vì vậy, nhân cớ kỳ thi Hội cùng năm có lấy chuyện “Sứ Pháp vào
chầu, hịa hiếu hợp lễ” làm đề, Nguyễn Lộ Trạch đã dâng lên triều đình bản Thời vụ
sách thượng vạch rõ mưu kế giả vờ hòa nghị của thực dân Pháp, đồng thời đề nghị
triều đình nên “gấp rút lo tự cường tự trị” để cứu nước. Người thanh niên lúc ấy đã
dũng cảm nói lên sự thật và phê phán tư tưởng ngộ nhận của vua Tự Đức và phái chủ
hòa. Nội dung chủ yếu của Thời vụ sách thượng là cuộc tiến cơng vạch trần ảo tưởng
cầu hịa vơ điều kiện vì đó là nguy cơ lớn nhất làm tê liệt tinh thần cảnh giác và hậu
quả tai hại sẽ khơng tránh khỏi.
Nguyễn Lộ Trạch khơng bài xích hịa, mà ông nhận thức được rằng trong tình
thế cuộc chiến không cân sức với qn đội Pháp thì cần có hịa bình để bồi bổ sức lực,
xây dựng lực lượng, chuẩn bị khi thời cơ đến để giành chiến thắng. Hòa theo quan
Trang 12


niệm của ông là một cách kéo dài thời gian hiệu quả cho nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ
yếu tố để sau này mở ra những trận phản công kịp thời, bài bản để chống giặc, chứ
không phải đường lối chủ hịa vơ điều kiện, hịa mà khơng chiến của vua Tự Đức.
Một nét đặc sắc của Thời vụ sách thượng là nêu lên được mối quan hệ tương hỗ
giữa chiến - thủ - hòa rất đứng đắn. “Chúng mạnh thì ta thủ, chúng yếu thì ta chiến,
chiến và thủ hỗ trợ nhau, bộ thủy cũng nương tựa nhau. Chúng lâu khơng thắng được,
tất phải giảng hịa thơng thương, bấy giờ quyền chủ động thuộc về ta”. Có thể nói
quan điểm chiến lược của Nguyễn Lộ Trạch lúc này là chiến để thủ, và trên cơ sở thủ
vững chắc mới có thể thực hiện chữ hịa theo cách quyền nghi, tức là hịa để tự cường
tự trị.
Trong tình hình hiện tại, xét đơn thuần về quân đội và vũ khí thì có sự chênh

lệch q xa giữa địch và ta. Nguyễn Lộ Trạch chủ trương khắc phục chênh lệch đó
bằng cách học lấy cái sở trường của địch, tức là tàu và súng để hiện đại hóa quân đội ta
“làm cách nào cho thế và lực ngang với họ”. Thế nhưng kế sách đó vẫn vấp phải quan
điểm cổ lỗ của nhà Nguyễn.
Các đề xuất của ông tuy không được thực hiện như ý muốn nhưng đã có tác
động đến dư luận xã hội và triều đình. Triều đình đã cử 112 thiếu niên sang học tập ở
các trường kỹ thuật của người Anh ở Hương Cảng, sai sứ sang Trung Quốc, Thái Lan,
rồi dự định mở trường kỹ thuật ở Huế... Nguyễn Lộ Trạch cũng được cử đi Hương
Cảng học kỹ thuật nhưng tiếc là chuyến đi không thành.

• Thời vụ sách hạ (1882)
Vào tháng 4/1882 (năm Nhâm Ngọ Tự Đức thứ 35), thực dân Pháp đánh thành
Hà Nội lần thứ 2, rồi tấn công Nam Định. Anh rể của Nguyễn Lộ Trạch là Quang Lộc,
tự khanh Lê Phan Khê (Lê Đại) đã gợi ý ông viết một bản điều trần để hiến kế cứu
nguy. Thời vụ sách hạ được dâng lên triều Nguyễn với mục đích tiếp tục vạch trần bản
chất độc ác, nham hiểm của thực dân Pháp và phê phán kịch liệt sự bạc nhược, cầu an
của triều đình và trách nhiệm của họ đối với vận mệnh của đất nước.
Ở thời điểm đó, tình hình đất nước ta đã có sự biến chuyển, hịa cuộc coi như
khơng cịn, chiến tranh bùng lên dữ dội ở các tỉnh Bắc Kỳ. Phe chủ hịa vỡ mộng,
khơng còn dám khoe khoang phép lạ làm cho “thiên hạ tự nhiên vô sự… không phải lo
Trang 13


