Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.85 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC LENIN
ĐỀ TÀI
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI
LẬP VỚI VIỆC PHÂN TÍCH HỆ THỐNG CÁC MÂU THUẪN BIỆN
CHỨNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp:
Khoa:

Thành phố Hồ Chí Minh – Tháng 02/2022


2

Mục lục


3
MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 ,
cuối những năm 80 của thế kỷ XX , khi mà những khủng hoảng kinh
tế trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh
điểm, Việt Nam cũng khơng nằm ngồi tình trạng này . Trước tình
hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế


đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986).
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay
với rất nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường , nước ta không tránh khỏi những khó khăn .
Theo quan đIển triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật ,
hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các
mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt
Nam hiện nay, trong lịng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn . Trong
giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất
hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền
kinh tế tập trung , quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu
phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan
điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh
tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ
nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường…
Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới
quá trình phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức rõ vấn đề


4
này và giải quyết chúng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng để thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng và Nhà nước ta .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bằng những
kiến thức thu được trong năm học vừa qua tôi chọn đề tài:
"Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc
phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.



5
I. Cơ sở lý luận.
1.1. Lịch sử những tư tưởng triết học chủ nghĩa duy vật trước
Mác về mâu thuẫn
Trải qua quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và
các quá trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các
quan niệm về mâu thuẫn khác nhau cũng thay đổi. Mỗi thời đại , mỗi
trường phái lại có những lý giải khác nhau về mâu thuẫn , về các
mặt đối lập , vì triết học luôn phát sinh từ những bối cảnh lịch sử
nhất định . Thứ nhất là triết học thời cổ đại mà điển hình là ba nền
triết học lớn đó là Trung Hoa , Hy Lạp và ấn Độ .
Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thế kỷ thứ II
trước công nguyên. Tuy nhiên , phải đến cuối thời Xuân thu _ Chién
quốc , các hệ thống triết học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện .
Những quan điểm biện chứng về mâu thuẫn thời kỳ này xuất hiện
tuy cịn sơ khai. Ví dụ như trường phái Âm – Dương . phái Âm –
Dương nhìn nhận mọi tồn tại khơng phải trong tính đồng nhất tuyệt
đối cũng khơng phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương
đồng . Trái lại tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập gọi
là sự thống nhất Âm – Dương. Quy luật nay thừa nhận mọi thực tại
trên tinh thần biện chứng là trong cái mặt đối lập kia – ít nhất cũng ở
trạng thái tiềm năng sinh thành. Triết học ấn Độ thì đưa ra phạm trù
“vơ ngả”, “vô thường”(của trương phái Phật Quốc ). “Một tồn tại “
nào đó chẳng phải là nó mà là “tổng hợp”, “hội họp” của những cái
khơng phảI là nó mà nhờ hội đủ nhân – dun . Khơng có tồn tại nào
độc lập tuyệt đối với tồn tại khác Nhưng đã như vậy thì tất yếu phải
đi đến một khẳng định về lẽ vô thường . Vô thường là chẳng “thường



6
hằng” , “thường hằng “ là cái bất biến, chẳng bất biến là biến động ,
biến tức là biến động . Có thể nói , cùng với sự phát triển của các
hình thức kinh tế – xã hội các tư tưởng về mâu thuẫn cũng ngày
càng rõ nét.
Hêraclit – nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu
của nó thì phỏng đốn rằng: mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của
thế giới . Theo ông , các mặt đối lập gắn bó , quy định , ràng buộc
với nhau. Heraclit còn khẳng định vũ trụ là một thể thống nhất
nhưng trong lịng nó ln diễn ra các cuộc đấu tranh của các lực
lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động . Vì thế đấu tranh
là “cha đẻ của tất cả , là ơng hồng của tất cả”.
Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ , nền triết học
thời kỳ này chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và
cái riêng . Sang đến triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng
với những thành tựu về khoa học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết
học duy tâm và triết học duy vật cũng diễn ra hết sức gay gắt .
Nhưng các quan đIểm thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào siêu hình , máy
móc .Tới triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư tưởng
triết học tiến bộ . Cách mạng và khoa học . Triết học cổ diển Đức đã
đạt được trình độ khái quát và tư duy trừu tượng rất cao với những
hệ thống kết cấu chặt chẽ , thể hiện một trình độ tư duy tài biện
thâm cao vượt xa tính trực quan , siêu hình của nền triết học Anh –
Pháp ở thế kỷ XVII – XVIII, do vậy các tư tưởng triết học về mâu
thuẫn đã có những bước tiến đáng kể Đại biểu đặc trưng của triết
học cổ điển Đức là Hêghen .


