Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.49 KB, 51 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu

Trong nền kinh tế thị trờng hiện đại, hệ thống tài chính - tiền tệ luôn luôn đợc
mọi nhà nớc coi trọng, nhất là từ sau khi xảy ra sự suy sụp của hệ thống tài chính -
tiền tệ quốc tế 1929-1933, kéo theo là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thì nhiều
nớc đã từ bỏ học thuyết " bàn tay vô hình " của Adam Smith và quan tâm đặc biệt
đến học thuyết tiền tệ của Jonh Maynar Keynes. Từ đó các công cụ quản lý vĩ mô
hệ thống tiền tệ lại càng đợc đặc biệt coi trọng.
Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, trong quá trình chuyển biến từ nền
kinh tế chỉ huy tập trung sang kinh tế thị trờng, không phải ngẫu nhiên mà Đảng
và Nhà nớc ta đã đặt lên hàng đầu vị trí của hệ thống tài chính - tiền tệ và chọn hệ
thống ngân hàng làm mũi đột phá trong công cuộc đổi mới kinh tế. chính sách tiền
tệ quốc gia vf hệ thống công cụ của nó bắt đầu nghiên cứu và đợc sử dụng. Hệ
thống công cụ này dần nhằm thay thế cho công cụ kế hoạch hoá trực tiếp.
Mỗi nớc đều có hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhng với vị trí u tiên
khác nhau và trong từng thời kì, từng giai đoạn của nền kinh tế sẽ xác định đợc thứ
tự u tiên đó. Để đạt đợc các mục tiêu này, nhà nớc phải sử dụng các công cụ của
mình và NHTW là ngời trực tiếp thực thi các công cụ đó và chịu sự quản lý, giám
sát của nhà nớc. Chính sách tiền tệ là một trong các công cụ đó. Riêng Việt Nam
để thực hiện và đẩy nhanh tiến độ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cũng
nh quá trình chuyển giao công nghệ, thu hút sự đầu t nớc ngoài thì đòi hỏi các
công cụ quản lý vĩ mô phải đồng bộ và hợp lý mà chính sách tiền tệ hợp lý trớc
tiên sẽ tạo ra môi trờng kinh tế ổn định, thuận lợi.
Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ là những công cụ đang và sẽ đa vào sử
dụng ở Việt Nam - là một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, đồng thời cũng hết
sức mới mẻ; thậm chí có những vấn đề đang còn đợc các nhà khoa học tiếp tục
nghiên cứu và hoàn thiện. Hơn nữa, là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nớc vì
vậy nó mang tính trìu tợng cao nên việc tiếp cận gần nó để có đợc một chính sách
hợp lý trong tơng lai là điều khó khăn song bất cứ nớc nào cũng mong muốn.
Với đề tài: "Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trờng


ở Việt Nam hiện nay" chúng ta đi vào giải quyết những nội dung chủ yếu sau:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ch ơng 1: Một số vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trờng
Ch ơng 2: Thực tiễn việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở nớc ta
trong nền kinh tế thị trờng
Ch ơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu qủa việc sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ
Do những hiểu biết của em về thực tế còn hạn hep khả năng đánh giá cha sâu
sắc, với những kiến thức đợc trang bị cùng với sự giúp đỡ của thầy em đã hoàn
thành đề án này. Tuy nhiên, đề án chắc còn nhiều chỗ sai sót, em mong nhận đợc
sự góp ý, của thầy để đề án của em đợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội ngày 15 tháng 11 năm 2001
Sinh viên
Hoàng Thị Thanh Thuỷ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng 1:
Một số vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và vai
trò của nó trong nền kinh tế thị trờng

Ngân hàng một sản phẩm tuyệt diệu của nền kinh tế tiền tệ đợc ra đời do
đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình hoạt động tín dụng và sản xuất, kinh
doanh trong nền kinh tế hàng hoá. Đến lợt nó, ngân hàng bằng hoạt động của
mình lại tác động trở lại, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, thông qua việc
điều hành CSTT với t cách là ngời cho vay cuối cùng, ngân hàng Quốc gia còn có
thể đẩy nền kinh tế đến mức phát triển quá nóng , hoặc có thể cứu vãn sự sụp
đổ của thị trờng chứng khoán hay ngăn chặn tình trạng hoảng loạn của thị trờng

tài chính. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Samuelson nhà kinh tế học
ngời Mỹ đã rút ra nhận xét rằng: từ khi thời gian bắt đầu có cho đến nay đã có 3
phát minh lớn, đó là: lửa, bánh xe và ngân hàng trung ơng" và thực tiễn đã chứng
minh rằng với trách nhiệm điều hành CSTT quốc gia bằng những công cụ quản lý
vĩ mô của mình trong nền KTTT, NHTW đã đóng một vai trò quan trọng. Chính vì
những lý do đó mà trớc khi nghiên cứu về CSTT, chúng ta cần phải tìm hiểu vai trò
của NHTW trong nền KTTT
I- Vai trò của NHTW trong nền KTTT
1. Sự ra đời của NHTW
1.1. Cơ sở kinh tế
Khi hệ thống tín dụng thơng mại phát triển, các loại lu thông tín dụng xuất
hiện ngày càng nhiều kể cả về số lợng lẫn loại hình nh kỳ phiếu thơng mại, kỳ
phiếu ngân hàng... Nhng cho dù ở hình thức nào thì trong quá trình hoạt động,
chúng đều bộc lộ những u điểm cũng nh nhợc điểm và cùng chịu sự tác động của
các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, loại
hình công cụ tín dụng nào có nhiều u điểm sẽ tồn tại và trở nên phổ biến, có thị tr-
ờng lu thông lớn. Ngợc lại, loại hình công cụ tín dụng nào bộc lộ nhiều nhợc điểm
sẽ dần mất thị trờng và bị thay thế bởi loại hình công cụ tín dụng khác phù hợp
hơn. Kỳ phiếu ngân hàng, ngay từ khi mới ra đời đã thể hiện nhiều u điểm của
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mình so với các hình thức công cụ tín dụng khác nh: khả năng huy động vốn lớn,
phạm vi huy động vốn rộng và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế, nhiều
ngành... vì thế, loại hình này ngày càng đợc a chuộng và trở nên phổ biến.Đây
cũng chính là giai đoạn đầu trong quá trình hình thành NHTW giai đoạn của kỳ
phiếu ngân hàng bởi trong giai đoạn này, mỗi ngân hàng đều phát hành kỳ phiếu
riêng, hoạt động và cho vay trên nhiều lĩnh vực và còn gọi là ngân hàng đa năng
Tuy nhiên, khi kỳ phiếu ngân hàng đã trở nên phổ biến nhng do mỗi ngân
hàng lại phát hành một loại kỳ phiếu riêng nên đã làm hạn chế về quy mô hoạt
động của chúng chỉ trong từng địa phơng và tất yếu sẽ dẫn tới cạnh tranh

gay gắt giữa các kỳ phiếu ngân hàng trong việc mở rộng thị trờng hoạt động. Vì
vậy, ở giai đoạn thứ hai này đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải tận dụng và phát huy
hết những thế mạnh của mình.
Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá, đòi hỏi phải có những kỳ phiếu lu
thông trên thị trờng toàn quốc và thế giới. Và chỉ có những ngân hàng lớn mới có
đủ uy tín để thực hiện. Trớc đây, ở một số nớc kinh tế phát triển, đã có một vài
ngân hàng lớn tách ra khỏi hệ thống NHTM để chuyên thực hiện việc phát hành
kỳ phiếu ngân hàng cho các doanh nghiệp hoặc các NHTM vay vốn những
ngân hàng này đợc gọi là ngân hàng phát hành. Trong một thời gian khá dài, ở
nhiều nớc, mặc dù đã có ngân hàng phát hành nhng các NHTM vẫn tiếp tục sử
dụng phát hành kỳ phiếu ngân hàng tại địa phơng vì đây là một trong những hình
thức huy động vốn để cho vay có hiệu quả nhất. Về sau, do không cạnh tranh nổi
với kỳ phiếu của những ngân hàng phát hành nên phạm vi bị thu hẹp và cuối cùng
bị quét khỏi lu thông. Sau này, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hớng
chuyên môn hoá của các ngân hàng ngày càng cao đến mức hình thành xu hớng
tập trung nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu vào tay các ngân hàng phát hành.
Nh vậy, kết quả của cơ sở kinh tế đó là việc tách biệt hai chức năng của ngân
hàng: chức năng phát hành và chức năng kinh doanh tiền tệ tơng ứng trong hệ
thống ngân hàng là hai hình thức ngân hàng phát hành và NHTM. Dù đã có ngân
hàng phát hành song ngời ta vẫn cha gọi nó là NHTW bởi nhẽ cơ sở kinh tế cha
làm thay đổi hình thức sở hữu thực tế, các ngân hàng phát hành lúc này vẫn
thuộc sở hữu t nhân.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2. Cơ sở pháp lý
Là việc Nhà Nớc sử dụng quyền lực của mình để thống nhất quản lý và độc
quyền việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng, đồng thời cho ra đời một ngân hàng của
mình gọi là NHTW hay NHNN
Ban đầu, để dễ dàng vay đợc nhiều tiền hỗ trợ cho ngân sách Nhà nớc nhằm
thực hiện các mục tiêu vĩ mô của mình, Nhà nớc t sản ủng hộ và khuyến khích