lắng gì” như trước, nhưng lại chỉ “ngồi nhìn mà than thở, bng xi bất lực” mà thơi.
Cịn phe chủ chiến, có người lại liều lĩnh định “thu thập tàn lực quyết chiến một phen”.
Nguyễn Lộ Trạch phê phán cả hai loại chủ trương sai lầm ấy. Để đối phó với tình hình
cực kỳ khó khăn, ơng đề nghị 5 biện pháp tích cực có tính chất cứu nguy:
1. Dựa vào địa thế hiểm yếu để giữ vững gốc nước.
2. Tích lũy tiền gạo để có đủ lương thực.
3. Huấn luyện binh lính để có đủ binh lực.

4. Học kỹ thuật để chống giặc.
5. Ngoại giao rộng rãi để nhờ ủng hộ.
Trước tiên, ông đề nghị dời kinh đô từ Phú Xuân, Huế về Thanh Hóa, lấy chỗ
địa thế hiểm yếu để giữ vững gốc nước. Thanh Hóa có những lợi thế về kinh tế, chính
trị, quân sự trong thời chiến mà “người dựng kinh đơ ngày xưa từng nói: địa thế bốn
mặt có quan ải; qn lính trăm vạn; đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, trong ba điều ấy
nếu thiếu một thì khơng thể được”. Đề xuất này cho thấy tầm nhìn sáng suốt và táo bạo
của Nguyễn Lộ Trạch về tầm quan trọng của căn cứ đầu não trong cuộc chiến chống
thực dân mà chưa có nhà cải cách nào đương thời từng nêu lên.
Biện pháp thứ hai được đề cập tới là làm đồn điền – biện pháp kinh tế quen
thuộc vốn đã được Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Xn Ơn… đề nghị
trước đó để tăng nguồn lương thực ni qn trong hồn cảnh chiến tranh. Nguyễn Lộ
Trạch đưa ra những phương pháp tiến hành đồn điền như vốn liếng, trâu bị, nơng cụ,
địa điểm khai khẩn… và đặc biệt, lưu tâm đến quyền lợi của người lao động, tìm cách
khắc phục những tệ lậu trong khi làm đồn điền. Bên cạnh đó, ơng cịn đề xuất việc
thông thương để làm giàu đất nước. Ý nghĩa của việc thơng thương cịn vượt ra khỏi
chuyện bổ sung ngây quỹ, như Nguyễn Lộ Trạch viết: “Đây chỉ là cứu chữa việc gấp
gáp nhất thời mà ta tạm quyền biến. Nhưng xem chuyện biến đổi trong hoàn cầu, thì
các nước thường mượn tiếng thơng thương mà đi khắp nơi dị xét tình hình để bổ sung
cái mình cịn thiếu sót”.
Tiếp theo, Nguyễn Lộ Trạch bàn đến cải cách quân đội, trang bị lại vũ khí và tổ
chức tập luyện, mà cụ thể là bàn sâu vào bộ binh – thế mạnh bao lâu nay của quân đội
ta. Trong đó, sự tinh nhuệ là điều mà ơng hết sức nhấn mạnh trong cách thức tổ chức
Trang 14


lực lượng quân đội. Ông chủ trương chia quân đội ra làm 3 loại, có tiêu chuẩn đãi ngộ
rõ ràng, sử dụng đúng theo khả năng và đối tượng tác chiến.
“Số cường tráng thì đưa lên thượng quân, mỗi tháng cấp 2 phương gạo, 5 quan
tiền, ra chiến đấu thì được tăng lên gấp nhiều lần, bắt ngày đêm tập luyện, dùng làm