7

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu
thuẫn.
Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất
được cấu thành bởi các mặt đối lập , các thuộc tính , các khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau , đối lập nhau…
*Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập .
Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát
các mặt , các khuynh hướng , các thuộc tính trái ngược nhau trong
một chỉnh thể làm nên sự vật , hiện tượng . Mỗi mâu thuẫn phải có
hai mặt đối lập . Nhưng không phải hai mặt đối lập bất kỳ của một
mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn . Chỉ những mặt đối lập
nào nằm trong một chỉnh thể có quan hệ khăng khít với nhau , tác
động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫm là một
chỉnh thể , trong đó các mặt đối lập vừa đấu tranh , vừa thống nhất
với nhau .
Trong một mâu thuẫn , hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất
với nhau. Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa
là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau , quy định
nhau ,mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại của mình . Nếu thiếu
một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định khơng
có sự tồn tại của sự vật . Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập
là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật ,
hiện tượng nào và ngược lại . Ví dụ :trong sinh vật hai mặt đối lập
đồng hoá và dị hoá thống nhất với nhau , nếu chỉ là một quá trình
thì sinh vật sẽ bị chết .Trong xã hội tư bản , giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau , nếu khơng có


8
giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp bán sức lao động cho giai cấp

tư sản , thì cũng khơng có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một
giai cấp mua sức lao động của giai cấp vơ sản để bóc lột giá trị
thặng dư…
Tuy nhiên , khai niệm “thống nhất “ này chỉ mang tính tương
đối .
Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương
đối của nó .
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật
không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng . Bởi vì các mặt
đối lập cùng tồn tại trọng cùng một sự vật thống nhất như một chỉnh
thể trọn vẹn nhưng khơng nằm n bên nhau mà điều chỉnh chuyển
hố lẫn nhâu tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật . Sự
đấu tranh chuyển hoá , bài trừ , phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối
lập trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau .
Ví dụ : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuẩt trong xã hội có
đối kháng giai cấp , mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với
quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay
gắt . Chỉ có thể thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất
nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một
cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai
đoạn . Thơng thường khi nó mới xuất hiện , hai mặt đối lập chưa thể
hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau .
Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu


9
thuẫn . Chỉ những sự khác nhau nào cùng tồn tại trong cùng một sự
vật có liên hệ hữu cơ với nhau , phát triển ngược chiều nhau , tạo

thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập đó
mới hình thành bước đầu của một mâu thuẫn . Khi hai mặt đối lập
của một mâu thuẫn phát triển đến xung đột gay gắt , nó biến thành
độc lập . Sự vật cũ mất đi , sự vật mới hình thành . Sau khi mâu
thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được
thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới , hai mặt đối lập
mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn .Mâu thuẫn được
giải quyết , sự vật mới xuất hiện . Cứ như thế đấu tranh giữa các
mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi khơng ngừng từ thấp đến cao .
Chính vì vậy Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh
của các mặt đối lập “.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập , Lênin chỉ ra rằng :’Mặc dù thống nhất chỉ là điều
kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó – nhờ có sự thống nhất
của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật , sự vật tồn
tại trong thế giới khách quan . Song bản thân sự thống nhất chỉ là
tạm thời . Đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối . Nó diễn
ra thường xuyên , liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật . Kể
cả trong trạng thái ổn định , cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về
chất . Lênin viết :”sự thống nhất (phù hợp , đồng nhất ,tác dụng
ngang nhau )của các mặt đối lập là có điều kiên , tạm thời , thoang
qua trong tương đối . Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển , sự vận động tuyệt đối”.
*Chuyển hóa của các mặt đối lập .