thành lập các ngân hàng phát hành. Nhiều Nhà nớc đã ban hành những điều luật
hạn chế hoặc đình chỉ việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM. Hoạt động của các
ngân hàng phát hành giảm dần và đi đến ngừng hẳn việc giao dịch cho vay vốn đối
với các doanh nghiệp, mà chỉ nhận tiền gửi của các NHTM, các tổ chức tín dụng,
của ngân sách Nhà nớc và phát hành kỳ phiếu ngân hàng một loại tiền tín dụng
để cho các NHTM vay và cho Nhà nớc vay. Tuy nhiên, khi ngân hàng phát hành
thuộc sở hữu của t nhân, thậm chí một nền kinh tế có thể tồn tại nhiều ngân hàng
phát hành thì không thể tránh khỏi có những lúc, các mục tiêu của ngân hàng phát
hành không phù hợp với các mục tiêu vĩ mô của Nhà nớc và Nhà nớc khó có thể
kiểm soát quá trình cung ứng tiền tệ này. Đặc biệt sau khủng hoảng 1929-1933 thì
việc biến ngân hàng phát hành thành sỡ hữu của Nhà nớc càng là một việc cần
thiết ! Để làm đợc điều này, Nhà nớc phải sử dụng đến quyền lực của mình và kết
quả là NHTW ra đời với nhiều hình thức nh: quốc hữu hoá, cổ phần hoá, xoá bỏ
các ngân hàng phát hành cũ và lập một ngân hàng mới NHTW....
Ngời ta thờng gọi NHTW là ngân hàng phát hành, tuy nhiên không phải là do
nguồn gốc ra đời của nó mà chủ yếu do hiện tại, các NHTW của các nớc đều có
chức năng quan trọng là phát hành tiền.
2. Mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
Ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, nên sự hình thành và phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn khác với các nớc có nền kinh tế hàng hoá
phát triển. ở các nớc này, ngân hàng đợc phát triển từ hệ thống ngân hàng một cấp
các NHTM sang hệ thống ngân hàng hai cấp: NHTW và các NHTM. Riêng
ở Việt Nam thì quá trình phát triển có dạng ngợc lại. Bắt đầu từ thành lập NHTW
và tổ chức hệ thống ngân hàng một cấp, với chức năng quản lý là chủ yếu, sau đó
chuyển thành hệ thống hai cấp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1. Ngân hàng một cấp trớc đây
Từ khi đợc thành lập đến khi có pháp lệnh ngân hàng, ngân hàng Việt Nam
đợc tổ chức theo mô hình một cấp, thống nhất từ trung ơng đến địa phơng. Hệ

thống ngân hàng một cấp vừa thực hiện chức năng quản lý Nhà nớc, vừa thực hiện
nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tề tín dụng theo cơ chế kế hoạch.
NHTW thực hiện chức năng của một ngân hàng phát hành, điều hành chu chuyển
tiền tệ trong nền kinh tế, trên cơ sở ban hành các chính sách về quản lý tiền tệ và chính
sách tín dụng; đồng thời tổ chức hoạt động kinh doanh và tổng hợp kết quả tài chính
(kết quả kinh doanh) theo chế độ hạch toán kinh tế toàn ngành
Các chi nhánh ngân hàng tỉnh, thành phố, đợc tổ chức theo địa d hành chính,
là cấp trung gian thay mặt NHTW tổ chức hoạt động quản lý và kinh doanh trong
phạm vi địa phơng mình. Thực chất là cha kinh doanh theo đúng nghĩa. Mặt khác,
luôn phải thực hiện mệnh lệnh của cấp uỷ và chính quyền địa phơng. Các chi
nhánh ngân hàng quận, huyện trực tiếp thực hiện việc quản lý tiền tệ đối với tất cả
các tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính sự nghiệp.... trên cơ sở thực hiện nghiệp
vụ ngân hàng.
Việc tổ chức và hoạt động ngân hàng một cấp phù hợp với cơ chế kế hoạch
hoá tập trung. Thời kỳ đó, các công cụ quản lý kinh tế thờng gắn chặt với các biện
pháp, các mệnh lệnh hành chính, chỉ tiêu đánh giá chất lợng điều hoà lu thông tiền
tệ không phải là mức độ kiểm soát M1,M2..., mà thuần tuý là tỷ lệ thanh toán tiền
mặt và không dùng tiền mặt trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, tiền tệ và
giá cả trong nhiều giai đoạn khá ổn định, khi mọi hoạt động kinh tế trong xã hội
đợc tổ chức và phối hợp đồng bộ. Việc phê phán gay gắt những cơ chế quản lý của
giai đoạn đó, mà không xem xét đến hoàn cảnh lịch sử, chắc chắn không tránh
khỏi những phân tích lệch lạc.
Khi nền kinh tế nớc ta chuyển sang KTTT theo định hớng XHCN, mô hình
ngân hàng một cấp không còn phù hợp nữa. Các điều kiện về kinh tế xã hội và
môi trờng mới đã tạo tiền đề cho việc ra đời hệ thống ngân hàng hai cấp.
2.2. Mô hình ngân hàng hai cấp
Nếu nh ở các thế kỷ trớc, học thuyết " bàn tay vô hình " của nhà kinh tế nổi
tiếng AdamSmith đã ngự trị các nhà doanh nghiệp và điều khiển toàn bộ hoạt động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

KTTT và đây đợc coi là quy luật kinh tế khách quan chi phối mọi hoạt động của
con ngời, thì sau cuộc khủng hoảng kinh tế trên bình diện quốc tế trong những
năm 1929-1933, ngời ta lại tìm đến học thuyết " bàn tay hữu hình" của Keynes.
Học thuyết này đòi hỏi phải sử dụng " những bàn tay công cộng " của Nhà nớc để
can thiệp và điều chỉnh " bàn tay vô hình ". Đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng,
lĩnh vực lu thông tiền tệ và tín dụng. Tuy nhiên, học thuyết Keynes chỉ là liều
thuốc giảm đau chứ không phải là cứu cánh của nền kinh tế các nớc đang lâm vào
tình trạng khủng hoảng thời kỳ đó.
Do hiểu đầy đủ các học thuyết kinh tế, hiểu vai trò của hệ thống ngân hàng
và tầm quan trọng của CSTT trong nền KTTT, nên khi có chủ trơng đổi mới nền
kinh tế đất nớc, Đảng và Nhà nớc ta đã khẳng định việc tổ chức lại hệ thống ngân
hàng Việt Nam là một trong những công việc đầu tiên của quá trình đổi mới. Việc
tổ chức lại hệ thống ngân hàng hai cấp đã đợc tiến hành từng bớc và mô hình này
đã đợc khẳng định tại các pháp lệnh ngân hàng ban bố năm 1990.
Ngân hàng nhà nớc (hay NHQG tức là NHTW) là cấp quản lý Nhà nớc về
hoạt động tiền tệ tín dụng và là cơ quan duy nhất phát hành tiền Việt Nam. Các
ngân hàng thơng mại (quốc doanh, cổ phần, liên doanh....), ngân hàng đầu t phát
triển, các công ty tài chính (quốc doanh, cổ phần), các hợp tác xã tín dụng là cấp
thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
Sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp đòi hỏi phải hoạch định một CSTT
mà trong đó có nội dung tơng đối hoàn chỉnh về mục tiêu cuối cùng, các mục tiêu
trung gian và hệ thống công cụ thích hợp cho từng thời kỳ nhất định. Một CSTT
nh vậy là không thể có đợc trong hệ thống ngân hàng một cấp. Trong hệ thống
ngân hàng hai cấp này, mặc dù ở nớc ta, tính độc lập của NHTW cha cao nh ở các
nớc, nhng đã có đủ điều kiện để hoạch định và thực thi một CSTT phù hợp với nền
KTTT ở nớc ta. Mặt khác, khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp thì trong
những năm đầu NHTW tuy cha phải là ngời duy nhất nhng đã trở thành ngời chịu
trách nhiệm chính trong việc thực hiện mục tiêu CSTT.
Việc hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp không phải đơn thuần là thay đổi về
mặt tổ chức bộ máy, mà điều cơ bản là thay đổi nội dung hoạt động, đó là việc phân