qn xung kích chiến đấu.
Số kế đó mỗi người hàng tháng được cấp 1 phương rưỡi gạo, 3 quan tiền, cũng
bắt luyện tập chuyên cần, để làm việc canh phịng và thay phiên cho lính thú các tỉnh.
Đấy là việc huấn luyện quân trung đẳng.
Số còn lại biên chế làm hạ quân, mỗi tháng cấp một phương rưỡi gạo, 2 quan
tiền, chuyên để bổ sung cho nơi bị thiếu qn tuần thú và cơng tác nơi cấm đình hay
các nơi xây dựng đồn binh.”
Ngoài ra, trang bị vũ khí khí phải ln là điều kiện cần của một đội binh tinh
nhuệ. Ông xin bỏ hết súng kiểu cũ của ta là súng điểu sang “vụng về, thô nặng, chậm
chạp, khó mang theo, mà lỗ châm ngịi nghiêng, tro và thuốc đạn lẫn lộn” đổi sang
súng kiểu mới của phương Tây – súng hỏa sang “giúp mang nhẹ bắn nhanh, tiện lợi
cho việc hành quân đường xa”.
Mục thứ tư trong Thời vụ sách hạ là đưa người tài ra nước ngoài học kỹ thuật
phương Tây để chống giặc. Những nhà Nho chính thống lúc bấy giờ hầu hết đều
khơng tán thành học kỹ thuật phương Tây bởi lẽ ở cái quan điểm lạc hậu, phản tiến
hóa của Nho giáo. Dù cho bị thua liên tiếp dưới vũ khí lợi hại của Pháp, nhưng vua Tự
Đức lẫn triều đình vẫn không phục kỹ thuật của Tây Dương, đặc biệt là những gì liên
quan tới Pháp. Quả thật, tính bảo thủ của văn hóa Nho giáo đã cản trở bao nhiêu thế hệ
trong việc tìm tịi học tập khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Để xác lập cái nhìn
mới về khoa học kỹ thuật phương Tây cho triều đình, Nguyễn Lộ Trạch đả phá quan
niệm chuộng hư danh mà coi nhẹ thực học vốn đã ăn sâu trong đầu óc nhiều người
nước ta thời ấy. Đồng thời, ơng còn đề cao người đi học khoa học kỹ thuật: địi hỏi
phải có chính sách khuyến khích, ưu đãi thích đáng đối với những cá nhân được chọn
đi học, và tất nhiên người được cử đi phải là người thông minh, tài giỏi thì mới có hiệu
quả được.