10
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều
dẫn tới sự chuyển hoá giữa chúng . Chỉ có sự đấu tranh của các mặt
đối lập phát triển đến một trình độ nhất định , hội đủ các điều kiện

cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá , bài trừ , phủ định lẫn nhau .
Trong giới tự nhiên , chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra
một cách tự phát , còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt đối lập
diễn ra nhất thiết phải thơng qua hoạt động có ý thức của con người
Do đó , khơng nên hiểu sự chuyển hố của các mặt đối lập chỉ
là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản , máy móc . Thơng thường thì
mâu thuẫn chuyển hố theo hai phương thức :
+ Phương thức thứ nhất :Mặt đối lập này chuyển hoá thành
mặt đối lập kia nhưng ở một trình độ cao hơn xét về phương diện
chất của sự vật .
Ví dụ :Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội
phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ
sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai:Cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá lẫn
nhau để tạo thành hai mặt đối lập hồn tồn mới .
Ví dụ :Nền kinh tế Việt Nam chuyển hoá từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung , quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
.
Từ mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới thực , bất kỳ sự
vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mặt những
thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu
tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo


11
thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan , phổ biến
của thế giới . Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật
mới hình thành . Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu
thuẫn mới .

Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn
nhau dể tạo thành sự vật mới hơn . Cứ như vậy các sự vật , hiên
tượng trong thế giới khách quan thường xuyên biến đổi và phát triển
không ngừng . Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực phát triển
của mọi q trình phát triển.
II. Tính tất yếu và mâu thuẫn bản chất của nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
2.1. Tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam.
* Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách
quan trong quắ trình phát triển nền kinh tế đất nước .
Như đã biết ,kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản
ánh trình độ phát triển nhất của văn minh nhân loại .Từ trước đến
nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày
nay , kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã phát triển tới trình độ
khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là
vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó cịn có mặt trái , có khuyết tật
từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu
sản xuất chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất ,
càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc ,
không giải quyết được các vấn đề xã hội , làm tăng thêm bất công


12
và bất ổn của xã hội , đào sâu thên hố ngăn cách giữa người giàu và
người nghèo. Chính vì thế mà , như C.Mác đã phân tích và dự báo ,
chủ nghĩa tư bản tất yếu phải được thay thế bởi một phương thức
sản xuất và chế độ mới văn minh hơn , nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư
bản , mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh và tự thích

nghi, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó , chủ nghĩa tư
bản khơng thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu
được chừng nào mâu thuẫn mà thôi . Nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định
và tự tiến hoá để chuyển sang một giai đoạn hậu cơng nghiệp , theo
xu hướng xã hội hố . Đây là tất yếu khách quan , là quy luật phát
triển của xã hội . Nhân loại muốn tiến lên , xã hội muốn phát triển
thì dứt khốt khơng thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa .

Mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ Viết là một kiểu tổ chức xã
hội , tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục khuyết tật của chủ nghĩa
tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn , một
phương thức sản xuất văn minh hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản .
Nhưng có lẽ , do nơn nóng , làm trái quy luật , khơng năng động ,
kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cục đã không thành
công . Liên Xô khắc phục sự nóng vội bằn cách đưa ra thực hiện
“chính sách kinh tế mới “(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là
khuyến khích phát triển kinh tế hàng hố, chấp nhận ở mức độ nhất
định cơ chế thị trường Muốn thế , Nga cần phải sử dụng quan hệ tiền
tệ – hàng hoá và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , đặc
biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng


13
sản xuất . Tuy chỉ mới thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng NEP
đã đem lại những kế quả tích cực cho nước Nga:hồi phục và phát
triển kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều nghành kinh tế hoạt động
năng động , nhộn nhịp hơn . Tiếc rằng , tư tuởng của V.I.Lênin về xây
dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã khơng được tiếp tục

thực hiện sau đó .
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những khuyết tật của
mơ hình kinh tế Xơ Viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong
công tác lãnh đạo , quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình
trạng khủng hoảng trì trệ . Một số nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng
và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng cơng cuộc
cải cách , cải tổ nhưng với một “ tư duy” chính trị mới , họ đã mắc
sai lầm nghiêm trọng cực đoan , phiến diện đãn tới sự tan rã của
Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới , đã làm
lộ rõ những khuyết tật của mơ hình kinh tế cứng nhắc , phi thị
trường , mặc dù những khuyết tật đó khơng phải là nguyên nhân tất
yếu dẫn tới sự sụp đổ .
Việt nam là một nước nghèo , kinh tế kỹ thuật lạc hâu , trình độ
xã hội cịn thấp , bị chiến tranh tàn phá nặng nề , di lên chủ nghĩa
xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân
Việt Nam , là khát vọng
thiêng liêng ngàn đời của nhân dân Việt Nam . Nhưng đi lên
chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ
trọng , muốn trả lời thật không đơn giản . Chúng ta đã áp dụng mơ
hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ Viết , mơ hình kinh tế kế hoạch tập


14
trung mang tính bao cấp . Mơ hình này đã thu được những kết quả
quan trọng , nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có
chiến tranh. Nhưng về sau mơ hình này bộc lộ những khuyết điểm
;và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà
nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều , chủ
quan , duy ý chí . Lối suy nghĩ và hành động đơn giản , nóng vội

khơng tơn trong quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội
không đúng với thực tế ở Việt Nam .
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , Đại hội VI
của Đảng cộng sản Việt Nam(tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường
lối đổi mới tồn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Đại hội đưa ra những quan niệm
mới về con đường , phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội , đặc
biệt là quan niệm về cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ , về cơ cấu kinh tế , thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản
xuất hành hoá và thị trường . Phê phán triệt để cơ chế tập trung ,
quan liêu, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh
doanh. Đại hội VI là một mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng
trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
*.Bản chất và những đặc trưng của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây
khơng phải kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa ,
cũng không phải kinh tế bao cấp quản lý theo kiểu tập trung quan


15
liêu bao cấp và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ,bởi vì Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội , vừa có vừa chưa có các yếu tố của chủ nghĩa xã hội .
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại ,
phát huy vai trị tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy
sức sản xuất , xã hội hoá lao động , cả tiến kỹ thuật – công nghệ ,

nâng cao chất lượng sản phẩm , tạo ra nhiều của cải , góp phần làm
giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân: đồng thời phải có
những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường . Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình
phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lênin nắm bắt đúng
quy luật khách quan và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất , phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , nâng cao đời
sống nhân dân .Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
phát triển quan hệ sản xuất mới , tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu ,, nhiều thành phần kinh tế , trong dó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo: kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nước , Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng
chiến lược , quy hoạch , kế hoạch , chính sách , pháp luật , và bằng


16
cả sức mạnh vật chất của kinh tế nhà nước : đồng thời sử dụng cơ
chế thị trường , áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản
lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất , giải phóng sức sản
xuất , phát huy mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường , bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động , của toàn thể nhân
dân .
Kinh tế thị rường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời

phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản
xuất , kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội . Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển . Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hố và
giáo dục , xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản
sắc dân tộc , nâng cao dân trí , giáo dục và đào tạo con người , xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực đất nước .
C.Mác khẳng định rằng:”…sản xuất hàng hoá và lưu thơng
hàng hố là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất
hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng
khơng giống nhau…Chúng ta hồn tồn chưa biết gì về những đặc
điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa
thể nói gì về những phương thức sản xuất ấy, nếu chúng ta chỉ có
những phạm trù trừu tượng của lưu thơng hàng hoá , những phạm
trù chung của tất cả các phương thức ấy”.
Lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường
vàchủ nghĩa xã hội , mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động