biệt rõ chức năng quản lý của NHTW và chức năng kinh doanh của NHTM.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính ra đời, tuy bớc đầu cha đa dạng và
phong phú nh ở các nớc, nhng chúng đã làm môi trờng cho các công cụ của CSTT
hoạt động. Đồng thời cũng do hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính ra đời nên
lại đòi hỏi phải có một hệ thống công cụ vĩ mô để điều khiển việc thực hiện CSTT.
3. Những nhận xét chung:
Do hoàn cảnh lịch sử hình thành NHTW và điều kiện kinh tế của từng nớc có
khác nhau, phong tục tập quán không giống nhau nên các NHTW các nớc đều có
những điểm khác nhau. Nhng điểm đồng nhất là ở chỗ, đều có quyền lực rất lớn và
quyền độc lập trong việc hoạch định và điều hành CSTT quốc gia. Tại nớc Mỹ, ngời ta
thờng gọi chủ tịch hội đồng các thống đốc ngân hàng là " con ngời quyền lực lớn thứ
hai ở Mỹ ". Sự độc lập còn đợc thể hiện ở chỗ nhiệm kỳ của thống đốc NHNN thờng
dài hơn nhiệm kỳ của quốc hội và nội các.
Sự độc lập và quyền lực của NHTW có đợc một mặt là bản thân NH không
giống những cơ quan quyền lực do dân cử. Các ngành dân cử không phải lúc nào
cũng hy sinh quyền lực trớc mắt là khả năng đợc bầu cửđể đánh đổi phúc lợi kinh
tế dài hạn.
Nhìn chung, NHTW nớc nào đợc giao quyền độc lập thì ở nớc đó có tỷ lệ lạm
phát thấp. Chính vì vậy nên cần phải nhấn mạnh rằng một Nhà nớc không hiểu hết
vai trò của NHTW, không giao đủ quyền hạn cho NHTW và sử dụng nó nh một
công cụ kinh tế sắc bén, thì nền kinh tế nớc đó sẽ cha thể phát triển mạnh.
CSTT mà NHTW các nớc hoạch định đều dựa trên học thuyết kinh tế và học
thuyết tiền tệ phù hợp với điều kiện cụ thể của nớc đó và tuỳ thuộc theo mục tiêu
từng thời kỳ của nớc họ. Có những NHTW coi các mục tiêu của các chính sách
kinh tế cũng là mục tiêu của CSTT.
II- Chính sách tiền tệ
1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một trong những bộ phận tổng thể hệ thống chính sách

kinh tế của Nhà nớc để thực hiện vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm đạt đợc các mục
tiêu kinh tế xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CSTT có thể đợc hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thờng. Theo nghĩa rộng
thì CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lợng tiền tệ trong nền kinh tế quốc
dân nhằm tác động đến bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt đợc
mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả
hàng hoá. Theo nghĩa thông thờng là chính sách quan tâm đến khối lợng tiền cung
ứng tăng thêm trong thời kì tới (thờng là 1 năm) phù hợp với mức tăng trởng kinh
tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có; tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn
định giá cả hàng hoá.
Các chức năng của tiền tệ trong nền KTTT hiện đại đã và đang phát huy
mạnh mẽ theo trào lu thời đại; thậm chí có những chức năng của tiền tệ đã đợc
thực hiện theo những phơng thức hoàn toàn khác với trớc đây. Vì vậy, việc xác
định CSTT quốc gia là một công cụ kinh tế vĩ mô và hiểu theo nhiều nghĩa rộng và
nghĩa hẹp không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong
việc điều hành chính sách, trong việc thiết lập hệ thống công cụ để thực hiện
CSTT. Đơng nhiên hiểu theo nghĩa nào thì CSTT đều có một mục tiêu kinh tế xã
hội nh nhau.
Nền KTTT là một nền kinh tế năng động, luôn luôn trong trạng thái phát triển
với tốc độ nhanh và thực tế nó đã tạo ra lực lợng sản xuất nhiều hơn LLSX của tất cả
các thế hệ trớc kia gộp lại cùng với trình độ xã hội hoá rất cao tới mức độ đã làm cho
sự sản xuất và sự tiêu dùng của tất cả các nớc vợt ra khỏi phạm vi quốc gia. Việc du
nhập những công nghệ mới và quá trình chuyển giao công nghệ đã trở thành một vấn
đề sinh tử đối với tất cả các nớc trên thế giới bởi công nghệ luôn mang lại những bớc
nhảy kì diệu của sự phát triển tuy nhiên chính nó lại tạo ra những sự ràng buộc không
chỉ đơn thuần về mặt kinh tế. Những mối quan hệ toàn diện, sự phụ thuộc toàn diện
đối với nhau giữa các dân tộc, đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trớc kia
của các dân tộc đã khiến các nhà hoạch định CSTT không chỉ quan tâm thuần tuý đến

quá trình lu thông tiền tệ của quốc gia mình một cách đơn độc, tách biệt với thế giới
bên ngoài.
KTTT và hoạt động của nó tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan; mặt
khác quá trình cạnh tranh trong KTTT lại dẫn đến sự vi phạm các quy luật, vi
phạm luật pháp dẫn đến những khiếm khuyết và khuyến tật của KTTT. Các
NHTM, các doanh nghiệp... không thể thực hiện tốt chức phận của mình trớc xã
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội với sự điều khiển của bàn tay vô hình, đồng thời không thể tránh khỏi những
rủi ro trong quá trình kinh doanh đi đến phá sản và thậm chí dẫn đến sự suy thoái
toàn bộ nền kinh tế nếu nh không có một CSTT cùng với một hệ thống công cụ
của nó; một CSTT nh thế, với mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ sẽ đảm bảo khả
năng thanh toán, phát huy khả năng kinh doanh, thực hiện mục tiêu tăng trởng
kinh tế, văn minh xã hội, đã đóng một vai trò thực sự quyết định trong nền kinh tế
hiện đại.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu nh chính sách tài chính chỉ tập trung
vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khóa của nhà nớc, thì CSTT lại tập
trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm
việc đáp ứng khối lợng tiền cung ứng cho lu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và
khối lợng tín dụng đáp ứng vốn theo những quỹ đạo đã định; kiểm soát hệ thống
các NHTM; cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc
đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thơng, nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định
tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá
Một CSTT hoàn chỉnh bao gồm cả một hệ thống công cụ của nó sẽ nói lên
rằng, việc đáp ứng tiền cho lu thông không đơn thuần cho mục tiêu tăng trởng mà
đối với từng giai đoạn giữa phát triển và tăng trởng kinh tế đều đợc cân nhắc. Tín
dụng cho tăng trởng đơn giản hơn tín dụng cho phát triển vì nội dung của phát
triển chứa đựng những yêu cầu về cơ cấu kinh tế nhiều hơn là tăng trởng thuần
tuý. Cung ứng tiền cho lu thông để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị tr-
ờng, bảo vệ môi trờng sinh thái thông qua công cụ lãi suất còn khó khăn hơn nhiều

so với mục tiêu cho tăng trởng; cung ứng khối lợng tiền tệ để đảm bảo mức tăng
trởng lại là vấn đề đầy mâu thuẫn trong mục tiêu CSTT. Trong trờng hợp có mâu
thuẫn, vai trò của CSTT là phải lựa chọn một trong hai mục tiêu là ổn định tiền tệ,
không lạm phát hay giảm thất nghiệp, theo hai mục tiêu này, ngời ta phân CSTT
làm hai loại là: chính sách thắt chặt tiền tệ hay chính sách mở rộng tiền tệ. Trong
đó chính sách thắt chặt tiền tệ đợc hiểu là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế,
nhằm hạn chế đầu t, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiềm chế
lạm phát. Còn chính sách mở rộng tiền tệ đợc hiểu là việc cung ứng thêm tiền cho
nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu t phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm.
Việc sử dụng chính sách nào, thắt chặt hay thu hẹp là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh
tế xã hội cụ thể bởi lẽ kinh tế học là khoa học về sự lựa chọn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Nội dung
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của CSTT của mỗi nớc không tách rời mục tiêu kinh tế vĩ mô của
quốc gia đó. Mục tiêu kinh tế vĩ mô đợc thực hiện bằng một loạt công cụ chính
sách lớn. CSTT là một trong những chính sách đó của Nhà nớc, vì vậy trong ngoài
việc phục vụ cho mục tiêu chung, CSTT cũng có những mục tiêu của nó.
2.1.1. Mục tiêu của CSTT ở một số nớc trên thế giới
* Mục tiêu CSTT của Mỹ
ở Mỹ, ngời ta coi những mục tiêu của các chính sách kinh tế cũng là mục
tiêu của CSTT. Sáu mục tiêu đợc những ngời của dự trữ liên bang FED nêu lên th-
ờng xuyên là: 1.Công ăn việc làm; 2.Tăng trởng kinh tế; 3.ổn định giá cả; 4. ổn
định lãi suất; 5.ổn định tài chính; 6.ổn định thị trờng ngoại hối. Thực chất sáu
mục tiêu này có thể gộp lại thành bốn mục tiêu là: ổn định tiền tệ, tăng trởng kinh
tế, việc làm và cán cân thanh toán.
Ngân hàng trung ơng Mỹ có quyền độc lập khá rõ ràng và rất có thế lực, vì
vậy hộ xác định các mục tiêu đố là căn cứ vào khả năng thực tế của họ.
* Mục tiêu CSTT cộng hoà liên bang Đức