Trang 15


Cuối cùng, Nguyễn Lộ Trạch đề nghị nước ta mở rộng ngoại giao rộng rãi với

các nước phương Tây, nhất là nước Phổ và Anh để kiềm chế Pháp như cái lối “hợp
tung thời Chiến quốc”. Chủ trương này đã khơng có ít nhà cải cách từng đề xuất nhưng
vì trái ngược với chính sách “bế mơn tỏa cảng” của nhà Nguyễn và cũng vì triều đình
cịn bị Pháp hạn chế quan hệ với bên ngoài nên đều đã bị bác bỏ hết. Nhưng bằng việc
nắm bắt khá chắc tình hình thế giới, Nguyễn Lộ Trạch đã đưa ra những luận điểm sắc
bén, rõ ràng về vai trò quan trọng của ngoại giao trong tình thế hiện giờ, đồng thời
“rào trước” những thắc mắc, hoài nghi về độ tin cậy của chủ trương này bằng lời giải
thích xác đáng, chẳng hạn như:
“Nhưng làm theo cách đó thì sẽ có người cười là ‘ngăn hổ cửa trước, rước sói
cửa sau’. Chỉ trích như vậy là họ chỉ bám chặt lấy thành kiến mà khơng xét đến tình
hình Tây Dương hiện nay. Vả lại Anh, Phổ đang thèm thuồng miếng mồi Trung Quốc,
rồi Ấn Độ là kho ngoài của nước Anh, hàng năm thu hóa tệ cịn chưa rảnh tay. Huống
chi ta, họ coi thường ta nghèo nàn mà lại tính động ngón tay trỏ sao? Ta nên giao
thiệp thân thiết và hậu hĩnh với họ, khiến họ vui lòng chịu giúp đỡ, thế thì Anh, Phổ
chỉ tốn một mảnh giấy mà người Pháp đã phải cúi đầu nghe lệnh. Bằng không, thì họ
cử vài chiếc tàu kéo thẳng tới ngăn cửa Địa Trung Hải, tàu Pháp không thể bay lên để
vượt qua. Vậy là hai nước ấy cần gì phải mệt nhọc đưa quân đi xa vất vả đến tận nước
ta mà bảo là có mối lo ‘rước sói’? Cũng như trước kia quân tiếp viện của Pháp chưa
từng phải vào thủ đô nước Mỹ để chặn bàn tay người Anh, mà chỉ cần phơ trương
thanh thế bên ngồi thì qn Anh đã biết khó khăn mà tự rút lui.”
Một người xuất thân từ Nho học, chân chưa từng bước ra khỏi biên giới nước
mình như Nguyễn Lộ Trạch nhưng đã có tầm nhìn sáng suốt về thế giới khi biết lợi
dụng mâu thuẫn giữa các nước cường quốc phương Tây để các nước kiềm chế lẫn
nhau. Ngoại giao mà ông nói tới ở đây khơng phải là cầu viện qn nước khác tới cứu
giúp mà chỉ cần thanh thế các nước đối nghịch với Pháp, hạn chế Pháp cho ta.
Kiến nghị là thế nhưng nhà chiến lược Nguyễn Lộ Trạch vẫn tỉnh táo nhấn
mạnh ở sự tự cường tự trị của quốc gia, chỉ khi sự tự lập đất nước đủ vững chắc thì
mới có thể nhờ đến sự giúp đỡ từ bên ngồi. Điều này cũng từng được ơng nói đến
trong Nhâm Ngọ niên nhị nguyệt thướng chấp chính thư:


Trang 16


“… Muốn cầu ngoại viện trước hết phải tự cường tự trị để làm cho cái gốc
vững chắc, rồi mới mượn tạm cái thế của họ để bổ sung vào chỗ sức ta chưa đủ mà
thôi. Nếu ta thực biết tự cường tự trị thì họ sẽ nhận mình thân thiện mà sẽ thân thiện
với mình, làm sao lại có lỗi lo sợ ‘rước sói’ được. Khơng như thế mà chỉ mải mê vui
chơi, lười biếng trễ nải, thì dầu cho có hàng ngàn trăm ngoại viện, thực có đủ để
nương cậy không?”
Tựu trung, so với Thời vụ sách thượng thì những biện pháp trong Thời vụ sách
hạ bao quát hơn, cụ thể hơn và có thể tiến hành ngay. Giải pháp này không chỉ giải
quyết những vấn đề cụ thể trước mắt mà cịn có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Dẫu vậy,
các đề nghị của Nguyễn Lộ Trạch một lần nữa vẫn khơng được triều đình nhà Nguyễn
chấp thuận thực hiện.

• Thiên hạ đại thế luận (1892)
Năm 1892, dưới triều Thành Thái, kỳ thi Hội ở Huế có hỏi về “đại thế hồn
cầu”. Khơng đi thi nhưng Nguyễn Lộ Trạch cũng viết một bài luận có tên là Thiên hạ
đại thế luận bàn về tình thế Việt Nam và các nước Á Đơng trước nguy cơ thơn tính của
Phương Tây, dự báo tình hình và đề ra các biện pháp ứng phó, thể hiện một cách có hệ
thống tư tưởng của ông.
Nguyễn Lộ Trạch chủ trương đất nước phải canh tân theo xu thế chung của thế
giới, muốn giữ được nước thì phải tự cường, phải có nền chính trị - giáo dục hiện đại:
“Sự cịn mất của quốc gia là do chính trị - giáo dục chứ khơng phải do mạnh - yếu,
lớn - nhỏ, chính trị - giáo dục được sửa sang cất cử thì dầu nhỏ yếu cũng chưa thể mất
được”.
Thiên hạ đại thế luận trình bày cái “đại thế” của tồn cầu nói chung, trong đó
tập trung phân tích thế lực của các đế quốc tại châu Á. Ông chỉ ra rằng các nước
phương Tây ngày nay đã có những căn cứ quân sự và cơ sở hậu cần trên những vùng
đất châu Á mà nó chiếm được, cho nên Trung Quốc và cả châu Á đều nằm trong tầm