17
khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại hiện nay . Đảng
cộng sản Việt nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của
thời đại và sự khái quát đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới , đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Trung Quốc và Việt Nam , để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , nhằm sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế
trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội . Đây là một kiểu kinh tế

thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường .
2.2. Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam
*Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước , theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay , vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề
hết sức phức tạp , mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu
hiện của nó xét trên phương diện triết học Mac- Lênin , theo đó lực
lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý
thức của sự vật , lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ
sản xuất , lực lượng sản xuất là yếu tố động , luôn thay đổi. Khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản
xuất sẽ khơng cịn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất . Để mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển , cần thay thế quan hệ sản xuất cũ băng quan hệ sản xuất


18
mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất .Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để để phù hợp với lực
lượng sản xuất , quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất , đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát
triển của xã hội .
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan
hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt , quyết liệt và cần
được giải quyết . Nhưng giải quyết nó bằng cách nào ? Đó chính là
các cuộc cách mạng xã


hội ,các cuộc chuyển đổi kinh tế mà các

cuộc chuỷên đổi kinh tế ở nước ta là một ví dụ . Khi một mục tiêu ,
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng , thể hiện tính chất cách mạng của
cơng cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước
ta trở thành quốc gia cơng nghiệp hố , hiện đại hố , xã hội cơng
bằng , dân chủ , văn minh .
Cơng nghiệp hố , hiện đại hố đất nước là chủ trương , biện
pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây
dựng chủ nghĩa xã hội . Nói đến cơng nghiệp hố , hiện đại hố đất
nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất , nói đến khoa học , đến sự anh minh
của trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thốt khỏi tình
trạng sản xuất nhỏ , nông nghiệp lạc hậu , tạo điều kiện và cơ sở vật
chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển.
Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng
cộng sản để kiến thiết chủ nghĩa xã hội , chuyển sang nền kinh tế
thị trường . Khẳng định cái mới , đúng đắn tự bản thân nó đã bao
gồm cả ý nghĩa phủ định , gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Trước đây , chúng ta


19
thiếu quan tâm tới vai trị của trí tuệ , khoa học đến việc tạo lập cơ
sở vật chất –kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội . Bằng chứng là một thời
chúng ta coi trọng không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học
trong mơi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác
. Do thế , hậu quả tất yếu sảy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc
khơng có điều kiện phát triển , đất nước khơng thố khỏi nền sản
xuất nhỏ , nơng nghiệp lạc hậu và cũng khơng thể nói tới cơng

nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
*Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh
tế thị trường .
Trước đây , người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong
chủ nghĩa xã hội là: sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình
thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể . Sự tồn tại hai hình thức
sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi hoàn cảnh lịch sử khi tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa . Sau khi
giành được chính quyền giai cấp cơng nhân đứng trước hai hình thức
sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở
hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế địi hỏi giai cấp
cơng nhân phải có thái độ giải quyết khác nhau. Đối vơí hình thức sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để
đưa thẳng lên sở hữu toàn dân , cịn đối với hình thức sở hữu tư
nhân của những người sản xuất nhỏ thì khơng thể dùng những biện
pháp như trên , mà pỉai kiên trì giáo dục , thuyết phục tổ chức họ
trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng việc hợp tác
hố hai hình thức . Sở hữu đó là đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản
của giai cấp công và nông dân tập thể.