Những năm trớc đây, nền kinh tế công hoà liên bang Đức ở trong tình trạng
suy thoái và lạm phát, mức lạm phát năm 1974 lên tới 13%. Việc xây dựng CSTT
lúc đó đợc dựa trên cơ sở lý luận của học thuyết Keynes và hậu Keynes. Từ năm
1980lại đây, CSTT của cộng hoà liên bang Đức đợc xây dựng trên quan đieemr
của trờng phái trọng tiền và thuyết định hớng vào cung.
Mục tiêu CSTT của cộng hoà liên bang Đức là ổn định tiền tệ, hạn chế dần
lạm phát và tăng tốc độ lu thông tiền tệ; giảm dần tốc độ tăng giá hàng hoá; tăng
trởng kinh tế, nâng GDP với các mục tiêu trung gian là kiểm soát chặt chẽ khối l-
ợng phát hành.
* Mục tiêu CSTT của Pháp
Từ năm 1984, sau khi ban hành bộ luật về ngân hàng (24-1/1984)và bộ luật
sửa đổi vấn đề quốc hữu hoá (27-7/1984), CSTT của Pháp nhằm vào mục tiêu chủ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
yếu là ổn định kinh tế chống lạm phát với biện pháp cụ thể là kiểm soát chặt chẽ
mức tăng khối lợng tiền vào lu thông. Ngân hàng quốc gia Pháp cũng thực hiện
những mục tiêu trung gian nh: thay đổi sâu sắc cơ cấu tiền tệ và kiểm soát chặt
chẽ các chỉ tiêu khối lợng tiền (M2,M3)
2.1.2. Mục tiêu CSTT ở nớc ta
Trong giai đoạn đầu, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trờng có định
hớng XHCN, để đạt đợc các mục tiêu về tăng trởng, công ăn việc làm, ổn định giá cả,
cán cân thơng mại, Nhà nớc đã sử dụng một hệ thống chính sách gồm: chính sách tài
chính, chính sách tiền tệ, chính sách về thu nhập, kinh tế đối ngoại... Mỗi chính sách
đều góp phần cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhng mỗi chính sách đều
có mục tiêu cuối cùng của nó. Là một trong những chính sách nói trên, CSTT ở nớc ta
có mục tiêu cuối cùng của nó là ổn định tiền tệ (giữ vững giá trị đồng tiền) Mục tiêu
cuối cùng của nó có mức độ quyết định nhất định đối với các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Khi nghiên cứu mục tiêu này không thể quên mối quan hệ mâu thuẫn, tính thống nhất
và đối lập tất yếu giữa giảm lạm phát và việc làm, giữa chính sách tỷ giá và cán cân th-
ơng mại...

ở những nớc kinh tế phát triển, khi các nhà kinh tế khẳng định rằng mục tiêu
trực tiếp và là mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định tiền tệ đợc gọi là mục tiêu
tiền tệ, thì đồng thời ngời ta cũng cho rằng CSTT còn có mục tiêu gián tiếp đó là
mục tiêu kinh tế
2.1.2.1. Mục tiêu tiền tệ
Thuộc phạm vi mục tiêu tiền tệ, CSTT phải đạt đợc các mục tiêu cụ thể hay
còn gọi là các mục tiêu trung gian là: điều hoà khối tiền tệ, kiểm soát tổng số
thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật
giá và ổn định giá trị quốc ngoại cuả đồng tiền.
*Điều hoà khối tiền tệ
Đó là nhằm duy trì mối tơng quan tiền hàng đợc ổn định bằng cách giữ
nguyên, tăng hay giảm khối tiền tệ. Có một nguyên tắc tổng quát: nếu mỗi năm
nền kinh tế đều tăng trởng, thì phải tăng khối tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trởng kinh tế.
Nguyên tắc này khắc chế xu hớng ấn định khối tiền tệ cứng nhắc một lần cho
khoảng thời gian dài. Một khối tiền tệ ấn định trớc một cách chặt chẽ sẽ có tác
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng làm cho giá cả và lơng bổng giảm nêú sản xuất tăng lên. Nhng làm nh vậy sẽ
tạo ra căng thẳng trong các hoạt động sản xuất, lu thông phân phối, làm nguy hại
đến mức tăng trởng kinh tế
Khối tiền tệ hiện nay bao gồm phần lớn là tiền giấy do NHTW phát hành.
Hầu nh tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán duy nhất. Đôi khi cũng có thanh toán
bằng séc hay chuyển khoản song séc thì định mức còn chuyển khoản thì rờm rà,
khó khăn. Chính vì thành phần đơn nhất của khối tiền tệ (hầu nh chỉ duy nhất là
tiền giấy của NHTW mà việc điều hoà khối tiền tệ trớc đây chỉ chăm chú vào quản
lý tiền mặt, lãng quên chuyển khoản, tiền bút tệ. Việc điều hoà khối tiền tệ kiểu đó
không thừa nhận tiền trên các tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể rút
séc) có thể chuyển hoá thành tiền mặt, là thành phần đơng nhiên của khối tiền tệ,
thậm chí còn tìm cách ngăn chặn nguồn phát sinh tiền mặt từ các tài khoản tiền
gửi thanh toán. Đó là cách làm nghịch lý, dẫn tới việc các doanh nghiệp găm giữ

tiền mặt, gây ra phản ứng dây chuyền thiếu tiền mặt thờng xuyên trong hệ thống
ngân hàng và trong nền kinh tế. Hạn chế rút tiền mặt sẽ kích thích tâm lý không
tin vào hệ thống ngân hàng, không ai muốn gửi tiền vào ngân hàng và sẽ tự động
chuyển hoá ra đôla hoặc ra vàng, gây nên bất động hoá về vốn.
Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có ý nghĩa là điều chỉnh việc tạo ra tiền và sử
dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kì bí của hệ thống ngân
hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân
chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có việc phân chia hai loại tiền: tiền
NHTW và tiền ngân hàng. Tiền NHTW là tiền do NHTW độc quyền phát hành.
Tiền ngân hàng (còn gọi là tiền tín dụng hay bút tệ) là tiền do các NHTM tạo ra
thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền trên các tài khoản
thanh toán séc. Nó đợc tạo ra nh là sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng
(thông qua hệ số tạo tiền)
Hệ thống NHTM không thể tạo tín dụng từ h không mà phải dựa vào tiền
NHTW. Mức tạo tiền tín dụng do hệ số tạo tiền hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc quyết
định. Một đồng tiền NHTW mà NHTM huy động đợc tạo khả năng cho NHTM
cung ứng cho nền kinh tế số tiền tín dụng gấp nhiều lần; ngợc lại mức cung tiền
tín dụng của NHTM cũng giảm gấp nhiều lần khi tiền NHTW trong tay họ giảm
đi. Cơ chế tạo ra tiền của NHTM xuất phát từ hai nguồn: Một là tiền gửi của công
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chúng và hai là sự cho vay của ngân hàng. Chính vì khả năng tạo ra bút tệ (tiền tín
dụng) của các NHTM trong việc điều hoà khối tiền tệ, NHTW thờng kiểm soát
khối dự trữ của NHTM và theo dõi tỷ số giữa số dự trữ của ngân hàng này với tổng
số tiền gửi.
Để điều hoà khối tiền tệ, NHTW sử dụng các phơng tiện trực tiếp và gián
tiếp. Những phơng tiện trực tiếp có ảnh hởng thẳng đối với khối tiền tệ lu hành -
bao gồm: kiểm soát các NHTM; nắm quyền quyết định về nhập khẩu vàng; ngăn
chặn và hạn chế các luồng ngoại tệ nhập vào ngoài pháp luật....Phơng pháp này th-
ờng sử dụng các mệnh lệnh hành chính - điều này không hề mâu thuẫn với cơ chế

thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Những phơng tiện gián tiếp có ảnh hởng
không chắc chắn, ảnh hởng có xảy ra hay không là tuỳ ở phản ứng của các đối t-
ợng, bao gồm: tăng hay giảm lãi suất chiết khấu; chính sách thị trờng mở và chủ
yếu thực hiện thông qua cơ chế thị trờng mà công cụ chủ yếu trong cơ chế thị tr-
ờng lại là công cụ lãi suất
Nh vậy, thông qua việc cung ứng tiền trung ơng và các phơng tiện trực tiếp hoặc
gián tiếp, NHTW có khả năng điều hoà khối tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế.
* Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (MV)
Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thuần có nhợc điểm là không lu ý tới tốc độ
lu hành tiền tệ. Cái gì ảnh hởng mạnh mẽ đến vật giá, không chỉ có khối tiền tệ M,
mà còn có tốc độ lu hành tiền tệ V nữa. Vậy kiểm soát khối lợng M cha đủ, mà
phải lu ý tới V, hay đúng hơn là kiểm soát MV mà ngời ta gọi là trào lợng tiền tệ,
tức là tổng số lợng tiền tệ dùng để chi trả trong khoảng thời gian nhất định.
Nhng việc kiểm soát MV rất khó, bởi vì tuỳ thuộc vào cách hành động của
các chủ thể kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ. Nó tuỳ thuộc vào niềm tin của
những ngời này đối với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những
cơ hội làm ăn sinh lời, khuynh hớng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính
sách kinh tế của Nhà nớc. Ngoài ra, còn tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của
ngân hàng, trình độ kỹ thuật ngân hàng, mức độ tin tởng của dân chúng đối với
ngân hàng.
ở những nớc công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân hàng đợc sử dụng rộng
rãi, các chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán. tổng số thanh toán các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cuộc giao dịch bằng phơng tiện này lên đến 70-80% trên tổng số thanh toán của
dân c. Vì vậy, NHTW kiểm soát số chi trả của xã hội qua hệ thống ngân hàng
bằng cách tính tổng trị giá séc đa đi giao hoán tại NHTW và theo dõi sự biến
chuyển của nó. ở nớc ta, việc dùng séc trong dân c ít thông dụng, dùng tiền mặt
để chi trả là phổ biến, cho nên một khối tiền mặt rất lớn lu thông bên ngoài hệ
thống ngân hàng, vợt ra ngoài tầm kiẻm soát của NHTW. Đó là đầu mối gây bất

ổn cho nền kinh tế một cách đột biến và cũng là lý do cần phải thu hút lợng tiền
trong tay dân c vào hệ thống ngân hàng dới hình thức tiền gửi không kỳ hạn hoặc
dùng séc để thanh toán - là một yếu tố cần thiết để cho việc thực thi CSTT đợc hữu
hiệu.
* Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật giá
Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ
trong nớc. Sức mua của đồng tiền biến đổi ngợc chiều với vật giá. Khi mức vật giá
chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm. Ngợc lại, khi mức vật giá chung
giảm, sức mua của đồng tiền tăng. Sức mua đồng tiền tăng khi mức vật giá chung
giảm chỉ là điều đáng mừng khi nào do năng suất chung tăng lên. Thật vậy, trong
trờng hợp này, nhà sản xuất tuy bán lẻ với giá hạ hơn, nhng vẫn có lời vì nhờ năng
suất tăng, giá thành mỗi đơn vị sản phẩm vẫn thấp hơn giá bán. Nhà sản xuất có
lời, họ vẫn tiếp tục sản xuất, chẳng những duy trì đợc việc làm mà còn có thể tăng
thu nhập cho nhân viên, nếu đó là do năng suất lao động tăng. Trái lại, nếu vật giá
chung giảm không do năng suất mà do mức cầu trên thị trờng giảm lại là một biểu
hiện đáng lo. Vật giá giảm tuy sức mua của đồng tiền tuy có tăng nhng đó chỉ là
tăng nhất thời, vì ngời sản xuất có thể rơi vào tình trạng lỗ lãi. Họ có thể xét lại kế
hoạch sản xuất, có thể sẽ bớt nhân công bớt số lợng sản xuất nếu tình trạng hạ giá,
hàng hoá tồn đọng kéo dài. Tình hình đó mà lan rộng, thất nghiệp sẽ trầm trọng,
làm giảm số cầu của thị trờng, làm cho kinh tế suy thoái thêm. Do đó, CSTT phải
nhằm đảm bảo mức vật giá chung ổn định. Sự ổn định của vật giá là điều cần thiết
để mọi ngời đợc an tâm, tin tởng trong việc tính toán đầu t, vì đầu t là cuộc tính
toán lâu dài. Vậy cần có sự ổn định lâu dài mới khuyến khích sức đầu t. Trong tr-
ờng hợp không duy trì đợc sự ổn định, một mức vật giá tăng hàng năm ở mức 2%
hay 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển mà CSTT có thể chấp nhận đợc.
Lẽ tất nhiên, một CSTT có thể tác động tới sự gia tăng năng suất trong hoạt động
sản xuất của các chủ thể kinh tế vẫn là điều mong mỏi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* ổn định trị giá quốc ngoại của đồng tiền

Giá trị quốc ngoại của đồng tiền thờng đợc đo lờng bởi tỷ giá hối đoái thả
nổi. Trớc đây nhiều nớc đo bằng tỷ giá chính thức, những sự đo lờng đó là không
chính xác về mặt quy luật kinh tế cũng nh về thực tế biến động thờng xuyên của
thị trờng
Một sự biến động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều đều ảnh hởng tới hoạt động
kinh tế trong nớc tuỳ theo mức độ hớng ngoại của nền kinh tế. Trái lại, mọi biến
chuyển về tiền tệ cũng tác động tới mối tơng quan giữa tiền tệ trong nớc với tiền tệ
nớc ngoài. Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị tr-
ờng và chính sách ngoại hối, tình hình giá cả trong nớc. Do đó, một CSTT nhằm
ổn định kinh tế trong nớc cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá
hối đoái. Về phơng diện tiền tệ, khối dự trữ ngoại hối, thị trờng vàchính sách hối
đoái, tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tệ.Cụ thể sẽ đợc
xem xét ở phần sau
2.1.2.2 Mục tiêu kinh tế
CSTT - là một trong những công cụ quản lý vĩ mô, vì vậy nó còn nhằm đến mục
tiêu chung của nền kinh tế đó là mục tiêu kinh tế với hai nội dung chính sau:
- Tăng trởng kinh tế, trong đó có mục tiêu đạt đến mức nhân dụng cao
- Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế
* Mục tiêu tăng trởng kinh tế
Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò tác động của tiền tệ
đối với tăng trởng kinh tế. Tuy nhiên cùng thống nhất chung về tác động của lãi
suất và số cầu tổng hợp của khối tiền tệ trên mức tăng trởng đó. Tác động đó thể
hiện thông qua hai hớng:
Một là, khi khối tiền tệ M tăng, nói chung nó có tác dụng làm giảm lãi suất
điều này sẽ khuyến khích đầu t, kết quả là tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Và
nếu tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội lớn hơn nhịp gia tăng dân số, sẽ có tăng tr-
ởng kinh tế.
Hai là, sự gia tăng khối tiền tệ đa đến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp: các
thành phần dân c có nhiều tiền hơn sẽ có xu hớng tiêu thụ nhiều hơn và mãi lực
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
trên thị trờng tăng, điều này giúp giải quyết đợc những mặt hàng tồn đọng, làm
cho các doanh nghiệp tăng gia sản xuất, hàng hoá lu thông, phân phối với nhịp
điệu rộn nhịp hơn. Đến một lúc nào đó, doanh nghiệp cũng tăng thêm việc mua
sắm máy móc, trang thiét bị, nhà xởng.... Cả hai sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và
về sản phẩm đầu t đều tăng, từ đó tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Và nếu mức
gia tăng đó lớn hơn nhịp gia tăng dân số, sẽ có tăng trởng kinh tế.
Trong cả hai trờng hợp, đều có sự gia tăng nhân dụng, vì đây là một trong ba
yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định số lợng sản xuất đồng thời nhân công là
yếu tố đợc tăng lên trớc khi xí nghiệp gia tăng sản xuất. Đối với xí nghiệp quản lý
có hiệu quả, việc tuyển dụng thêm nhân công chỉ xảy ra khi số nhân lực hiện hữu
đợc tận dụng. Nh vậy, muốn đạt đợc mục tiêu tăng trởng kinh tế, ngoài việc gia
tăng khối tiền tệ trong CSTT, cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu t sản xuất để
đạt đến mức toàn dụng nhân công.
* Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế
Theo các quy luật kinh tế, sự cân bằng chỉ là tạm thời, tơng đối. Sự tăng trởng
kinh tế cũng vậy. Không một quốc gia nào đạt đợc một mức độ tăng trởng thờng
xuyên đều đặn, kéo dài mãi với thời gian; cũng nh không có đợc một hiện tợng
lạm phát ỳ mãi đợc mà thờng có sự xâm nhập tự nhiên của các loại lạm phát cầu
kéo hoặc lạm phát chi phí đẩy. Lý do cơ bản là số cầu dù tiếp tục gia tăng nhng số
cung không thể đáp ứng kịp thời, liên tục mãi mãi. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố,
đáng kể trớc tiên là nhân công. Khi nền kinh tế tăng trởng liên tục và đến một lúc
nào đó nhân công trở nên khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất. Đó là cha kể
nguyên liệu có thể cũng khan hiếm. Sự khan hiếm của yếu tố này sẽ góp phần
trong việc nâng cao gía thành và giá bán trên thị trờng. Vào thời điểm này, nếu
khối lợng tiền tệ tiếp tục gia tăng mà không kiềm chế, số cầu tăng mạnh, hậu quả
tất yếu làm tăng vật giá, tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Tình hình
đó buộc phải giảm bớt khối tiền tệ, từ đó làm giảm số cầu, làm giảm khuynh hớng
tiêu thụ của dân c. Hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngng trệ. Trớc tình hình
này, các đơn vị sản xuất hàng hoá bán chậm lại, hàng tồn kho tích luỹ ngày càng