kiểm soát của các cường quốc phương Tây.
Bất ngờ hơn cả là việc ông tiên đoán được đường lối duy tân Nhật Bản đang
theo đuổi hiện giờ sẽ giúp họ sẽ trở thành một cường quốc hùng mạnh, một hiểm họa

Trang 17


của Trung Quốc: “Nhật Bản thì mỗi ngày mỗi tiến mau chóng, thế nhưng Nhật Bản
mạnh thì mối lo của Trung Hoa chẳng phải ở Tây Dương mà chính là ở đây vậy”.
Nguyễn Lộ Trạch tiếp tục phân tích cái “thế” mâu thuẫn giữa các nước đế quốc,
thấy trước được sự đối đầu cam go của Pháp với Phổ và tranh giành thuộc địa với Anh,
nhờ đó mà ta có thể tìm ra con đường tự cứu lấy mình. Dù ông thừa biết sự cổ hủ, hèn
nhát mà không có hành động thiết thực nào cho đất nước của triều đình nhà Nguyễn,
nhưng đó vẫn là sự lựa chọn duy nhất để mà ơng khuyến khích họ, đánh tan tâm lý thất
bại chủ nghĩa, khuyên họ kiên trì chuẩn bị về mọi mặt chờ thời cơ.
Một nhận định bất ngờ khác của Nguyễn Lộ Trạch ở cuối bài luận khi ông thấy
được rằng việc các nước phương Tây đi xâm chiếm, khai thác nước người để làm giàu
sẽ có một tác động ngược lại là khiến cho nước ấy tiến bộ, cường thịnh lên. Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Thái Lan và một số nước khác là những dẫn chứng cụ thể cho lập luận của
ông: “Xem cái ‘lý’, xét cái ‘thế’, kịp thời sửa sang chính trị - giáo dục để khơng phụ
lịng mong mỏi của nhân dân. Đó là điều hy vọng ở những bậc quân tử tương lai trong
nước”. Lập luận này cho thấy tầm nhìn của nhà chiến lược là ở chỗ coi trọng mở mang
dân trí, hướng tới nền văn minh hiện đại. Quan niệm này ta sẽ thấy ở chủ trương dựa
vào Pháp để khai dân trí ở một số nhà duy tân đầu thế kỷ XX, mà tiêu biểu là Phan
Châu Trinh.
Thiên hạ đại thế luận là một tư tưởng mới, tiến bộ về con đường phát triển đất
nước vượt xa tầm tư duy chính trị của số đông người đương thời. Tiếc rằng bài luận
này chỉ được ông gửi cho Nguyễn Thượng Hiền và trở thành một tài liệu “lưu truyền
nội bộ” trong giới sĩ phu yêu nước.
Thơ văn:

Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Lộ Trạch gồm các tác phẩm phần lớn viết bằng
chữ Hán như Kỷ trào lục (Tự nhạo mình như người nước Kỷ), Kỳ Am dã thoại
(Những lời quê mùa của Kỳ Am), Kỳ Am thi văn toàn tập, Quốc ngữ thị phụ giai ẩn
từ (Bài ca quốc ngữ khuyên vợ cùng đi ẩn). Song phần lớn thơ văn trên đều đã thất lạc,
ngoại trừ tập Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch di văn (Những bài văn còn lại của Kỳ Am
Nguyễn Lộ Trạch) còn lưu trữ trong Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, bao gồm cả Quỳ ưu lục, thư từ, một số bài thơ và toàn văn
bài Thiên hạ đại thế luận.
Trang 18