20
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ chuyển
sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới , của
chính sách đa dạng hố các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo toàn dân thực hiện . Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh
tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở
hữu , chứ khơng phải chỉ bao gồm hai hình thức sở hữu là sở hữu

toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây .
Trong giai đoạn hiện nay , nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng
và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn
dân , sở hữu tập thể , sở hữu nhà nước , sở hữu cá thể và sở hữu hỗn
hợp . Trong các hình thức sở hữu này , khái qt lại chỉ có hai hình
thức sở hữu đó là : cơng hữu và tư hữu , cịn các hình thức sở hữu
khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp . ở đây mỗi
hình thức sở hữu lại có nhiều hình thức biểu hiện về trình độ thể
hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất
kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
năng lực quản lý .
Về sở hữu toàn dân.
Trước đây , người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở
hữu nhà nước . Nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên bao gơm
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then
chốt liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo
hướng có lợi cho quốc tế dân sinh . Nhà nước quản lý kinh tế với tư


21
cách là cơ quan có quỳên lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là
đại diện đối với tài sản sở hữu toàn dân .
ở nước ta hiện nay , như hiến pháp và luật đất đai quy định
rõ :”Xét và mặt kinh tế , đất đai là phương tiện tồn tại của cả một
cộng đồng xã hội . Xét về mặt xã hội , đất đâi là nơI cư trú của một
cộng đồng . Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện có thể nói
đất đai không thể là sở hữu của riêng ai .
Tuy nhiên , suy cho cùng , đất đai là tư liệu sản xuất , hay nói
chính xác hơn đó là một bộ phận quan trọng của sản xuất . Bởi thế ,

dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hố , nó vẫn phảI hoạt
động theo quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của quy luật
đó .Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại
diện , thống nhất quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền
cho các hộ nông dân , kể cả quyền chuyển nhượng , quyền sử dụng
đất đai nếu biết giải quyết các vấn đề sở hữu , biết tách quyền sở
hữu với quyền sử dụng . Chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc quyền
sở hữu tồn dân nhưngngười nơng dân có quyền sử dụng ổn định lâu
dài thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất vừa tăng cường của nền kinh tế nói chung. Văn kiện đại ội
VII của Đảng ta đã chỉ rõ:”Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai ,đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài . Nhà nước
quy định bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế , chuyển quyền sử
dụng đất…” (Đảng cộng sản Việt Nam-văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốclần thứ VII-Nhà xuất bản sự thật-Hà nội 1991).Như vậy hình
thức sở hữu tồn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội
dung mới , có nhiều khả năng để thực sự trở thành động lực phát
triển kinh tế .


22
Về sở hữu nhà nước .
Trong thời kỳ bao cấp trước đây , khơng chỉ có nước ta mà cịn
ở các nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường
đông nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như
vậy mà trong một thời gian khá dài , người ta thường bỏ qua sở hữu
nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu tồn dân với chế độ cơng
hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Và cũng
bởi sở hữu toàn dân gắn kết với khu vực kinh tế quốc doanh mà
chúng ta ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niền tin cho rằng chỉ

có như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra , với quan
niệm đó, sở hữu tồn dân không trở thành sở hữu của một chủ thể
cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu tồn dân chưa
có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung.
Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể , mới chỉ là kết cấu bên
ngoài của sở hữu . Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở
nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó , ở khu vực kinh tế
quốc doanh , khu vực các doanh nghiệp nhà nước .
Về sở hữu tập thể .
ở nước ta trước đây , sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình
thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp ) với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung
mà các xã viên là chủ sở hữu chính . Vì vậy, với hình thức sở hữu
này , quyền mua bán hoặcchuyển nhượng tư liệu sản xuất , trong
thực tế sản xuất và lưu thơng hàng hố ở nước ta đã diễn ra hêt sức
phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế , song