nhiều, tất sẽ có phản ứng là giảm bớt sản xuất. Trong trờng hợp tiên đoán tình hình
tiêu thụ trên thị trờng xấu nhiều hơn nữa và có tính cách lâu dài, họ phải sa thải
bớt nhân công, sau một thời gian nghỉ giảm lơng. Nhân công thất nghiệp, giảm thu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập, giảm tiêu pha, kéo theo suy giảm trong khối lợng sản xuất. Không ai chịu
đầu t trong tình huống thế này và tình trạng suy thoái sẽ tiếp tục lan rộng. Để chặn
đứng suy thoái, NHTW sẽ phải thi hành CSTT mở rộng, khuyến khích các ngân
hàng cho vay để nâng số cầu lên, giúp các nhà sản xuất nhìn nhận lạc quan trên thị
trờng. Nhân công thất nghiệp nhiều và lâu ngày nên giá thuê công nhân sẽ rẻ, hàng
tồn kho giảm dần khiến cho nhu cầu đầu t tăng lên. Những sự kiện đó đa nền kinh
tế từ giai đoạn suy thoái sang giai đoạn phục hng. Lúc này tiền đợc rót thêm vào
guồng máy kinh tế, kích thích tiêu thụ tăng mạnh, kéo theo sức gia tăng trong số l-
ợng đầu t, trớc tiên là thay thế máy móc h hỏng, rồi dần dần đổi mới guồng máy
sản xuất. Từ đó có khả năng nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phục hng sang giai
đoạn tăng trởng mạnh.
Trong nền KTTT hiện đại, NHTW bằng những phơng tiện thông tin, dữ liệu
và nhạy cảm của mình, phải sử dụng các công cụ của CSTT đúng lúc, kịp thời. Có
thể cùng một lúc sử dụng nhiều công cụ nh lãi suất chiếu khấu, lãi suất tín dụng,
hoạt động thị trờng mở.... để ngăn chặn ngay suy thoái hoặc kìm hãm ngay sự tăng
trởng, khi nền kinh tế bắt đầu đến điểm " nóng ", không để tăng trởng vợt mức
tiềm năng.
Vai trò, mục tiêu của CSTT trong việc làm giảm thấp những thăng trầm chu
chuyển kinh tế,vì thế đã có một ý nghĩa quan trọngtrong việc thực hiện mục tiêu
kinh tế-xã hội
2.2. Các công cụ truyền thống của CSTT
Nếu nh trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, NHTW điều hành CSTT bằng các
công cụ trực tiếp, các chỉ tiêu pháp lệnh... thì trong nền KTTT, với hệ thống ngân
hàng hai cấp và các trung gian tài chính đa dạng, NHTW phải điều hành CSTT
bằng các công cụ kinh tế thích hợp, gồm các công cụ truyền thống, các công cụ hỗ

trợ và các công cụ trung gian thích hợp với điều kiện trong từng giai đoạn ở mỗi n-
ớc.
2.2.1. Công cụ truyền thống của các nớc
* Dự trữ bắt buộc
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM có khả năng biến những
khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này,
NHTW buộc các NHTM phải trích một phần tiền huy động đợc, theo một tỷ lệ
quy định, gửi vào NHTW không đợc hởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công
cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế mức cung tiền thông qua khả năng tạo tiền,
hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các NHTM. (cụ thể sẽ đợc trình bày ở chơng
sau)
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lợng phơng tiện thanh toán cần khống
chế (bị " vô hiệu hoá " về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi, nhằm điều chỉnh
khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các NHTM.
Nếu NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm hạn chế khả năng cho vay và khả
năng thanh toán của các NHTM đồng thời khối lợng tín dụng trong nền kinh tế sẽ
giảm. Ngợc lại, nếu NHTW hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tức khả năng tạo tiền, thì
cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên; khối lợng tín dụng và khối lợng thanh
toán có xu hớng tăng, và có xu hớng mở rộng khối lợng tiền.
Do tính chất và tác dụng nh vậy nên tại các nớc NHTW có quy định, phân
biệt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc: tiền gửi tiết kiệm
có tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất, sau đó là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ
hạn là có tỷ lệ cao nhất.
* Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phơng thức để NHTW đa tiền vào lu thông, thực hiện vai trò
ngời cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, NHTW đã tạo cơ sở đầu
tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh

toán.
Trong hoạt động của các NHTM, những nguồn vốn huy động đợc thờng đợc
sử dụng vào các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp có thể bằng hình thức chiết
khấu (mua lại) thơng phiếu; mua ngoại tệ, mua tín phiếu kho bạc v.v... Vì vậy đến
khi có những nhu cầu trớc mắt về vốn, NHTM phải đến NHTW xin tái cấp vốn dới
hình thức tái chiết khấu các kỳ phiếu, các giấy tờ có giá trị nói trên. Tái chiết khấu
là đầu mối tăng tiền trung ơng, tăng khối tiền tệ vào lu thông. Do đó ảnh hởng trực
tiếp đến quá trình điều khiển khối lợng tiền tệ và điều hành CSTT.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện CSTT
trong giai đoạn ấy; cần thực hiện chính sách " nới lỏng " hay " thắt chặt " tín dụng
mà NHTW quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời
kỳ phải có tác dụng hớng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai
đoạn đó. Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, buộc các NHTM cũng phải nâng
lãi suất tín dụng (lãi suất chiết khấu) của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất
tín dụng tăng lên làm " cầu " về tín dụng sẽ giảm và đơng nhiên kéo theo giảm cầu
tiền tệ. Trờng hợp ngợc lại, tức là NHTW kích thích tăng về " cung ". ở các nớc,
công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thơng phiếu hoặc các loại
tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trờng tiền tệ và thị trờng vốn.
* Hoạt động thị trờng mở
Nếu nh công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là
NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đa thơng phiếu, kỳ phiếu... đến để xin " tái
cấp vốn " thì nghiệp vụ thị trờng mở là công cụ chủ động của NHTW để điều
khiển khối lợng tiền tệ
Qua nghiệp vụ thị trờng mở, NHTW chủ động việc phát hành tiền trung ơng
vào lu thông (làm tăng khối lợng tiền cơ sở) bằng cách mua trái phiếu hoặc rút bớt
tiền khỏi lu thông (làm giảm khối lợng tiền cơ sở) bằng cách bán trái phiếu trên thị
trờng này. Bằng cách này, NHTW không những điều khiển đợc khối lợng tiền tệ
mà thông qua " giá cả " mua - bán trái phiếu để điều khiển lãi suất tín dụng. Thực