Thơ Nguyễn Lộ Trạch hiện còn 15 bài, phần lớn là thơ cảm tác về thời cuộc
thông qua những bài tiễn tặng, truy điệu liệt sĩ, hoặc tức cảnh mùa thu. Âm hưởng thơ
trầm buồn, cách vận dụng điển cố chưa có gì thay đổi so với thơ u nước nửa cuối thế
kỷ XIX. Xin giới thiệu dưới đây một số bài thơ của ơng:

THU HỒI – BÁT THỦ
Dụng Đỗ Lăng Thu hứng bát thủ chi vận
(Nỗi lòng mùa thu - 8 bài, dùng vần 8 bài Thu hứng của Đỗ Phủ)
I
Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm,
Thiên sơn tĩnh lập ảnh sâm sâm
Tiều lâu đoạn giác minh sương lãnh
Chiến lũy trầm lân khốc nhật âm
Thảo muội kinh dinh tiên thế nghiệp
Giang hồ ưu ái hủ nho tâm
Vạn gia chinh phạt hàn y tận,

(Sầu sát thu khuê xứ xứ châm.
Đầy rừng lá đỏ cảnh tiêu sơ,

Sừng sững nghìn non bóng tỏa mờ.
Tiếng giốc trên đồn sương lạnh lẽo,
Lửa ma dưới lũy bóng âm u.
Gian nan dựng nghiệp, cơng tiền bối,
Phiêu bạt lo đời, chí hậu nho.
Chinh chiến mn nhà khơng áo rét,
Phòng khuê đứt ruột tiếng chày thu.)
(Mai Cao Chương dịch)

THƠ TẶNG NGƯỜI BẠN TRUNG HOA HỌ TRÌNH
Trang 19


I
Thơn hồng dật khí trực hồnh thâu,
Cao ngọa Ngun Long bách xích lâu.
Kiếp lý âm phù tiên đố hóa,
Phiêu nhiên nhất diệp Phạm Lê (Lãi) châu.

(Nuốt mây chí lạ ngang trời,
Nằm cao ngạo nghễ thói đời đáng khinh.
Trong rương hóa mọt sách binh,
Thuyền đơn Phạm Lãi bồng bềnh rong chơi.)

II
Lạc lạc trần hoàn khuynh cái nhân,
Oanh hoa tam nguyệt ẩm quân thuần.
Dao liên đại sấu hàn mai tứ,
Trù trướng thiên nhai cố cố xuân.


(Trên đời mấy kẻ tri âm,
Tháng ba hoa nở mời ông rượu đào
Xương mai lạnh, ý thương sao,
Nhớ xuân xưa, dạ buồn đau cuối trời.)

III
Gia sơn cựu trú Vũ Di điên,
Hung lý thâm điền vạn khoảnh yên.
Thân thị Nhạc Dương tam túy khách,
Vị ưng lâu thượng tọa Quỳnh Tiên.

Trang 20


(Vũ Di nơi ấy quê nhà,
Trong tim vạn dặm la đà khói vương.
Thân mình say khướt Nhạc Dương,
Bao giờ thỏa ước Đoàn Lang cùng ngồi.)
(Đoàn Lê Giang dịch)
Văn nghị luận của Nguyễn Lộ Trạch có khác ít nhiều với Nguyễn Trường Tộ ở
chỗ đã biết chú trọng dùng hình tượng. Nếu Nguyễn Trường Tộ hấp dẫn ở người đọc ở
lý lẽ mạch lạc, tầm nhìn sâu rộng và văn phong nhiệt huyết thì Nguyễn Lộ Trạch,
ngồi sự nhiệt huyết ra cịn hấp dẫn người đọc ở những ví dụ giàu sức biểu cảm, vừa
đánh vào cảm xúc vừa có ý vị trào lộng hài hước, khiến đọc xong không ai có thể thờ
ơ được.
Thư từ:
- Năm 1882: Nhâm Ngọ niên nhị nguyệt thướng chấp chính thư (Thư dâng lên
quan chấp chính vào tháng Hai năm Nhâm Ngọ)
- Năm 1884: Dữ Phạm Phú Đường thướng phụ chính đại thần thư (Thư cùng với
Phạm Phú Đường dâng lên phụ chính đại thần)