23
đơi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự khơng xác định , sự nhập
nhằng giữa quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng
là hiện tượng phổ biến . Để thốt khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh
của nền kinh tế thị trường hiện naycần phải xác định rõ quyền mua
bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất
kinh doanh .Chỉ có như vậy , sở hữư tập thể mới có thể trở thành
hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta biết , hợp tác xã không phải là hình thức riêng có đặc
trưng cho chủ nghĩa xã hội , nhưng nó là một hình thức sỏ hữu kinh
tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Vì vậy , chúng

ta phải duy trì và phát triển hơn nữa khi xây dựng chủ nghĩa xã hội
như V.I.Lênin đã khẳng định :”chế dộ của người xã viên hợp tác xã
văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa “.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình ,
của nền sản xuất hàng hoá . Khi lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển đến một trình độ nhất định ,
nó sẽ thúc đẩy q trình hợp tác . Trong đIều kiện của nề kinh tế
hàng hoá các nhu cầu về vốn , cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…
đòi hỏi các hộ sản xuất phải liên kết với nhau mới có khả năng cạnh
tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao
động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tế cho
thấy , ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới
ra đời do nhu cầu tồn tại và phá triển của cơ chế thị trường “hợp tác
xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia trực
tiếp của xã viên , phân phối theo kết quả lao động và cổ phần đóng
góp, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với cơng việc chung”(Đảng
cộng sản Việt Nam –Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ VIII-


24
nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội –1996) . ĐIều này cho thấy
kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình
hình thực tiễn ở nước ta hiện nay.
*Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa .
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng :muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa . Yếu tố con người
giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng , bởi vì con
người là chủ thể của mọi sáng tạo , của mọi nguồn của cải vật chất
và văn hoá . Con người phát triển cao về trí tuệ , cường tráng về thể

chất , phong phú về tinh thần , trong sáng về đạo đức là động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới , là mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội . Chúng ta phải lấy con người làm điểm xuất phát .
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối
quan hệ giữa con người với con người đều thông qua thị trường , tức
là thông qua việc mua bán , trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường
. Trong kinh tế hàng hoá , quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển , mở
rộng bao quát trên mọi lĩnh

vực , có ý nghĩa phổ biến đối với người

sản xuất và người tiêu dùng . Do nảy sinh và phát triển trong một
đIều kiện lịch sử nhất định , kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình
độ văn minh và phát triển là nhân tố phát triển sức sản xuất , tăng
trưởng kinh tế , thúc đảy xã hội phát triển . Tuy nhiên , kinh tế thị
trường cũng có những khuyết đIểm của nó như cạnh tranh lạnh lùng
, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản , thất nghiệp , khủng
hoảng chu kỳ.


25
Xuất phát từ sự phân tích trên đây , chúng ta thấy rằng đổi mới
ở nước ta hiện nay , không thể xây dựng và phát triển con người nếu
thiếu yếu tố kinh tế thị trường . Do hậu quả của nhiều năm chiến
tranh , của nền kinh tế kém phát triển , của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp nền kinh tế nước ta đã tụt hậu rất xa so với khu vực và
thế giới . Trong tình hình đó thì kinh tế thị trường là nhân tố rất quan
trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảngvà phát triển
phục hồi sản xuất , đẩy mạnh tốc độ phát triển, bắt kịp bước bước
tiến của thời đại.

Trên cơ sở đó đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và
nâng cao , những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản hàng ngày được
đáp ứng đầy đủ và nhanh chóng . Con người khơng thể có cơ thể
khoẻ mạnh nếu thiếu ăn , thiếu mặc, thiếu các điều kiện chăm sóc
sức khoẻ hiện đại . Con người khơng thể có trí tuệ minh mẫn , phát
triển các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập ,
nghiên cứu khoa học không được đáp ứng . Việc xây dựng , củng cố
hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện
vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng con người cho thế
kỷ XXI.
Trong năm qua , kinh tế thị trương ở nước ta đã được nhân dân
hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng , góp phần
khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo , làm cho nền kinh tế sống động
hơn . Đây là những kết quả rất đáng mừng , đáng được phát huy . nó
thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của xã hội . Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã hội từ


×