tế, ta thấy rằng giá cả trái phiếu và lãi suất tín dụng có mối quan hệ ngợc chiều.
Khi giá trái phiếu tăng lên tức chi phí và rủi ro của việc nắm giữ trái phiếu giảm
xuống, do vậy cầu về trái phiếu sẽ giảm điều đó cũng đồng nghĩa với việc cầu về
tiền sẽ tăng, ngời ta sẽ thích giữ tiền hơn và lãi suất sẽ giảm.
2.2.2. Công cụ bổ trợ: can thiệp thị trờng hối đoái
ở một số nớc, trong những thời kỳ cần thiết, NHTW sử dụng công cụ can
thiệp thị trờng hối đoái nhằm hỗ trợ cho các công cụ khác của CSTT.
Khi can thiệp thị trờng hối đoái, NHTW điều khiển khối lợng tiền tệ bằng
cách mua vào hay bán ra các loại ngoại tệ hoặc vàng. Sự ổn định tơng đối của
đồng tiền một nớc đợc đánh giá bằng sự ổn định tơng đối của tỷ giá hối đoái. Trớc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đây, một số nớc sử dụng cơ chế tỷ giá cứng nhng cách này không phản ánh thực tế
những biến động thờng xuyên trên thị trờng tiền tệ.
Một sự biến động tỷ giá dù không lớn nhng cũng ảnh hởng đến kinh tế
trong nớc tuỳ theo mức độ hoà nhập với kinh tế thế giới bên ngoài. Ngợc lại,
những biến động về tỷ giá cũng tác động tới mối tơng quan tiền tệ trong nớc với
tiền tệ nớc ngoài.
Tỷ giá bị chi phối bởi cung - cầu ngoại hối trên thị trờng, chính sách ngoại
hối; ngoài ra còn bị chi phối bởi giá cả nội địa. Khi sử dụng công cụ can thiệp thị
trờng hối đoái, NHTW thờng xem xét đến các vấn đề về chính sách hối đoái, tỷ
giá, dự trữ ngoại tệ và thị trờng hối đoái.
Dữ trữ ngoại hối: mỗi nớc đều có khối lợng dự trữ ngoại hối, lớn hay nhỏ tuỳ
theo khả năng của nền kinh tế nớc đó có thể tạo lập đợc nhiều hay ít. Nó là kết quả
của tổng số thu và chi ngoại tệ (kể cả vàng) của một nớc trong một thời hạn nhất
định, thờng là một năm. Dự trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chi, bất kể thu, chi
ngoại hối vì lý do gì. Điều đó có đợc khi NHTW mua bán ngoại hối: NHTW mua
ngoại hối, khối tiền tệ tăng thêm; ngợc lại khi bán ngoại hối, khối tiền tệ sẽ giảm-
nếu những yếu tố khác không đổi. Vì vậy, đây là một yếu tố để góp phần ổn định
tiền tệ vì trong khối lợng ngoại hối dự trữ có một bộ phận đợc dành để thực hiện

nhiệm vụ quỹ bình ổn. ở nhiều nớc trớc đây chính phủ quy định tỷ lệ quan hệ giữa
ngoại hối dự trữ và khối lợng tiền tệ trong lu thông chính là do trớc đây phần lớn
dự trữ ngoại hối là quỹ bình ổn.
Thị trờng hối đoái: là nơi mua-bán ngoại tệ. Trong một nớc mà thị trờng hối
đoái tổ chức quá đơn sơ sẽ làm cho NHTW chẳng những không thể tích luỹ đợc dự
trữ ngoại hối, mà cũng không chủ động đợc nguồn cung ứng tiền tệ cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này khi có nhu cầu ngoại tệ lại đi mua ngoại
tệ trôi nổi trên thị trờng không tổ chức bằng lợng tiền đồng Việt Nam mà hậu quả
cuối cùng là số lợng tiền đồng lớn luân lu ngoài hệ thống ngân hàng - một yếu tố
làm tăng áp lực vay tiền ngân hàng để bổ sung nguồn vốn lu động và NHTM lại
thiếu tiền. Từ đó áp lực trên nhu cầu phát hành tiền sẽ gia tăng.
Chính sách hối đoái:Trên nguyên tắc, nớc ta áp dụng chính sách ngoại hối có
quản lý chặt chẽ. Điều 51 - pháp lệnh NHNN nêu rõ: tất cả các tổ chức - cá nhân
có ngoại tệ đều phải bán cho ngân hàng, đợc phép kinh doanh ngoại hối và nếu có
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhu cầu thì mua ngoại tệ tại ngân hàng (các tổ chức thì có thể mua ngoại tệ tại thị
trờng hối đoái trong nớc) Nhng trên thực tế, các tổ chức-cá nhân lại có thể mua
bán ngoại tệ trôi nổi ngoài những nơi đã chỉ định ở trên vì vậy mà có một lợng lớn
ngoại tệ đang luân chuyển bên ngoài ngân hàng. Lại nữa, chúng ta đang tổ chức
thị trờng mua-bán ngoại tệ với tỷ giá dựa trên cơ sở cung-cầu thị trờng, đồng thời
vẫn duy trì đợc cơ chế tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, để rồi
nhận lấy hết những rủi ro không đáng có. Xin đa ra đây một nghịch lý: trong khi
chúng ta đang khuyến khích thu hút ngoại tệ vào trong nớc để đầu t phát triển kinh
tế, nhng với cơ chế và cách làm của ta, chúng ta phải mang ngoại tệ ra gửi ở nớc
ngoài, vô tình đã làm lợi cho những nớc có ngoại tệ đó. Nhìn theo một khía cạnh
nào đó thì những vấn đề nêu trên là một điều hại vì NHTW qua hệ thống ngân
hàng trung gian không mua đợc nhiều ngoại tệ cho nhu cầu của mình. Và nh vậy,
khả năng điều hoà lu lợng tiền tệ và một lợng ngoại tệ đang nằm bên ngoài thẩm
quyền điều tiết cuả hệ thống ngân hàng. Trái lại, nhìn ở khía cạnh khác, điều đó

cũng có mặt thuận lợi là giảm gớt căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ của những đơn
vị sản xuất kinh doanh. Một chính sách độc quyền hối đoái cứng nhắc sẽ không
tránh khỏi những căng thẳng nói trên. Đó là điểm cần lu ý khi thiết lập một thị tr-
ờng hối đoái có tổ chức trong tơng lai với những quy định sao cho uỷen chuyển
thích hợp với tình hình thực tế trong nớc mà không cản trở sản xuất, kinh doanh.
Tỷ giá hối đoái: là giá cả của ngoại tệ đợc biểu hiện bằng đồng tiền quốc gia
(đồng bản tệ). Là một loại giá cả nên cũng giống nh các bất kỳ một giá cả nào
khác, chức năng kinh tế của nó là nhằm ảnh hởng đến sự phân bố các nguồn tài
nguyên thực sự.Tỷ giá hối đoái là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, cũng là đòn
bẩy kinh tế tác động mạnh đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu,
nhập khẩu trong nớc.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp có tác dụng khuyến khích nhập khẩu nhng gây
bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tơng đối đắt, khó bán ra nớc ngoài - tức là
gây trở ngại cho ngành sản xuất trong nớc hớng về xuất khẩu, bất lợi cho những
cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nớc ngoài vào trong nớc, khối lợng dự trữ ngoại hối
dễ bị xói mòn.
Ngợc lại, một tỷ giá hối đoái cao bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất
khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn để cạnh tranh trên
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thị trờng quốc tế, dễ tìm đợc thị trờng hơn. Do đó những ngành sản xuất có
nguyên liệu nhập khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại, trong khi ngành
sản xuất hàng cho thị trờng nớc ngoài thuận lợi hơn, lu lợng ngoại tệ có khuynh h-
ớng chuyển vào trong nớc khá hơn, khối lợng dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Vì
vậy muốn tỷ giá hối đoái hợp lý thì tỷ giá phải đợc phản ánh trong cơ cấu giá cả
nội địa, phù hợp với CSTT thời kỳ đó.
Mức tỷ giá quá cao hay quá thấp là so với tỷ giá thực tế đợc quyết định bởi cung
cầu ngoại tệ trên thị trờng hối đoái hay thị trờng đen (nơi nào không có thị trờng hối
đoái tự do). Tỷ giá hối đoái cao hay thấp là tỷ giá do NHTW ấn định và cố định, còn tỷ
giá hối đoái trên thị trờng tự do hoàn toàn không có sự can thiệp của NHTW, là tỷ giá

thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trờng quyết định.
Thế giới đã trải qua một thời kỳ khá lâu áp dụng tỷ giá hối đoái ấn định, cố
định từ thập niên 30 đến giữa thập niên 70. Từ năm 1973, nhiều nớc công nghiệp
hàng đầu đã thử nghiệm tỷ giá hối đoái thả nổi và sau đó áp dụng tỷ giá hối đoái
thả nổi có " quản lý ". Đến năm 1976, các nớc phơng Tây đã đạt đợc một thoả hiệp
Jamaica, công khai chấp nhận hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, vì cả hai
tỷ gía cố định cứng nhắc và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có hạn chế tác động lên
nền kinh tế trong nớc và sự chuyển dịch tài nguyên ngoại tệ trên bình diện quốc tế.
Theo hệ thống đó, NHTW can thiệp để giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng
trầm qúa đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nớc.
NHTW can thiệp trên thị trờng hối đoái bằng cách tham gia mua hay bán ngoại tệ để
duy trì tỷ giá hối đoái biến đổi trong một biên vực không quá lớn, nhờ đó chế ngự bớt
tác động đối với nền kinh tế trong nớc. Khi giá ngoại tệ lên cao, NHTW đa ngoại tệ
ra bán đẻ làm chậm bớt nhịp tăng giá ngoại tệ. Dĩ nhiên điều đó chỉ làm đợc khi dự
trữ ngoại hối còn ở mức độ tơng đối khả quan. Ngợc lại, khi giá ngoại tệ xuống quá
thấp, NHTW sẽ dùng tiền trong nớc mua ngoại tệ vào để duy trì một biên vực biến
đổi ít tác động mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nớc, nhất là để tái tạo khối dự trữ
ngoại tệ đã bị thiếu hụt.
3. Vai trò của CSTT trong nền KTTT
Trong nền kinh tế vĩ mô có bốn lĩnh vực đóng vai trò trọng tâm và cũng là
bốn mục tiêu tổng quát, đó là sản lợng cao, tạo nhiều công ăn việc làm, ổn định
mức giá thị trờng tự do và cân bằng cán cân ngoại thơng. Để đạt đợc những mục
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiêu đó, kinh tế vĩ mô cũng đòi hỏi cho mình một hệ thống công cụ chính sách lớn,
mang tính chất bao trùm.
Cùng với chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại...
CSTT quốc gia xuất hiện trên vũ đài khoa học kinh tế thế giới, nh một đòi hỏi tất
yếu khách quan trớc những bớc thăng trầm của toàn bộ nền kinh tế ở tất cả các n-
ớc trong những thế kỷ vừa qua. Trong suốt thời gian đầy rẫy những thăng trầm đó,

nhân loại đã phát hiện đầy đủ những khuyết tật của cơ chế thị trờng trên tất cả các
phơng diện, nh trình độ tự phát cao đã phát sinh tác dụng điều tiết mù quáng; cách
chạy theo lợi nhuận tối đa, dẫn tới lừa đảo, tội ác, vi phạm pháp luật, đồng tiền chi
phối các quan hệ xã hội, quan hệ chính trị, phân hoá giàu nghèo ngày một tăng,
bất công xã hội phát triển; phá huỷ môi trờng sinh thái... Thế giới văn minh ngày
nay càng thấy rõ hơn bao giờ hết các khiếm khuyết và khuyết tật đó, nên không ai
phủ nhận vai trò của Nhà nớc trong các hoạt động quản lý vĩ mô, không ai chuyển
giao quyền lực điều hành tự giác của con ngời, mà đại diện là Nhà nớc sang cho
bàn tay vô hình của cơ chế thị trờng thuần tuý. CSTT quốc gia là một trong những
công cụ quản lý vĩ mô đó.
Chúng ta đã biết, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là một hàm số có nhiều
biến số, nh năng lực sản xuất, cung-cầu xã hội...Trong nền KTTT, tổng sản phẩm
quốc dân, mức tăng trởng kinh tế ổn định thờng xuyên chủ yếu do sự ổn định tơng
đối giữa cung - cầu thị trờng hàng hoá quyết định. Cung cầu hàng hoá xã hội lại đ-
ợc quyết định bởi giá cả, thu nhập (trong đó một phần thu nhập có liên quan trực
tiếp đến việc làm hoặc thất nghiệp) và nhiều yếu tố khác. Tất cả yếu tố đó không
thể nằm ngoài tổng thể cung cầu và khối lợng tiền tệ.
Trong nền KTTT, quan hệ cung-cầu là một phạm trù khách quan, nó có tác
dụng chi phối ý chí của những thể nhân hoạt động trong thị trờng tác động một
cách khách quan với t cách là một quy luật, mà là quy luật khởi phát. Quy luật
cung-cầu tác động vào giá cả, lợi nhuận, cạnh tranh, quy mô sản xuất, công ăn
việc làm... và đều hớng tới mục tiêu nâng cao phúc lợi cho từng cá nhân và từ đó
làm lợi cho toàn xã hội. Và tuy là thông thờng mỗi cá nhân không có chủ định
củng cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở
mức nào. Cá nhân này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn và thành quả riêng của
mình. Trong khi đó, dới lợi ích của mình, anh ta thờng bảo vệ luôn lợi ích của xã
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội một cách hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này nh Adam Smith đã
nhận xét. Đó chính là do sự chi phối của quy luật cung cầu mà ông gọi là bàn tay

vô hình.
Nh chúng ta đã biết, trong kinh tế vĩ mô, giá cả đợc xác định bởi giao điểm giữa
đờng cung và đờng cầu. Do đó, khi có sự thay đổi về cung hay về cầu, điểm giao
nhau sẽ thay đổi nghĩa là giá cả sẽ thấp hơn hoặc cao hơn. Tuy nhiên, khi cả cung và
cầu hàng hoá đều tăng thì giao điểm đó có thể không đổi trị số tung độ, nghĩa là giá
cả không đổi song khối lợng tiền tệ cung ứng tăng lên, thu nhập và việc làm tăng, sản
lợng tăng, tổng GNP tăng. Trờng hợp này là kết quả của việc điều hành CSTT, điều
khiển khối lợng tiền tệ cung ứng tăng lên phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, phù
hợp với mức tăng trởng, và còn có thể hài hoà với mức thu nhập và đảm bảo việc làm.
Đó là một quá trình tác động theo phản ứng dây chuyền trong nền kinh tế. Vì khi
NHTW tăng mức cung hợp lí về tiền tệ trong điều kiện nếu sản xuất đang ở dới mức
tiềm năng; vốn tín dụng trở nên dồi dào, lãi suất tín dụng có xu hớng giảm xuống.
Kết quả là việc tìm những dự án đầu t mới trở nên có lợi hơn, do đó số vốn đầu t tăng
lên làm tăng sản lợng.
Nếu NHTW tăng mức cung của tiền tệ lên thì sẽ dẫn đến mức đầu t cao hơn
và do vậy, tổng mức cầu tăng lên gấp đôi. Khoa học kinh tế hiện đại đã chứng
minh mối quan hệ giữa sản lợng tiềm năng với tổng mức cung, tổng mức cầu rằng:
khi sản lợng và tỉ lệ có việc làm ở mức rất cao (vì vậy tỉ lệ thất nghiệp ở mức rất
thấp) thì lạm phát (và giá cả) bắt đầu tăng mạnh; tơng tự nh vậy khi thất nghiệp ở
mức độ cao thì lạm phát giảm xuống. Nếu thất nghiệp giảm xuống dới mức bản lề
hay dới mức tỉ lẹ tự nhiên thì lạm phát bắt đầu tăng. Lịch sử kinh tế nhiều nớc
cũng đã chứng kiếm, nếu việc tăng mức cung về tiền tệ trong một cuộc suy thoái
thì GNP thực tế tăng tơng đối mạnh, còn giá cả thì tăng chút ít. Nhng khi tổng sản
lợng đã đến mức tối đa tức là khi sản lợng tiềm năng sản xuất thực tế đã tơng ứng
với tỉ lệ thất nghiệp thì việc thay đổi lợng tiền ít có tác động đối với việc thay đổi
sản lợng thực tế.
Để ngăn chặn khả năng lạm phát, NHTW sẽ sử dụng các công cụ của CSTT
để thu hẹp tổng mức cung tiền tệ (qua hoạt động thị trờng mở) và sẽ đẩy lãi suất
tăng lên. Việc này làm giảm khối lợng đầu t, làm giảm tổng mức cầu, do đó làm
giảm sản lợng; trong trờng hợp này, giá cả cũng giảm xuống. Đó là tất cả những

Website: Email : Tel : 0918.775.368

×