3.2.4. Đóng góp
Những điều trần và tài liệu của Nguyễn Lộ Trạch được soạn thảo cách chúng ta
hơn một thế kỷ, nhưng khơng ai có thể nghi ngờ về giá trị to lớn của chúng trong bối
cảnh lịch sử xã hội đương thời. Đọc Nguyễn Lộ Trạch, chúng ta tự hào và khâm phục
bản lĩnh kiên cường và tầm hiểu biết sâu rộng của người trí thức áo vải. Nếu như
chúng ta kính phục Nguyễn Trường Tộ, nhà cải cách đi tiên phong có những điều trần
mới mẻ và táo bạo, thì chúng ta càng nên quý trọng Nguyễn Lộ Trạch, coi ông như
người nối tiếp sự cải cách mà Nguyễn Trường Tộ còn làm dang dở.
Tư tưởng và sự nghiệp canh tân đất nước của Nguyễn Lộ Trạch đã không thành
bởi sự lạc hậu, bảo thủ, giáo điều của nhà Nguyễn. Dẫu không thành công nhưng tư
tưởng, tinh thần ái quốc của ông đã gieo mầm duy tân cho một thế hệ mới đầu thế kỷ
XX với hai đại diện xuất sắc là Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu.
Ngày nay đọc về Nguyễn Lộ Trạch, ta không chỉ là đang tìm hiểu tư liệu lịch sử
đã lui vào dĩ vãng mà trái lại, những vấn đề mà Nguyễn Lộ Trạch đặt ra, nêu lên ở thời
Trang 21


đại của ơng vẫn cịn nóng hổi tính thời sự đối với chúng ta khi mà đất nước đang bước
vào thời kỳ đổi mới, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh.

4. Đánh giá chung
Với tầm nhìn sâu rộng, Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch đã vạch ra
những con đường canh tân đất nước thiết thực và kịp thời để phụng sự lợi ích đất
nước, lợi ích Nhân dân. Dù cho những quan điểm ấy đều không được triều đình thực
hiện, hoặc thực hiện nửa vời khơng đi đến đâu, nhưng toàn bộ tư tưởng cải cách của
Nguyễn Lộ Trạch và Nguyễn Trường Tộ vẫn được nhiều thế hệ đánh giá cao, tơn trọng
vì chúng có vai trị rất quan trọng đối với lịch sử và văn hoá dân tộc. Những nhận định
về tình hình Việt Nam lúc bấy giờ và những chủ trương cải cách của hai ông đã được
người đời sau đánh giá là rất sáng suốt và thức thời. Hai vị đã để lại cho dân tộc mình
nhiều di sản q báu, vì thế khơng lấy làm lạ khi hai ông được người đời gọi là “những

nhà chủ trương cải cách số một của Việt Nam vào hậu bán thế kỷ XIX”, là “kẻ sĩ dấn
thân”.

Trang 22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Lê Giang (2008). Đề cương bài giảng Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XVIII –
cuối thế kỷ XIX (văn học hậu kỳ trung đại). TP. HCM.
2. Mai Cao Chương (27/4/2015). Nguyễn Lộ Trạch - nhà cải cách, nhà thơ. Truy cập
từ:

/>
%E1%BB%87t-nam/5390-nguyn-l-trch-nha-ci-cach-nha-th.html
3. Mai Cao Chương, Đoàn Lê Giang (1995). Nguyễn Lộ Trạch – Điều trần và thơ văn.
TP. HCM: NXB Khoa học xã hội.
4. Nguyễn Huệ Chi (2004). Mục từ “Nguyễn Lộ Trạch”. Từ điển văn học (bộ mới). TP.
HCM: NXB Thế giới.

Trang 23



×